← Quay lại trang sách

- 18 -

Những ngày đầu, Goldmund ở một phòng lữ khách trong nhà tu. Rồi sau theo lời thỉnh cầu người ta để y ở một gian cạnh lò rèn trong dẫy nhà phụ bao quay cái sân lớn như một khu chợ.

Trở về đây y thấy cảnh vật quyến rũ y mạnh mẽ đến nỗi thỉnh thoảng y phải lấy làm ngạc nhiên, Ở đây không ai biết y cả, trừ viện trưởng không người nào biết y là ai. Ở đây các sư huynh và người không phải tu sĩ đều sống cuộc đời có kỷ luật, họ rất bận công việc nên cũng không làm bận rộn đến y. Nhưng cây cối trong sân cổng vào và cửa sổ cái cối xay với bánh xe tròn, thềm lát đá ngoài hành lang, bụi hồng tàn lụi ngoài sân bóng mát, tổ cò trên vựa lúa mì phòng ăn, mọi vật đều thân thuộc với y. Đến chỗ nào hương thơm quá khứ, kỷ niệm thiếu thời cũng hiện lên với y rất êm dịu và cảm động. Trái tim tràn ngập yêu thương, y muốn ngắm lại hết, muốn lắng tai nghe hết mọi tiếng động, nghe tiếng chuông chiều cũng như nghe tiếng chuông ngày chủ nhật, nghe tiếng tích tắc cối xay âm thầm chuyển động dưới bờ tường hẹp phủ rêu, nghe tiếng giày dép kéo lê trên sàn đá, tiếng thìa khóa khua động khi người canh cửa đi đóng cảc cửa ngõ. Gần cống đá dẫn nước, nước mưa trên nóc phòng ăn của học trò trút xuống đó, vẫn những thứ cỏ nhỏ như phong thảo và mã đề chen nhau mọc, cây táo đã cỗi trong vườn lò rèn vẫn giương những cành cong queo ra xa. Nhưng y cảm động nhất là tiếng chuông nhà trường báo giờ ra chơi, tất cả học trò trong tu viện chen nhau xuống cầu thang ào ra sân. Những khuôn mặt con nít ngây độn biết bao! Có thể thế được chăng? Ngày xưa y cũng trẻ ranh, vụng về, dĩnh ngộ và dại dột như thế chăng?

Nhưng bên cạnh nhà tu quen thuộc ấy y thấy một nhà tu khác mà y gần như chưa biết tới. Ngay từ những ngày đầu, y đã phải chú ý, rồi hình ảnh mới mẻ này trở nên quan trọng, mãi sau mới dần dần hòa lẫn với hình ảnh cũ. Bởi vì, tuy không có cái gì thêm vào những cái đã có từ năm y còn ở nhà trường, tuy cái gì cũng y nguyên từ một trăm năm nay hay hơn nữa, nhưng ngày nay y không còn nhìn cảnh vật với con mắt của cậu học trò. Y khám phá ra, y ý thức được tỷ lệ của các công thự, nếp uốn vòng cung của nhà thờ, những bửc họa cổ, những tượng đá và tượng gỗ trên ngai thờ, ngày xưa những vật ấy, cũng ở chỗ ấy, không có gì khác nhưng bây giờ y mới ý thức được vẻ đẹp và tinh thần chỉ đạo sự sáng tác. Pho tượng Đức Mẹ cổ bằng đá ở trong nhà nguyện, y đã yêu mến từ thuờ nhỏ và đã lấy ra vẽ, nhưng đến hôm nay y mới thấu đáo được vẻ đẹp và y nhận thấy tác phẩm thành công nhất, ý nghĩa nhất của mình chưa thể vượt được nghệ phẩm siêu tuyệt này. Có biết bao nhiêu những tác phẩm tuyệt diệu như thế, không một tác phẩm nào là kết quả của sự ngẫu nhiên nhưng tất cả đều là sự thể hiện chung của một linh hồn; ở một góc tường cổ, ở trên hàng cột, ở vòng cung trên nóc, những tác phẩm ấy vẫn như ở cùng một trung tâm, vẫn một tinh thần duy nhất chỉ đạo những công việc xây cất, chạm trổ, hội họa hay chỉ đạo nếp sống, nếp suy tư, việc giảng dạy con em, tất cả đều có một phong thái thân thuộc và hòa hợp với nhau như những cành cùng mọc trên một thân cây.

Giữa sự nhất trí hùng hồn và lặng lẽ của cái vũ trụ ấy, Goldmund cảm thấy mình nhỏ bé, y còn cảm thấy mình nhỏ bé hơn khi trông thấy viện trưởng Jean điều khiển cái thế giới quy củ mực thước của ông, thế giới ấy thật là hùng mạnh nhưng cũng có vẻ duyên dáng thầm kín. Mặc dù viện trưởng Jean thông thái kia có khác hẳn vị viện trưởng Daniel nhân từ, giản dị và trung thực, nhưng người nào cũng phụng sự một toàn thể, một tư tưởng, một trật tự, cũng hy sinh cả cá nhân mình do đó mà cao danh cả vọng. Chính cái đó cũng như bộ y phục tu viện làm cho họ giống nhau.

Ở đây, giữa tu viện này, Goldmund thấy Narziss là người vô cùng cao trọng, tuy rằng đối với y Narziss không có thái độ nào khác đối với bạn, thái độ của người chủ nhà tư tế. Chẳng bao lâu y không dám gọi là Narziss và xưng mày tao với anh nữa.

Một hôm y bảo: “Này ông viện trưởng Jean, tôi cũng phải quen gọi anh bằng tên mới. Tôi muốn thưa chuyện với anh rằng ở đây tôi rất được toại ý. Tôi rất muốn xưng hết tội với anh, và khi đã chuộc tội, tôi sẽ xin ở lại đây với tư cách một người sư huynh thế tục. Nhưng sợ như vậy thì không còn tình bạn nữa, anh là viện trưởng, còn tôi là sư huynh thế tục. Sống ở bên anh, nhìn thấy công việc anh làm, còn tôi không làm gì, không sáng tác gì cả, tôi sẽ không chịu đựng được lâu. Tôi cũng muốn làm việc để tỏ cho anh biết tôi có thể làm được cái gì, để anh nhận thấy anh cứu một người khỏi tội chết cũng không uổng công.”

“Tôi rất vui lòng, Narziss trả lời, anh nói một cách đích xác và minh bạch hơn lúc khác. “Bất cứ lúc nào chú cũng có thể khởi lập xưởng họa, tôi sẽ để chú sử dụng ngay người thợ rèn và thợ mộc. Chú có thể kiếm được vật liệu để làm việc ngay tại chỗ. Còn cái gì không có thì kê ra một bảng để nhờ xe vận tải mua dùm. Bây giờ tôi nói chú nghe tôi nghĩ thế nào về chú và ý định của chú.

Chú để cho tôi thong thả diễn tả ý kiến của tôi. Tôi là nhà trí thức nên tôi trình bày theo cách của tôi, tôi không biết dùng ngôn ngữ nào khác. Vậy chú hãy kiên nhẫn nghe tôi một chút như ngày xưa chú đã kiên nhẫn được thế.”

“Tôi vẫn chú ý nghe đấy, Anh cứ nói.”

“Từ ngày chúng ta còn là học sinh, chú nhớ chứ, nhiều khi tôi bảo rằng chú là một nghệ sĩ. Thuở ấy, tôi nghĩ rằng chú có thể trở thành một thi sĩ, trong lúc chú đọc sách hay chú viết chú có vẻ không ưa cái gì trừu tượng, trong tiếng nói chú có vẻ ghét cái gì trừu tượng, chú chỉ ưa những chữ, những âm thanh có thi vị, có gợi cảm, gợi hình ảnh.”

Goldmund ngắt lời anh.

“Xin lỗi anh, ý niệm và trừu tượng mà anh thích không phải là ý tưởng, là hình ảnh hay sao? Hay là những chữ anh dùng để nói không cho phép người ta tưởng tượng ra cái gì cả à? Người ta có thể nghĩ cái gì mà không tưởng tượng ra cái ấy hay sao?”

“Chứ hỏi câu ấy là phải lắm. Người ta có thể suy nghĩ mà không tưởng tượng ra cái gì cả. Tư tưởng không có gì phải trông cậy vào việc dùng đến hình ảnh. Tư tưởng không diễn bằng hình ảnh mà bằng ý niệm và công thức. Triết lý bẳt đầu từ chỗ chấm dứt hình ảnh, lúc còn trẻ chúng ta vẫn bàn cãi mãi về chuyện này. Đối với chú, thế giới hiện ra bằng hình ảnh, đối với tôi thế giới hiện ra bằng ý niệm. Tôi vẫn nói rằng về phương diện tư tưởng chú bất thông, nhưng đó không phải là một nhược điểm vì chú làm vua trong lãnh vực hình ảnh. Để tôi cắt nghĩa cho nghe. Nếu chú không đi đó đi đây mà ở lại làm một nhà trí thức, chắc chú không làm nên cơm cháo gì; chú sẽ trở thành một người có óc thần bí. Nói một cách vắn tắt và nôm na, những người có óc thần bí là những nhà tư tưởng không biết suy tưởng. Đó là những nghệ sĩ bất thành, những thi sĩ không có thơ, những họa sĩ không bút, không màu, những nhạc sĩ không âm điệu. Trong số những người ấy có người có thiên tư, có ý tưởng cao đẹp, nhưng tất cả đều là những người khổ sở. Chú có thể như vậy lắm. May mà chú trở thành nghệ sĩ, mà chú hoạt động trong một thế giới hình ảnh, chú có thể là một người sáng tác, chứ nếu chú muốn làm nhà tư tưởng thì chỉ là người tầm thường.”

“Tôi sợ rằng không bao giờ, không bao giờ tôi có một ý niệm về thế giới tư tưởng không cần hình ảnh.”

“Ồ! Có chứ, chú có thể hiểu ngay được. Người trí thức cố gắng hiểu biết và lý hội tinh lý của sự vật bằng lý luận. Họ biết rằng trí khôn con người và khí cụ của nó là lý luận, là những cái bất toàn— cũng như một nghệ sĩ chân chính hiểu rằng cái bút hay con dao của mình chỉ có thể diễn tả vẻ linh động của thần thánh một cách bất toàn. Họ không thể làm khác được, họ không có quyền. Bởi vì con người phải chu toàn trách vụ cao cả bằng cách vận dụng những thiên tư của thiên nhiên phú cho. Bởi vậy cho nên ngày xưa tôi vẫn bảo chú đừng như loài khi bắt chước nhà tư tưởng và nhà tu khổ hạnh, mình phải là mình, phải phát triển và thực hiện chính mình.”

“Tôi chỉ hiểu anh có một nửa, thế nào là thực hiện chính mình.”

“Đó là công thức của triết gia, tôi không biết nói thế nào khác. Đối với chúng tôi, môn đệ của Aristote và Saint Thomas, ý niệm cao trọng nhất là bản thể toàn thiện. Bản thể toàn thiện là Thượng Đế. Tất cả những vật khác chỉ là vật đang trở thành, chỉ là cái gì vẩn đục, cái gì có thể thành được. Nhưng Thượng Đế không vẩn đục, Thượng Đế thuần nhất; Thượng Đế không phải cái gì sẽ trở thành, Thượng Đế là toàn năng toàn thực. Chúng ta là người, chúng ta biến đổi, chúng ta trở thành chúng ta, chỉ là một tập hợp những cái có thể trở thành; chúng ta không có cái gì hoàn toàn, không có bản thể tuyệt đối. Nhưng khi chúng ta đi từ tiềm năng đến hành động, từ chỗ có thể làm được đến chỗ thực hiện, chúng ta dự phần vào bản thể thực sự, chúng ta bước một bước lại gần thiêng liêng và toàn thiện. Tự thực hiện lấy mình là như thế đó. Chắc chú theo kinh nghiệm bản thân cũng biết điều ấy. Chú là nghệ sĩ, chú đã tạc nhiều pho tượng. Khi chú đã tạc thành công một pho tượng, khi chú đã lấy những yếu tố bất nhất vô thường tạo ra chân dung một người, chú đã làm cho người ấy trở thành hình thề thuần túy, như vậy là nghệ sĩ đã thực hiện hình tướng của con người.”

“Tôi hiểu rồi.”

“Chú thấy tôi ở trong một hoàn cảnh mà chức vụ và bản chất của tôi tương đối gặp những khó khăn trong việc tự thực hiện. Tôi sống giữa một hoàn cảnh có nền nếp cổ truyền hợp với tôi và giúp đỡ tôi. Một tu viện không phải là một thiên đàng; trong cũng đầy rẫy khuyết điểm; nhưng đời sống tu viện theo đúng khuôn phép đối với những người như tôi thật là thuận tiện hơn đời sống thế tục. Tôi không muốn nói đến luân lý đạo đức, những tư tưởng thuần túy mà tôi có sứ mạng trau dồi và giảng dạy cần được bào vệ khỏi ảnh hưởng thế tục, ấy là chỉ nói về phương diện thực tiễn mà thôi. Bởi thế cho nên trong tu viện này tôi có thể tự thực hiện dễ dàng hơn chú. Thế mà ở trong tình cảnh chú, chú cũng tìm ra con đường của mình, chú trở nên một nghệ sĩ, tôi thấy chú thật là người đáng khen. Chú ở trong hoàn cảnh khó khăn hơn tôi nhiều.”

Goldmund nghe lời khen vừa vui sướng vừa sượng sùng. Muốn lái câu chuyện sang đường khác y vội ngắt lời bạn.

“Tôi đã hiểu được gần hết những điều anh nói. Nhưng cũng có một điều mà tôi cố nhồi nó cũng không vào: cái mà anh gọi là tư tưởng thuần túy, nghĩa là tư tưởng không có hình ảnh, chỉ dùng toàn chữ, với những chữ ấy không thể tường tượng ra cái gì cả. Cái đó là cái quỷ gì vậy?”

“Đây nhé! Đây là một thí dụ để chú hiểu rõ. Chú hãy nghĩ đến toán học. Những con số kia gợi lên những hình ảnh gì? Những dấu cộng và trừ, những phương trình gợi lên cho chú hình ảnh gì? Chẳng có hình ảnh nào cả! Khi chú làm một bài toán hay đại số không có hình ảnh nào đến giúp chú cả, nhưng chúng dùng những công thức đã thuộc lòng để đem ra áp dụng.”

“Đúng thế. Nếu anh ra cho tôi một bài toán chỉ có những con số và những dấu hiệu, tôi có thể giải đáp được mà không cần đến một hình ảnh nào cả, rồi chỉ cần dấu cộng, dấu trừ, dấu ngoặc, phương số, v.v. Đúng hơn ngày xưa tôi làm được, nhưng bây giờ thì chịu thôi. Nhưng tôi có thể công nhận rằng làm những bàỉ toán ấy có ích lợi khác chứ không phải tập luyện tri thức cho học trò. Một người suốt đời chỉ làm tính và viết từng hàng chữ số cho đầy trang giấy thì thật là phù phiếm vô bổ.”

“Chú lầm to rồi. Chú giả tỉ như một người làm toán như vậy chỉ có việc gỉai đáp những bài toán mà một ông thầy nào đó ra cho hắn chăng? Hắn có thể tự đặt ra những câu hỏi, những bài toán để giải đáp, bài toán cũng đặt ra cho hắn với một sức mạnh không thể cưỡng lại được. Cần phải tính toán và đo lường nhiều khoảng không gian thực sự và giả tưởng trước khi luận đến những vấn đề không gian của nhà tư tưởng.”

“Hẳn thế rồi. Nhưng quan niệm vấn đề không gian là một thứ khổ luyện trí tuệ thì cũng không đáng là cái gì để ngườì ta lao tâm khổ trí một cách phí phạm trong bao nhiêu năm. Danh từ không gian đối với tôi không có nghĩa lý gì cả và không đáng cho tôi suy nghĩ nếu tôi nghe thấy mà không nghĩ đến một khoảng không gian cụ thể; như vũ trụ với tinh tú kia chẳng hạn, đó là một không gian mà tôi cho là mình ngắm nghía và đo lường cũng không đến nỗỉ uổng công.

Narziss mỉm cườì mà rằng: “Chú hẳn muốn nói rằng chú không đếm xỉa gì đến tư tưởng, nhưng trái lại chú chỉ để lại những áp dụng của tư tưởng vào lãnh vực thực tiễn và hữu hình. Tôi có thể trả lời chú; ta không thiếu cơ hội và ý muốn đem tư tưởng ra áp dụng thực tế. Thí dụ nhà tư tưởng Narziss đã đem áp dụng cả trăm lần sự suy tưởng của mình để tìm hiểu Goldmund và những thầy tu ở đây như ông ta vừa mới làm đó. Nhưng ông ta làm thế nào mà ‘áp dụng’ được nếu ông ta không học và hành từ trước? Nghệ sĩ cũng không ngừng tập luyện quan sát và tưởng tượng, chúng tôi khen ngợi sự tập luyện đó mặc dù chỉ nhận thấy nó bộc lộ ra trong một số ít tác phẩm giá trị. Sự mâu thuẫn thật là rõ rệt. Vậy thì chú cứ để yên chúng tôi ‘suy tưởng’ và chỉ nên căn cứ vào kết quả của sự suy tưởng mà phán xét, cũng như tôi căn cứ vào tác phẩm của chú để phán xét tư cách nghệ sĩ của chú. Bây giờ chú thắc mắc vì chú gặp nhiều khó khăn để sáng tác. Hãy gạt những khó khăn ấy đi, tìm lấy một xưởng họa hay tự thiết lập một xưởng họa rồi vùi đầu vào công việc, chú thấy nhiều vấn đề tự nó giải quyết lấy.”

Goldmund không đòi hỏi gì hơn. Y tìm ra ở gần cổng vào một căn phòng bây giờ bỏ trống, có thể dùng làm xưỏng được. Y đặt thợ mộc làm cho một cái bàn và một vài dụng cụ khác theo mẫu vẽ cẩn thận. Y lập một bản kê những vật liệu thật dài để nhờ người chở xe của tu viện mua tại các tỉnh lân cận. Y đến nhà ngườì thợ mộc và vào rừng xem xét tất cả các loại gỗ, chọn nhiều thứ cho xe chở về bãi cỏ sau vườn phơi khô và tự tay dựng mái che. Y lui tới lò rèn luôn, cùng với đứa con trai người thợ rèn làm việc hàng nửa ngày trước lò lửa cạnh cái đe, hòn đá mài, cái bồn nước để nhúng sắt đỏ. Họ đánh tất cả đồ dùng để đẽo gỗ như dùi thẳng, dùi cong, đục, khoan, bào. Erich, con người thợ rèn trở thành bạn của Goldmund, nó là gã thiếu niên rất hiếu kỳ và chăm chú giúp đỡ Goldmund làm đủ mọi việc. Y hứa dạy nó chơi đàn là món thích hơn cả và cho nó vào học việc điêu khắc. Nhiều lúc ở tu viện gần Narziss y thấy chán nản, thấy mình vô ích, y đến gần Erich để lấy lại hơi sức trong tình yêu mến rụt rè và sự kính trọng không bờ bến của cậu bé. Nó thường hỏi Goldmund về chuyện thầy Niklaus và tỉnh thành dưới quyền quản trị của vị giám mục. Có khi Goldmund lấy làm thích thú mà kể lại, y phải ngạc nhiên rằng mình ngồi kể những cuộc phiêu lưu, những chuyến đi đây đi đó của mình như một ông già trong khi cuộc đời của mình bây giờ mới bắt đầu,

Không ai nhận thấy sự thay đổi sâu xa trong người y trong những ngày gần đây khiến cho y già hơn tuổi mình, vì không ai biết ngày trước y là người thế nào. Sự khổ sở trong đời sống lang thang và bất trắc đã làm ý mất sức nhiều, rồi đến bệnh dịch hạch với cảnh tượng chết chóc hãi hùng, rồi đến đêm kinh khủng trong hầm dinh tổng trấn, đã làm y rung chuyển tới xương tủy. Bây giờ còn ghi lại nhiều dấu vết: râu đã điểm sương, mặt đã có vết răn, nhiều đêm khó ngủ. Trong tâm hồn y đã có sự mỏỉ mệt mất cả hứng thú và hiếu kỳ, y đã thấy vị ngây ngấy, vị nhạt nhẽo của sự chán chường và lãnh đạm. Bầu bạn với Erich cùng với người thợ rèn và người thợ mộc sửa soạn công việc, y bớt chán nản; y lại phấn chấn, y thấy lại tuổi trẻ. Ai cũng yêu mến và khen ngợi y; nhưng nhiều lúc y vẫn ngồi hàng giờ mà bần thần, mỉm cười trong mơ mộng, thở than, lạnh lùng.

Một vấn đề rất quan trọng đặt ra: Bắt đầu công việc thế nào? Tác phẩm đầu tiên thực hiện ở đây, y muốn đền ơn tu viện đã hậu đãi mình, y không muốn nó là một tác phẩm bình thường dù để thỏa mãn con mắt hiếu kỳ của người đời, nó phải tham dự mật thiết vào đời sống của tu viện, phải hội nhập với đời sống ấy như những tác phẩm cổ ở đây. Y muốn thực hiện một ngai thờ hay một giảng đài, nhưng cả hai món đều không cần thiết và không có chỗ để trưng bày. Y nghĩ ra việc khác.

Trong phòng ăn các cha có một cái bục cao để một sư huynh trẻ tuổi ngồi đọc liệt truyện các thánh trong bữa ăn. Cái đài đó không có trang trí gì cả. Y định trang hoàng cầu thang lên và cái bục y như một giảng đài, y sẽ làm những bức chạm nổi và một vài bức tượng. Viện trưởng vui vẻ và chấp thuận đồ án ấy.

Bấy giờ đã qua ngày lễ Giáng Sinh, trời có tuyết, y khởi sự công việc; cuộc đời của y hiện ra sắc thái mới. Đối với người trong tu viện thì hình như y biến đâu mất, không ai gặp y ở đâu cả, y không đợi giờ tan học học trò ra về, y không thẩn thơ trong rừng, không đi bách bộ ngoài sân dạo mát. Y ăn cơm tại nhà người xay lúa, người này không phải người trước kia y vẫn tới thăm khi còn đi học. Y không để ai vào xưởng trừ người phụ việc là Erich. Có những ngày Erich không nghe thấy y nói tiếng nào.

Sau khi đã suy nghĩ lâu về cái đài trong phòng ăn, y ấn định một đồ án. Tác phẩm phải có hai phần, một bên hình dung trần thế, bên kia là tiếng nói của thần linh. Phía dưới bao lấy cầu thang là cảnh sáng tạo trần gian, những bức ảnh thiên nhiên, cảnh đời sống giản dị của tổ phụ, những bức ảnh đó sẽ chạm nổi trên những khúc gỗ sên lớn. Trên cao là cái giá có hình bốn vị giáo đồ: một bức tượng là cố viện trưởng Danỉel, bức khác là cha Martin người kế vị, tượng Saint. Lúc thì y muốn tạc ông thầy Niklaus.

Y gặp nhiều khó khăn hơn mình tưởng. Y phải băn khoăn, nhưng đó là những băn khoăn êm ái. Y đem hết mình cho công việc, khoái trá lẫn thất vọng, như lúc phải đối phó vớí một người tính bất kham; y vật lộn với sự khó khăn, mềm dẻo và kiên nhẫn như một người câu cá vật lộn với một con cá trắm lớn; mỗi sự trở ngại là một bài học làm cho niềm rung cảm của y tinh vi hơn. Y quên hết mọi chuyện khác, quên cả tu viện và gần quên cả Narziss. Narziss có đến thăm một hai lần nhưng y chỉ cho xem những bức họa mà thôi.

Một hôm Narziss phải ngạc nhiên vì Goldund yêu cầu nghe y xưng tội.

“Tôi không thể quyết định xưng tội được,” y thú nhận, “Tôi tự cho mình không đáng kể; tôi đã cảm thấy nhục nhã khi đứng trước mặt anh. Bây giờ tôi được yên tâm hơn, tôi có công việc để làm, tôi đã vượt lên trên hư không; vì bây gỉờ tôi ở tu viện tôi muốn tự đặt mình vào kỷ luật.”

Bây giờ y thấy mình có khả năng xứng đáng với công việc và không muốn đợi lâu nữa. Trong những tuần lễ đầu sống với suy tư, trong những kỷ niệm tuổi thơ ào tới như gió cuốn, trong những câu truyện kể cho Erich nghe, y đã có thể đem lại trật tự cho cuộc sống mới trở lại với mình.

Narziss nghe lời xưng tội mà không làm ra vẻ long trọng. Y nói gần đến hai tiếng đồng hồ. Viện trưởng thản nhiên ngồi nghe bạn kể lại quãng đời giang hồ, đau khổ và tội lỗi, hỏi vài câu, nhưng không bao giờ ngắt lời, ông cũng nghe y thú tội mất lòng tin Thượng Đế nhân từ và công bằng, nhưng không hề cau mày. Một vài lời tự thú của kẻ có tội làm xúc động ông sâu xa. Ông thấy y bị kinh hồn táng đởm đến thế nào, biết bao lần y đã gần kề miệng hố. Ông cũng cảm động vì bạn vẫn giữ được tính ngây thơ con trẻ và tính hồn nhiên, ông không nín cười được khi thấy y thắc mắc và hối hận vì những lỗi lầm đối với đức kính tín, mà nếu so sánh với những nghi ngờ, những vực thẳm trong lúc y suy nghĩ, đều là những lỗi nhỏ nhặt.

Goldmund hết sức kinh ngạc gần như thất vọng khi thấy cha rửa tội không cho những tội lỗi rành rành như thế là quan trọng, nhưng ông quở trách và trừng phạt không nương tay tội xao lãng cầu nguyện, xưng tội và làm lễ thụ ơn thánh. Ông bắt y phải ăn năn tội lỗi, sống bổn tuần lễ chay tịnh, mỗi ngày nghe kinh buổi sáng, mỗi tối đọc kinh tặng Đức Cha và hát thánh kinh tặng Đức Mẹ.

Sau đây ông nói: “Đừng có coi nhẹ tội lỗi này, tôi căn dặn chú và yêu cầu chú phải theo. Tôi không biết chú còn thuộc kinh không. Chú phải học từng chữ và biết hết ý. Ngay từ hôm nay tôi cùng đọc kinh với chú và chỉ cho chú những chữ và những ý chú phải chú trọng một cách đặc biệt. Chú không thể nghe và đọc những lời linh thiêng như đọc và nghe lời nói của phàm nhân. Mỗi lần chú nhận thấy mình chỉ đọc ngoài cửa miệng— mà điều này thường xảy ra nhiều hơn mình tưởng— chú phải nghĩ đến lúc này và lờỉ căn dặn của tôi, trở lại từ đầu và để cho lời cầu nguyện thấm vào tim, để tôi làm cho chú theo.”

Không biết vi sự tình cờ hay vì viện trưởng có kinh nghiệm sâu xa về linh hồn con người mà việc xưng tội và sám hối ấy đánh dấu một giai đoạn yên tĩnh tâm hồn để y làm việc có hiệu quả và tìm thấy hạnh phúc. Giữa lúc công việc bề bộn, vui sướng lẫn ưu tư, y tránh được những xao xuyến ban ngày nhờ một buổi tối để chút thời giờ thành tâm cầu nguyện. Toàn thân y được thẩm nhuần cái “lý” cao viễn, y không còn cách biệt với đấng tạo hóa và, cũng như đứa trẻ, y được phép bước vào lãnh vực của Thượng Đế. Tuy không tránh được những lúc cô đơn vật lộn để sáng tác, đem hết mê say của cảm quan và linh hồn ra xây dựng tác phẩm, nhưng đến giờ cầu nguyện ít ra y cũng trở lại bình tĩnh, an hòa. Trong lúc làm việc y thường ngùn ngụt bực tức và nóng nảy hay ngây ngất khoái cảm, nhưng trong lúc cầu nguyện y cảm thấy mình như ngâm trong nước trong mắt, tẩy sạch hết kiêu ngạo và thất vọng.

Y cũng nếm mùi thất vọng. Đến tối, sau khi hăng hái làm việc, có khi y không tìm thấy sự yên tĩnh để trầm tư mặc tưởng; có khi y quên cả lời cầu nguyện, và có khi đang suy tư, y ngừng lại, bối rối vì nghĩ rằng cầu kinh chẳng qua chỉ là cố gắng tìm đến một ông Trời không có thực hay không thể cứu giúp mình được. Y bèn hỏi lại Narziss.

“Chú cứ kiên tâm, chú đã hứa rồi, chú phải giữ lời hứa. Chú không phải cần tự hỏi Trời có nghe lời cầu nguyện của mình, có Trời hay không. Chú cũng không cần phải tự hỏi lời cầu nguyện của chú có ích lợi gì không. Đối với Đấng Tạo Hóa mà ta cầu nguyện thì mọi hành vi của ta đều là chuyện con nít. Trong khi cầu Chúa mình phải bỏ hẳn những ý nghĩ trẻ ranh ấy đi. Khi đọc kinh tặng Chúa Cha và hát kinh thánh Marie mình phải thấm lời thấm ý, cũng như lúc chú đàn hát, chú đâu có tìm tòi những ý nghĩa uẩn khúc, nhưng chú nắn nót cung bậc sao cho tiếng đàn thật trong trẻo và thật thánh thót, thế thôi. Khỉ hát, có ai tự hỏi hát có ích lợi gì không, hát là hát, thế thôi. Cầu trời cũng thế.”

Lần này y lại đạt được kết quả. Lại một lần nữa cái tôi căng thẳng và ô trọc của y tan vào cái mênh mang của trật tự thiên nhiên, một lần nữa lời lẽ khả kính tràn vào người y, thấm vào người y như những ngôi sao.

Viện trưởng rất thỏa mãn mà nhận ra rằng hết thời ăn năn tội lỗi rồi và sau khi thụ ân Chúa y tiếp tục cầu nguyện hàng tuần, hàng tháng. Công việc của y vẫn tiến hành. Y đã tạc những tượng ở cột cầu thang: cây cốỉ, súc vật, người, ở giữa là cha Noé đứng bên chùm lá và trái cây; đó là một tập ảnh, một bài ca sự sáng tạo và vẻ đẹp của sự sáng tạo; sự sáng tạo trường diện trong quan niệm tự do nhưng vẫn theo một trật tự, một kỷ luật bí hiểm. Trong mấy tháng liền không ai được vào đấy, trừ Erich được phép vào phụ việc. Erich không có ước vọng nào hơn là trở thành một nghệ sĩ. Có ngày Erich cũng không được bước vào trong xưởng. Lúc khác Goldmund săn sóc dạy bảo nó để nó tập tành, y rất sung sướng có một người học trò tin cậy thầy. Khi làm xong công việc y tính nói với cha nó cho nó theo mình làm thợ bạn.

Y chỉ chạm tượng thánh khi nào trong người thư thái, thấm thía nhịp điệu của đời sống không chút bóng mờ ngờ vực. Pho tượng ý nghĩa hơn cả sẽ là pho tượng viện trưởng Daniel. Y rất yêu mến pho tượng ấy. Trên khuôn mặt ấy rạng rỡ nét vẻ nhân từ, đôn hậu. Y không được thỏa mãn với tượng Niklaus, tuy Erich khen ngợi nhiều hơn cả. Tượng ấy thiếu nhịp điệu, có vẻ buồn rầu; Niklaus vừa có nhiều dự định sáng tác, vừa ý thức được tính chất hư phù của sự sáng tác, ông buồn bực vì đã bỏ mất sự nhất trí và sự chân chất.

Khi đã làm xong tượng Daniel y cho quét dọn xưởng, che kín hết đồ đạc khác và chỉ đem một pho tượng ấy ra chỗ sáng. Xong xuôi y đến tìm Narziss nhưng anh mắc bận, y đành phải đợi đến hôm sau.

Trưa hôm sau y dẫn Narziss vào xưởng.

Narziss đứng ngắm rất lâu; anh chú ý phân tích với những tiêu chuẩn chuẩn xác của nhà bác học. Goldmund đứng yên lặng đằng sau anh, cố nén sự xao xuyến trong người. Y tự nhủ:

“Chà! Nếu một trong hai người không chịu được cuộc thử thách này thì hỏng cả. Nếu tác phẩm của mình không đủ sức mạnh hay hắn không hiểu nổi thì sự cố gắng của mình vô ích. Minh còn phải đợi lâu.”

Một phút lâu như một giờ; y nghĩ đến lúc Niklaus xem bức họa đầu của y, trong khi chờ đợi y chỉ đứng vò bàn tay nhấp nhính mồ hôi.

Narziss quay lại và y được giải thoát ngay. Y thấy trên mặt anh hiện lên những nét vẻ mà chỉ thấy được trong thời thanh niên: một cái mỉm cười, một cải mỉm cười rụt rè trên khuôn mặt thông minh và cương quyết, một cái mỉm cười âu yếm như đem tặng cả tâm hồn mình; trong khoảnh khắc khuôn mặt ấy mất hẳn vẻ cô đơn và kiêu ngạo để nhường chỗ cho tình thương.

“Goldmund,” Narziss nói khẽ, tuy xúc động nhưng anh vẫn cân nhắc từng chữ, “hẳn chú không đợi tôi phút chốc trở thành người hiểu biết nghệ thuật. Chú biết rõ tôi không biết gì về nghệ thuật cả. Nói ra hẳn chú cho là nói bậy. Nhưng để yên tôi nói điều này: thoạt mới nhìn tôi biết ngay vị thánh đồ này là cha Daniel, không những chỉ là chân dung của người mà đây còn là tất cả cái gì tượng trưng cho danh dự, tính đôn hậu, sự giản dị như chúng ta biết hồi còn trẻ. Đúng là cha Danieỉ hiển hiện trước mặt chúng ta, trước sự tôn kính của tuổi trẻ, với tất cả cái gì chúng ta cho là thiêng liêng, khiến cho chúng ta không quên được quãng đời niên thiếu ấy, Cho tôi thấy lại quá khứ ấy chú đã cho tôi cái gì rất phong phú; không phải làm tôi nhớ lại cha Daniel mà thôi, đây là lần thứ nhất chú làm cho tôi hiểu biết tâm hồn của chú. Bây giờ tôi biết chú là người thế nào. Không cần phải biện luận tán dương gì cả. Lời nói vô ích Goldmund! Chúng ta sống những giờ phút hoan lạc vô cùng!”

Trong phòng rộng có một sự yên lặng cảm động, Goldmund biết rằng Narziss xúc động sâu xa. Y cũng cảm động đến không thở được nữa.

“Được lắm, tôi rất vui sướng, bây giờ đã đến lúc đi dùng bữa.”