Phần I Ở ngưỡng cửa tổ ong-I
Tôi không có ý định viết một chuyên luận về nghề nuôi ong hay sách hướng dẫn về việc chăm sóc đàn ong. Tất cả các nước văn minh đã có những cuốn sách chỉ dẫn tuyệt vời, mà cải biên chúng là một việc vô ích: nước Pháp có các cuốn của các tác giả Dadant, Georges de Layens và Bonnier, Bertrand, Hamet, Weber, Clément, cha xứ Collin v.v. Những nước nói tiếng Anh có các tác giả như Langstroth, Bevan, Cook, Cheshire, Cowan, Root và các học trò. Nước Đức có các tác giả Dzierzon, Van Berlepsch, Pollmann Vogel và nhiều tác giả khác.
Nhưng cuốn sách của tôi cũng không phải là một chuyên khảo khoa học về ong mật châu Âu (apis mellifica), ong Italia (ligustica), ong mật Ai cập (fasciata) v.v., không phải là một tập tuyển chọn các quan sát hay nghiên cứu mới. Tôi sẽ hầu như không nói một điều gì mà có lẽ tất cả những ai dẫu chỉ có đôi chút hiểu biết về ong đều đã rõ. Để tránh khiến cuốn sách này trở nên nặng nề một cách không cần thiết, tôi đã để lại cả một loạt những kinh nghiệm và quan sát được tôi tiến hành trong hai mươi năm làm nghề nuôi ong cho một công trình khác dành riêng cho các chuyên gia; những kinh nghiệm và quan sát này khá mang tính chuyên môn, và vì thế chúng chẳng mấy hấp dẫn.
Tôi chỉ muốn kể về “những chú ong vàng” của Ronsard như cái cách người ta bàn về một đề tài mà người ta quen biết và yêu thích khi nói với những ai hoàn toàn chẳng biết gì nó. Tôi không có ý định tô vẽ cho sự thật, cũng như tự xếp mình vào trong số những nhà chuyên môn về loài ong bị Réaumur trách cứ rất đúng bởi đã đem thay thế một điều thực sự kỳ diệu bằng cái thứ kỳ diệu mà họ tưởng tượng ra và thích thú. Trong tổ ong có rất nhiều điều kỳ diệu, nhưng đó không phải là cái cớ để phóng đại. Ngoài ra, tôi đã từ lâu rồi từ bỏ việc tìm kiếm trong thế giới này cái điều kỳ diệu hấp dẫn hơn và tuyệt vời hơn sự thật hoặc điều mà sự nỗ lực của con người thấu hiểu được. Chúng ta sẽ không phí hoài công sức cho việc tìm kiếm sự vĩ đại của đời sống trong cái huyền bí. Những sự việc bình thường nhất đã đủ đầy vĩ đại, và chúng ta cho đến giờ chưa nghiên cứu một cách căn cơ một sự việc nào trong số đó. Bởi vậy tôi sẽ chỉ nói về những sự việc, hoặc đã được tôi tự thân kiểm chứng, hoặc việc kiểm tra chúng là thừa vì rằng chúng đã được xác minh đầy đủ trong ngành ong học. Công việc của tôi giới hạn trong việc trình bày các sự kiện một cách khoa học, nhưng ở một hình thức sinh động hơn, gắn liền với những suy nghĩ sâu sắc hơn và phóng khoáng hơn về chúng và đem lại cho chúng diện mạo hài hòa hơn những gì mà người ta có thể làm được trong một cuốn sách chỉ dẫn, trong một cuốn sách giáo khoa thực hành hay một chuyên luận khoa học. Ai đó đọc cuốn sách này, dĩ nhiên, sẽ không thể làm chủ một tổ ong, nhưng anh ta sẽ biết gần như mọi điều xác thực, thú vị, mật thiết và sâu sắc về các cư dân của nó. Song tất cả những điều này, tất nhiên, chẳng là gì khi so sánh với những gì mà ngoài chúng ra anh ta cần phải tìm hiểu. Tôi sẽ không bàn đến mọi sự nhầm lẫn mang tính truyền thống vẫn tiếp tục là huyền thoại ở các vùng làng quê và trong nhiều sáng tác về tổ ong. Khi xuất hiện mối nghi ngờ, sự bất đồng, giả thuyết, khi vấp phải một điều chưa biết, tôi sẽ thành thực thú nhận. Các bạn sẽ thấy rằng chúng ta thường xuyên phải dừng lại trước điều chưa biết. Ngoài những hành vi xuất sắc và đáng kể của việc điều hành ở bên trong và hoạt động của các cô con gái tuyệt vời của Aristée1, chúng ta chẳng hề biết được gì xác thực về chúng. Trong quá trình hoàn thiện việc nuôi dưỡng đàn ong, chúng ta càng thường xuyên thấy rõ rằng, chúng ta chẳng biết gì về những điều thực sự sâu kín trong đời sống của chúng; nhưng chính sự không hiểu biết như thế còn tốt hơn là sự ngu dốt vô thức và tự thỏa mãn tạo nên cái nền tảng khoa học của chúng ta về sự sống. Vâng, rất có thể, tất cả những gì con người có thể hi vọng hiểu biết được trong thế giới này chỉ nhờ vào điều ấy.
Liệu đã có một công trình nào về loài ong tương tự như cuốn sách này hay không? Cá nhân tôi chưa từng thấy một tác phẩm nào ở dạng này, dù sao tôi cũng nghĩ rằng mình quả thật đã đọc tất cả những gì được viết về chúng, ngoài một chương được Michelet dành cho đề tài này ở cuối cuốn Côn trùng (L’Insectè) của ông, và một tiểu luận về đề tài này trong cuốn Cuộc sống tinh thần của động vật (Geistesleben der Thiere)2 của Ludwig Buchner - tác giả nổi tiếng với cuốn “Các lực và vật chất”. Michelet mới đề cập thoáng qua về đối tượng này, còn Buchner, thì tiểu luận của ông khá đầy đủ, tuy nhiên, khi đọc xong những khẳng định đầy phiêu lưu, những sự việc mang tính hoang đường, những trích dẫn từ các nguồn đã bị loại bỏ từ lâu lắm rồi, tôi ngờ rằng ông chưa bao giờ bước ra khỏi thư phòng của mình để trực tiếp thăm hỏi các nữ anh hùng của mình, chưa bao giờ mở một trong số hàng trăm tổ ong huyên náo, như thể cháy nhà, mà cần phải thâm nhập vào đó trước khi linh cảm thích ứng được với sự bí ẩn của chúng, trước khi thấm đẫm bầu không khí, hương thơm, linh hồn và những điều huyền bí của những nàng trinh nữ cần mẫn. Trong cuốn sách của Buchner không có hương thơm của mật ngọt và linh hồn của ong; nó mắc đúng cái nhược điểm như nhiều cuốn sách giáo khoa uyên bác của chúng ta là các kết luận thường mang tính định kiến, còn lí luận khoa học của chúng chỉ là một mớ toàn những chuyện hài hước đáng ngờ, bạ đâu cóp nhặt đấy. Nhưng tôi hiếm khi phải đụng chạm đến nó trong tác phẩm của mình, vì các xuất phát điểm của chúng ta, các quan điểm của chúng ta và các mục đích của chúng ta hoàn toàn khác.
IIThư mục về loài ong là một trong những thư mục lớn nhất (chúng ta bắt đầu từ sách vở để nhanh chóng thoát khỏi chúng và hướng đến ngọn nguồn trực tiếp nhất của chúng). Sinh vật bé nhỏ kì lạ này, sống thành một xã hội tuân theo những luật lệ phức tạp và trong bóng tối thực hiện những công việc phi thường, từ thuở xa xưa đã thu hút sự quan tâm của con người. Aristote, Caton, Varron, Pline, Collumelle, Palladius đã nghiên cứu về loài ong, đấy là chưa kể đến triết gia Aristomachus, người, mà theo lời của Pline, đã nghiên cứu về chúng trong suốt năm mươi tám năm, và về Phyliscus xứ Thasos, người đã sống nơi hoang mạc để không phải thấy một ai, ngoài ong, và được gọi là “Người cô độc”. Nhưng chính từ họ mới có huyền thoại về loài ong và tất cả những gì có thể rút ra từ đó, tức là thu được một điều gì đó, thì gần như là bằng không, đã được thuật lại ở bài ca thứ tư trong Nông Ca (Géorgiques) của Virgile.
Lịch sử về loài ong trực tiếp bắt đầu vào thế kỉ XVII với phát kiến của Swammerdam - học giả vĩ đại người Hà Lan. Tuy nhiên nên bổ sung thêm một chi tiết ít người biết đến: đó chính là, trước cả Swammerdam, có Clutius - một nhà tự nhiên học, người Flandre, đã phát biểu một số chân lí quan trọng về vấn đề này, trong số đó có sự thật rằng, ong chúa là bà mẹ duy nhất của toàn bộ đàn ong và nó mang đặc tính của cả hai giống; song ông ấy không chứng minh được điều này. Swammerdam đã sáng tạo ra những phương pháp nghiên cứu có tính khoa học, chế ra kính hiển vi, nghĩ ra những liều thuốc tiêm bảo quản, là người đầu tiên giải phẫu ong, bằng việc phát hiện ra buồng trứng và vòi trứng, ông đã dứt điểm xác định được rằng ong chúa là con cái, mà trước đó người ta vẫn coi là con đực, và ông đã bất ngờ làm sáng tỏ các mối quan hệ bên trong tổ ong là dựa trên mẫu tính. Sau cùng là việc ông tiến hành việc giải phẫu và vẽ những bức tranh hoàn hảo đến mức cho đến nay chúng vẫn được dùng để minh họa cho nhiều chuyên luận về nghề nuôi ong. Sống ở thành phố Amsterdam ồn ào và bất ổn, ông thấy tiếc nuối “cuộc sống chốn làng quê yên bình”, và qua đời ở tuổi 43 vì lao lực. Ông đã trình bày những nghiên cứu của mình trong một công trình lớn Thiên nhiên mới (Bybel der Nature), nó được viết bằng một văn phong nghiêm cẩn và chặt chẽ. Trong tác phẩm này [ta có thể thấy] những biểu hiện trào dâng sự hứng khởi thuần khiết và tuyệt vời của một niềm tin sợ rằng mình sẽ bị lung lạc, mọi điều được liệt ra đều đặng vinh danh Đấng Hóa Công; một trăm năm sau tác phẩm này được tiến sĩ Boerhave dịch từ tiếng Hà Lan sang tiếng La tinh với tựa đề Biblia Naturae (Leyden, 1737).
Tiếp đó là Réaumur, người trung thành với những phương pháp như trên. Ông đã thực hiện vô số những thí nghiệm và quan sát rát hay trong những khu vườn của mình ở Charenton, và dành cho những chú ong cả một cuốn sách trong một loạt Hồi kí về lịch sử của các loài côn trùng (Mémoires pour servir a l’histoire des insectes). Chúng ta có thể đọc cuốn đó một cách hứng khởi và thu được điều gì đó hữu ích. Cuốn sách được trình bày mạch lạc, thiết thực, trung thực, nhưng không mất đi sự hấp dẫn nhất định, tuy có đôi chút thô mộc và khô khan. Trước tiên tác giả cố gắng xóa tan rất nhiều những nhầm lẫn xưa cũ, và đồng thời phổ biến một số điểm mới; ông đã phần nào làm sáng tỏ những nguyên do hình thành đàn ong, chế độ cai quản của ong chúa, nói tóm lại là, ông đã xác định được một số sự thật quan trọng và chỉ dẫn cho nhiều người khác tiếp bước. Qua những nghiên cứu của mình, công việc đầu tiên là ông khẳng định sự kì diệu trong kiến trúc của tổ ong, và tất cả những gì đã được ông trình bày thì không có một ai có thể nói hay hơn. Chúng ta cũng biết ơn ông về ý tưởng tổ ong bằng kính, sau này chúng được hoàn thiện hơn, chúng cho chúng ta thấy rõ toàn bộ đời sống ẩn kín của các cô ong thợ chuyên cần bắt đầu công việc của mình trong ánh dương quang rực rỡ và chỉ khi bóng tối bao phủ mới kết thúc. Để cho đề tài được đầy đủ hơn, tôi cần phải kể đến những tìm tòi và công việc của các nhà nghiên cứu muộn hơn sau này – của Chartes Bonnet và Schirach (người giải quyết dứt điểm bí ẩn về trứng của ong chúa), nhưng tôi sẽ giới hạn ở điểm chính thôi, rồi tôi sẽ chuyển ngay sang Francois Huber, một bậc thầy, một tác giả kinh điển của khoa học về loài ong.
Huber sinh ra ở Geneve vào năm 1750, bị mù từ khi còn rất trẻ. Mới đầu Huber chỉ quan tâm đến các thí nghiệm của Réaumur và muốn kiểm tra lại chúng thôi, rồi ông nhanh chóng say mê các nghiên cứu này, và nhờ sự giúp đỡ của Francois Burnens, một người hầu thông minh và trung thành, ông đã dành cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu ong. Trong biên niên sử về những nỗi đau khổ và chiến thắng của nhân loại, không có một điều gì cảm động hơn và có tính giáo dục hơn câu chuyện về sự hợp tác kiên tâm này: một người chỉ thấy được ánh sáng tinh thần, chỉ dẫn cho khối óc, đôi bàn tay và cặp mắt của một người được vui hưởng ánh sáng thật sự; một người chưa bao giờ, như người ta quả quyết, tận mắt mình nhìn thấy một tầng mật, thế nhưng đã nhìn, - qua màn sương mù trong đôi mắt của mình, - xuyên thấu màn sương mù gấp bội phần mà thiên nhiên dùng để che phủ tất thảy những gì tồn hữu, những bí ẩn sâu kín nhất của đấng thần linh đã tạo ra cái tầng mật vô hình này. Toàn bộ câu chuyện có thật này dường như muốn cho chúng ta thấy rằng không có một hoàn cảnh nào mà vì thế chúng ta phải từ bỏ niềm hi vọng được sở hữu chân lí. Tôi sẽ không liệt kê những gì mà ngành khoa học về loài ong phải chịu ơn của Huber, tốt hơn là tôi sẽ chỉ ra những gì mà nó không phải chịu ơn ông. Cuốn Những nghiên cứu mới về loài ong (Nouvelles observations sur les abeilles) của ông vẫn là một kho báu dồi dào và đáng tin cậy để tất cả những người nghiên cứu ong khai thác được nhiều điều; tập đầu tiên của tác phẩm này được viết vào năm 1789 dưới hình thức những bức thư gửi Charles Bonnet, còn tập thứ hai đến 20 năm sau mới xuất hiện. Quả thật, trong đó ta có thể thấy một vài sai lầm, một số chân lí chưa được hoàn thiện; từ khi cuốn sách ra đời thế giới đã đạt được không ít thành tựu trong ngành vi sinh, thực hành nuôi dưỡng ong, các phương pháp đối xử với ong chúa và v.v., nhưng không một nghiên cứu cơ bản nào của ông bị gạt bỏ hay bị coi là không chính xác: chúng vẫn là bất khả xâm phạm trong các thí nghiệm đương đại của chúng ta và làm nền tảng cho các thí nghiệm này.
IIISau những phát kiến của Huber là một vài năm im ắng; tuy nhiên không lâu sau Dzierzon, một vị linh mục xứ Carlsmarrk (ở Silésie), phát hiện ra sự trinh sản, tức là sự sinh sản trinh bạch của ong chúa, và phát minh ra tổ ong đầu tiên có các tầng tổ di động, nhờ thế người nuôi ong từ nay có thể thu hoạch phần mật ong cho mình, mà không giết hại những đàn ong tốt nhất của mình và không nhất thời hủy hoại công lao của cả một năm trời. Tổ ong này vẫn còn rất chưa hoàn hảo, về cơ bản nó đã được hoàn thiện nhờ Langstroth, người đã phát minh ra bộ khung di động, chúng được phổ biến cực kì thành công ở Mĩ. Root, Quinby, Dadant, Cheshire, de Layens, Cowan, Heddon, Howard… đã có thêm một số cải tiến có giá trị cho phát minh này. Để tránh cho ong khỏi sự can thiết phải chế tạo sáp và xây kho chứa, mà vì thế chúng phải mất rất nhiều mật và thời gian quý báu nhất, Mehring đã nghĩ ra cho đàn ong những tầng tổ được chế san - chúng được đàn ong đón nhận và thích ứng ngay cho những nhu cầu của mình. De Hruschaka phát minh ra Smélatore, bằng cách áp dụng lực li tâm nó cho phép tách mật ra, mà không phá vỡ tầng tổ, v.v. Trong vài năm thôi lề thói thủ cựu của nghề nuôi ong đã bị phá bỏ; sản lượng và mức sinh sản của tổ ong đã tăng gấp ba; khắp mọi nơi đều có những trại ong lớn và được gây dựng sẵn. Kể từ đó không còn chuyện giết hại một cách vô ích những đàn ong di cư chăm chỉ nhất và cái việc ghép đàn trái ngược tai quái vốn là hậu quả của những lần tàn sát như thế. Con người thật sự trở thành ông chủ của bầy ong, một ông chủ bí ẩn và vô hình chỉ đạo mọi việc mà không cần ra lệnh, và giữ tất cả trong sự tuân phục mà không bị nhận ra. Con người áp đặt ý chí của mình vào nơi trước đây mọi sự đều phụ thuộc vào thời vụ, sửa đổi cả bốn mùa; con người hợp nhất các “cộng hòa ong quốc” thù địch, chia đều tài sản, tăng hoặc giảm số lượng sinh nở, điều chỉnh mức sinh sản của ong chúa, con người hạ bệ và thay thế bằng một ong chúa khác bằng cách khôn khéo ép buộc dân ong ưng thuận cái việc khó chấp nhận này - chúng sẽ nổi giận khi nghi ngờ về sự can thiệp mờ ám. Khi thấy điều này là cần thiết, con người thản nhiên phá hủy sự bí ẩn của các căn phòng thiêng liêng và cực kì khôn ngoan hủy bỏ chính sách thận trọng của nữ hoàng ong. Con người năm, sáu lần liên tục lấy đi những thành quả lao động của những người chị em trong ngôi nhà thân thiện, nhẫn nại này, mà không gây hại cho chúng, không làm mất đi ở chúng lòng dũng cảm và không dẫn chúng đến cảnh khánh kiệt. Con người điều chỉnh kho vựa chất chứa vụ hoa bội thu trong các ngôi nhà của chúng, những cánh hoa rải rác trên các sườn đồi mỗi độ rộn rã Xuân về. Nói tóm lại, con người làm những gì anh ta muốn và nhận về từ đàn ong những gì anh ta đòi hỏi, tuy nhiên, với một điều kiện là phải tuân theo các đặc tính và luật lệ của chúng, vì rằng vượt lên trên ý chí của vị chúa tể không mong đợi, làm chủ đàn ong này, vượt lên trên ý chí - cái ý chí quá lớn để ghi nhận, và quá xa lạ để hiểu được này - loài ong nhìn xa hơn chính vị chúa tể này, và trong sự quên mình không gì lay chuyển được chúng chỉ nghĩ về việc thực hiện cái nghĩa vụ bí ẩn của giống loài của mình.
IVBây giờ, khi những cuốn sách đã trình bày cho chúng ta tất cả những gì chính yếu mà chúng có để kể cho chúng ta về lịch sử vô cùng cổ xưa của loài ong, chúng ta sẽ để cái môn khoa học đã được những người khác nắm bắt, và nhìn lại loài ong bằng con mắt của riêng mình. Một tiếng đồng hồ ở giữa tổ ong sẽ cho chúng ta thấy những điều, có thể, kém chính xác hơn, nhưng lại vô cùng sống động và bổ ích hơn.
Tôi vẫn không quên được trại ong đầu tiên tôi được thấy và nhờ nó học cách yêu loài ong. Chuyện này xảy ra từ nhiều năm trước ở một ngôi làng nhỏ bình dị của vùng Flandre Zélandaise, - Flandre còn sạch và duyên dáng hơn chính Zélande, hình ảnh thu nhỏ của Hà Lan này hội tụ trong mình sở thích thẩm mĩ với những sắc màu rực rỡ và dỗ yêu con mắt bằng những ngọn tháp và những đầu mái nhà vuốt nhọn của mình trông tựa như những món đồ chơi đẹp và được làm rất công phu, bằng những chiếc xe ba gác sơn màu rực rỡ, bằng những chiếc tủ sáng choang và những chiếc đồng hồ treo tường trong các hành lang sâu hút, bằng những hàng cây nhỏ nối nhau dọc theo các bờ kè, dòng kênh, như thể đang mong đợi một nghi lễ thơ ngây và tốt lành, bằng những chiếc sà lan và những con thuyền có mạn lái được trang hoàng, bằng những cánh cửa chính và những ô cửa sổ chẳng khác gì những bông hoa, bằng những âu thuyền hoàn mỹ, bằng nhưng cây cầu nâng nho nhỏ và đủ mọi sắc màu, bằng những ngôi nhà sơn bóng trông như món đồ tao nhã và sáng loáng, có những người phụ nữ đeo các đồ trang sức bằng vàng và bạc trông như những quả chuông nhỏ, bước ra từ đó để đi vắt sữa bò ngoài cánh đồng cỏ được rào bằng hàng rào màu trắng, hoặc trải phơi quần áo trên những thảm cỏ được cắt tỉa thành hình ô-van và hình thoi màu xanh dịu và điểm đầy hoa. Ở nơi ấy có một nhà hiền triết già ẩn cư khá giống với ông lão Virgile.
Một người sánh ngang đế vương và giống như các vị thần.
Và La Fonten có thể nói thêm: giống như các vị thần, người ấy bình tâm đắc ý; ông lánh đời ở nơi mà cuộc đời dường như eo hẹp hơn những nơi khác, nếu như thật sự có thể thu nhỏ được đời sống. Ông thu xếp cho mình một chốn ẩn dật chẳng phải vì ghê tởm cuộc đời - bậc hiền minh không biết đến cái sự ghê tởm kinh khủng như thế, - mà bởi ông đã phần nào mệt mỏi cật vấn những con người thiển cận hơn cả muông thú và cỏ cây khi trả lời những câu hỏi duy nhất có ý nghĩa, mà ta có thể đặt ra cho thiên nhiên và các quy luật thực tại. Toàn bộ niềm hạnh phúc nơi ông, giống như ở vị triết gia của xứ Scythia, quy tụ lại trong những vẻ đẹp của khu vườn, và giữa những vẻ đẹp ấy có một vẻ đẹp được ông yêu thích hơn cả và thường xuyên đến thăm hơn là khu trại ong gồm có 12 tổ ong làm bằng rơm, hình chuông được ông tô điểm đủ màu - vài tổ có màu hồng rực, hai ba tổ có màu vàng tươi, nhưng đa số có màu xanh dịu, vì ông nhận thấy, rất lâu trước các thí nghiệm của ngài John Lubbock, rằng màu xanh da trời được các chú ong ưa thích nhất. Ông sắp xếp trại ong ở cạnh bức tường quét vôi trắng của ngôi nhà, trong cái góc được tạo thành nhờ gian bếp, - một gian bếp Hà Lan dậy vị thơm ngon và mát mẻ với những chiếc giá bằng sành, nơi xếp bộ đồ làm bếp bằng thiếc và đồng sáng bóng, qua cánh cửa rộng mở soi bóng xuống dòng kênh thanh bình. Và dòng nước ăm ắp những hình ảnh không chút già tạo dưới rặng dương hướng ánh mắt ta tới tận chân trời xa - ta sẽ được mãn nhãn nhờ bức tranh phong cảnh đồng nội cùng những chiếc cối xay gió.
Ở nơi đây, cũng như ở bất cứ nơi nào có đặt những tổ ong, chúng sẽ đem lại cho những cánh hoa, sự tĩnh lặng, bầu không khí man mác, những tia nắng một ý nghĩa mới. Ở đó như thể đang diễn ra ngày hội mùa Hạ. Ở đó ta có thể nghỉ ngơi ở một ngã tư tươi sáng, nơi những đường bay hội tụ và lan tỏa, từ lúc bình minh ló rạng cho đến khi hoàng hôn buông xuống, chúng mang theo đủ mọi hương vị bận rộn và đầy thanh sắc của làng quê. Ở đó ta có thể thấy một tâm hồn ngời ngời và hạnh phúc, một tiếng nói khôn ngoan và đầy nhạc điệu, một tổ ấm vui nhộn trong thời khắc tuyệt đẹp của khu vườn. Ở đó, trong ngôi trường của đàn ong, chúng ta hiểu ra những môi bận tâm của tự nhiên toàn năng, những mối quan hệ trong sáng giữa ba thế giới của tự nhiên, sự phát triển bất tuyệt của sự song, đức hạnh của sự lao động hăng say và vô vị lợi, và cũng tuyệt vời như đức hạnh của sự lao động - ở đó có những cô ong thợ anh hùng dạy ta biết quy trọng hương vị ngọt ngào thoáng qua lúc nhàn cư, qua những đường nét nồng nhiệt được hàng nghìn đôi cánh nhỏ của mình vẽ nên như thể nhấn mạnh cái niềm vui sướng gần như không thể diễn tả nổi của những ngày thanh khiết hồi chuyển quanh mình trong không gian, khi chẳng mang theo mình một cái gì, ngoài cái chu trình trong sáng, vẹn toàn, giống như niềm hạnh phúc hết mực trinh bạch.
VĐể cho việc theo dõi lịch sử trọn vẹn một vòng đời của tổ ong được đơn giản hơn, chúng ta hãy lấy một tổ ong vừa thức giấc mỗi độ Xuân về và bắt tay vào công việc. Và chúng ta sẽ thấy trước mắt chúng ta mở ra những sự kiện lớn của một đời ong theo một trình tự tự nhiên của mình, đó chính là: việc hình thành và tách đàn, việc tạo lập một nơi ở mới, sự sinh nở, những cuộc giao tranh và chuyến bay giao hoan của các ong chúa trẻ, việc tiêu diệt các con ong đực và trở lại thời kì ngủ Đông. Mỗi một sự kiện trong số đó tự nó đem lại những lời giải thích đối với các luật lệ, các đặc tính, các tập tính, các biến cố gây nên hay đi kèm theo sự kiện, vì trong một vòng đời ong ngắn ngủi, hoạt động của nó dù thế nào đi chăng nữa cũng không kéo dài quá thời đoạn từ tháng Tư đến cuối tháng Chín - chúng ta sẽ tiếp xúc với tất cả những bí ẩn của ngôi nhà ngào ngạt hương mật. Còn bây giờ, trước khi lựa chọn một tổ ong và đưa ra cái nhìn tổng thể về nó, chỉ cần nói rằng một tổ ong bao gồm một ong chúa, bà mẹ của toàn bộ dân ong, trong số một nghìn ong thợ, những con ong cái có khiếm khuyết vô sinh và cuối cùng, trong số hàng trăm con ong đực sẽ có duy nhất một một con được chọn làm ông chồng bất hạnh của bà nữ hoàng tương lai được các cô ong thợ chọn ra sau sự ra đi ít nhiều có phần tự nguyện của bà mẫu hậu đang trị vì.
VILần đầu tiên mở một tổ ong, bạn cảm thấy có sự lo âu nào đó; nó giống như cái cảm giác ta phải trải qua khi thâm nhập thô bạo và một khu vực bí hiểm có thể đầy những bất ngờ đáng sợ, như vào hầm mộ chẳng hạn. Xung quanh loài ong đã hình thành truyền thuyết đầy những mối nguy hiểm đe dọa. Lập tức trong kí ức hiện lên kỉ niệm khó chịu về những cú ong chích gây đau đớn ghê gớm không gì có thể sánh được; có thể nói là bỏng rát, cứ như lửa sa mạc trút xuống nơi hỏa hoạn; như thể các cô con gái của mặt trời đã làm ra thứ chất độc cháy bỏng từ những tia nắng giận dữ của cha mình, những mong để bảo vệ tốt hơn kho mật ngọt được chúng gom góp trong những giờ phút tốt đẹp của chúng.
Quả thật, nếu người mở tổ ong không tuân thủ sự thận trọng, anh ta không biết và không tôn trọng cá tính và tập quán của các cư dân ở tổ ong, thì tổ ong này trong chớp mắt biến thành một búi lửa bùng cháy sự giận dữ và anh hùng. Nhưng chẳng có gì dễ dàng hơn bằng việc có đôi chút khôn khéo cần thiết để tiếp xúc với tổ ong mà không bị trừng phạt. Chỉ cần một chút khói nghi binh, hết sức bình tĩnh và mềm mỏng là đủ, - và những cô ong thợ được vũ trang tốt sẽ cho phép ta cướp bóc, thậm chí chẳng nghĩ đến việc thò ngòi ra. Chúng không công nhận thủ lĩnh của mình, chẳng sợ con người, nhưng mùi khói và những động tác chậm rãi của đôi tay chuyển động trong ngôi nhà của chúng sẽ không đe dọa chúng, khiến chúng nghĩ rằng, đây không phải là sự tấn công và không phải là một kẻ thù ghê gớm, chúng có thể tự vệ chống lại được, mà đó là một thứ gì đó như thể là sức mạnh hay tai họa của thiên nhiên buộc chúng phải phục tùng. Thay vì chiến đấu một cách vô ích, những chú ong rất có tài tiên lượng - sự tiên lượng đánh lừa chúng, vì chúng quá nhìn xa trong rộng - những chú ong muốn, chí ít là cứu lấy tương lai và lao vào nguồn mật dự trữ để lấy và giấu trong chính bản thân mình chất liệu cho việc nhanh chóng tạo dựng một thành phố mới, nếu thành phố cũ bị phá hủy và cần phải từ bỏ nó.
VIIMột kẻ phàm phu được khi được quan sát một tổ ong mới đầu sẽ rất thất vọng3. Người ta quả quyết với anh ta rằng, cái hộp kính này chứa đựng trong mình sự hoạt động có một không hai, vô số những luật lệ khôn ngoan, rất nhiều điều đáng kinh ngạc về sự thiên tài, những bí ẩn, kinh nghiệm, tính toán, khoa học, những nghệ thuật khác nhau, sự nhìn xa trông rộng, niềm tin, những tập tính tinh khôn, những tình cảm kì lạ và những phẩm hạnh. Thế nhưng trong đó anh ta chẳng thấy gì, ngoài một đống chả ra hình thù gì những quả nhỏ màu hung đỏ, rất giống hạt cà phê rang hay quả nho khô chồng chất bên các tấm kính. Đống quả đáng thương ấy quả thật nằm như chết, chẳng sống động gì. Cả đống khẽ rung rinh bởi những chuyển động chầm chậm, rời rạc, khó hiểu. Anh ta không nhận thấy trong đó những giọt sáng đẹp mê hồn không ngừng vừa mới chìm xuống lại trồi theo nhịp thở rạo rực của cả nghìn đài hoa mãn khai tràn đầy châu ngọc.
Chúng run rẩy trong bóng tối. Chúng ngột ngạt trong đám đông bất động, như đám tù nhân ốm yếu hay những nữ hoàng bị truất ngôi chỉ có một khoảnh khắc huy hoàng giữa vườn hoa rạng rỡ, để rồi ngay sau đó phải trở về cảnh nghèo hèn tủi hổ trong lãnh cung chất chứa buồn đau của mình. Nhưng ở đây cũng diễn ra cái điều đúng như nó xảy ra với bất kể một thực tại sâu sắc nào. Cần phải học cách quan sát nó: một cư dân của một hành tinh nào đó nếu nhìn thấy những con người hầu như lầm lủi đi lại ngược xuôi trên đường phố, tụ tập thành đám đông quanh một vài tòa nhà hay trên quảng trường nào đấy, chẳng biết họ chờ đợi cái gì, chẳng hiểu vì sao cứ ngồi lì trong những ngôi nhà của mình, thì người đó từ những gì nhận thấy sẽ rút ra kết luận rằng, con người thật ù lì và thảm hại. Chỉ dần dần từng chút một mới có thể nhận biết ra cái hoạt động rất phức tạp trong sự thụ động này.
Thực sự thì bất kể một cái hạt nhỏ bé nào, gần như bất động trong số đó đang lao động không ngừng và làm một nghề đặc biệt. Không một con ong nào trong đàn biết đến nghỉ ngơi, và thí dụ những con ong trông như đang ngủ im và treo mình thành chùm bất động trên tấm kính, chúng đang thực hiện một công việc bí ẩn và nặng nề nhất: chúng đang luyện và tiết ra sáp. Nhưng chúng ta sẽ trở lại với những điểm đặc biệt của hoạt động thống nhất này ngay sau đây. Bây giờ chỉ cần chú ý đến một đặc điểm trọng yếu trong thiên tính của loài ong giải thích cho nỗi buồn chán khác thường khi chúng làm việc trong bóng tối. Khi một con ong ra khỏi tổ, nơi chen chật đến mức, nó phải dùng đầu mở đường cho mình xuyên qua những bức vách sống động bao quanh nó, nó bước ra khỏi bản năng của mình. Nó vụt chìm vào một không gian tràn ngập hoa, như một người lặn xuống đại dương đầy ngọc quý; nhưng bởi cái chết đe dọa nên nó qua những khoảng thời gian chính xác phải trở về hít thở không khí bầy đàn, đúng như người thợ lặn hít thở dưỡng khí. Trong tình cảnh đơn độc, một con ong có thể chết sau vài ngày, chính vì sự cô đơn này. Trong tình cảnh này thì nguồn thức ăn dồi dào, lẫn nhiệt độ thuận lợi nhất cho sự sống của nó cũng chẳng giúp ích được gì. Sự tập trung đông đúc, chiếc tổ chia sẻ cho nó thứ dưỡng chất vô hình xiết bao cần thiết như mật ngọt vậy. Cần chú ý đến nhu cầu này, để làm rõ được linh hồn trong các luật lệ của tổ ong. Trong tổ ong một cá thể chẳng là gì, nó chỉ là một thành tố không đáng quan tâm, một công cụ được chắp cánh của giống loài. Toàn bộ cuộc đời của nó là sự hy sinh trọn vẹn cho sự tồn sinh của [bầy đàn] đông vô kể và không ngừng tiếp nối, mà nó là một phần ở trong đó. Việc nhận ra rằng điều này không phải luôn như vậy mới thật kỳ lạ. Ngày nay trong các loài có cánh màng làm mật ta thấy tất cả các giai đoạn của một nền văn minh tiến bộ của con ong nhà của chúng ta. Dưới gầm cầu thang nó làm việc đơn độc, khốn khó; nó thậm chí thường không được thấy con cháu của mình (như Prosopis, Collates, v.v.), đôi khi sống giữa một gia đình chen chúc do nó tạo nên trong vòng một năm (như ong đất), tiếp theo là nó tạo ra những quần thể tạm thời (như Panurgues, Dasypodes, Halictes, v.v.), và cuối cùng, khi chuyển dần từng mức một, nó tiến tới một xã hội gần như hoàn chỉnh, nhưng nhẫn tâm với một cá thể - xã hội của các tổ ong của chúng ta - nơi một cá thể bị thể chế cộng hòa nuốt chửng, và nơi mà thể chế cộng hòa, đến lượt mình, lại thường xuyên trở thành vật hiến sinh cho cái xã hội trừu tượng và bất tử trong tương lai.
VIIIChúng ta không nên vội vàng dựa trên những sự kiện này rút ra các kết luận áp dụng cho con người. Con người có khả năng không tuân theo các quy luật của tự nhiên; và vấn đề là ở chỗ, anh ta có quyền hay không, khi sử dụng khả năng này - nó là một trong những điểm quan trọng và ít được làm sáng tỏ nhất trong đời sống của anh ta. Song không vì thế mà việc nắm bắt ý chí của tự nhiên trong một thế giới khác biệt với thế giới của chúng ta trở nên kém thú vị hơn; rõ ràng là, ý chí này bộc lộ một cách hết sức rõ ràng trong sự tiến hóa của những con vật cánh màng làm mật, mà sau con người, trong số các cư dân của trái đất, chúng là những sinh thể có trí lực trời phú hơn cả. Tự nhiên, rõ ràng, cố gắng hướng tới sự cải thiện giống loài, nhưng nó đồng thời cho thấy rằng, đừng mong điều đó hoặc không thể đạt được điều đó bằng một cách nào khác là phải làm tổn hại đến sự tự do cá nhân, các quyền và hạnh phúc của một cá thể. Cùng với việc một xâ hội hình thành và phát triển, đời sống riêng của mỗi thành viên của nó bị thu hẹp lại. Ở bất cứ đâu ta nhận thấy có sự tiến bộ, thì nó đều là kết quả của việc càng ngày càng hi sinh toàn bộ lợi ích cá nhân cho cái chung toàn. Việc đầu tiên là cần phải làm sao để mỗi thành viên từ bỏ những thói tật xấu - những hành động tự chủ. Ong đất nằm ở mức áp chót của nền văn minh ong là thế, chúng giống như những kẻ ăn thịt người của chúng ta vậy. Các con ong thợ trưởng thành thường bò loanh quanh những cái trứng để ăn chúng, và ong chúa buộc phải quyết liệt bảo vệ trứng. Sau đó là cần phải làm sao để mỗi thành viên đã trấnh khỏi các thói tật nguy hại nhất, có được một số đức tính tốt nhất định - đây là một việc ngày càng trở nên khó khăn hơn. Những cô ong thợ của loài ong đất chẳng hạn, chúng không nghĩ đến việc từ bỏ tình yêu, nhưng ong nhà của chúng ta lại sống luôn luôn trinh bạch. Vả lại, chúng ta sẽ được thấy ngay thôi tất cả những lợi ích cá nhân mà cô ong thợ phải từ bỏ vì hạnh phúc, sự an toàn, sự hoàn hảo về kiến trúc, kinh tế và chính trị của cả tổ ong, và chúng ta sẽ trở lại với sự tiến hóa phi thường của những con côn trùng cánh màng làm mật ở chương dành nói về sự tiến bộ của giống loài.