← Quay lại trang sách

Chương 2

Ngày hôm sau là một ngày xám xịt thường thấy vào mùa thu ở Bêlôruxia. Sáng dậy, tôi không gặp nữ chủ nhân đâu cả. Người ta cho tôi biết là đêm, nàng thường ngủ không yên giấc nên sáng hay dậy muộn. Bộ mặt bà quản gia lúc tôi ngồi ăn sáng, chẳng hiểu sao trông nhăn nhó lì lì đến khó chịu. Vì vậy, tôi không ngồi lại quá lâu ở bàn ăn, quay về phòng lấy một quyền vở dày đã hơi nhàu, dăm cái bút chì, khoác vội chiếc áo choàng đã kịp khô đi qua một đêm, hỏi thăm đường xá đến khu trại gần nhất và bước ra khỏi nhà.

Lập tức, tôi cảm thấy dễ chịu hơn mặc dù cảnh vật xung quanh chẳng có chút gì vui mắt. Mãi giờ đây đứng trên con đường mòn ướt át này tôi mới nhìn rõ tòa lâu đài. Đêm qua tôi tưởng tượng nó cũng nhỏ thôi bởi vì hai cánh nó đều ẩn kín sau những hàng cây trong khu vờn và toàn bộ tầng một ngập chìm trong rặng tử đinh hương bị bỏ hoang mọc um tùm cao vút. Dưới gốc rặng tử đinh hương, chen chúc rậm rịt những thược dược vàng, ngưu bàng, tầm ma cũng đủ loại cỏ dại...

Chỉ ngay trước cửa ra vào mới thấy có dấu vết bàn tay chăm sóc của con người: ở đó một bồn hoa lớn đỏ rực những bông cúc tây muộn mằn.

Tòa lâu đài trông quả thực ảm đạm và lạnh lẽo, khiến lòng tôi se lại. Tòa lâu đài gồm hai tầng, có một vọng lâu đồ sộ và vào tháp nhỏ ở hai cánh. Điều đập ngay vào mắt là nó chẳng theo một kiểu mẫu kiến trúc nào – một nét điển hình cho những tòa nhà của tầng lớp giàu sang ở Bêlôruxia thời bấy giờ khi tổ tiên chúng ta đã thôi không xây dựng các lâu đài trung cổ nữa, nhưng vẫn đòi hỏi các kiến trúc sư phải dựng lên những tòa điện tương tự như các hang ổ rêu phong cổ hủ này.

Tôi quyết định chỉ ra trại sau khi đã xem xét suốt lượt ở đây, nên đi học theo rặng cây. Có quỷ sứ mới biết được thằng cha ngu ngốc nào đã bày ra trò trồng ở một chốn âm u ảm đạm này toàn một loài tùng bách. Tuy nhiên, ý đồ đó đã được thực hiện và khu vườn, chí ít ra cũng đã trăm năm, chẳng ngoạn mục hơn khu rừng nổi tiếng của Đăngtơ được mấy tí. Những cây tùng bách cao to hai người ôm không xuể lấn gần đến toà nhà... chìa những cành lá rậm rịt vào tận cửa sổ, vươn những chóp xanh thẫm lên cao hơn mái nhà. Thân cây phủ kín rêu phong mốc thếch, cành thấp lòa xòa tận mặt đất, khiến đường đi giữa rặng cây trông như hẻm núi. Sát tận chân tường mới thấy vài cây gia khổng lồ, thân sẫm màu vì mưa ướt, hầu như trơ trụi, cau có, và một cây sồi cổ thụ, có lẽ thuộc loại di tích bảo tồn, bởi vì ngọn nó vươn cao hơn những cây tùng cao nhất phải đến dăm bảy thước.

Chân tôi bước không tiếng động trên thảm lá tùng. Từ hướng bên trái có mùi khói bếp phảng phất đưa lại nên tôi rảo bước tới đó. Lát sau, cây cối giãn ra để lộ một cái nhà ngang cũng lại um tùm bụi cây với cỏ dại, bậc thềm đã đổ nát, cửa sổ bịt kín.

“Từ đây đến lâu đài phải khoảng cây rưỡi – tôi thầm nghĩ – Ví thử có kẻ địch cắt cổ chủ nhân thì có bắn súng ở đây cũng chẳng ai nghe thấy”.

Ngay cạnh cửa sổ, trên hai viên gạch có bắc một nồi gang, một bà già lưng còng, tóc bạc phơ, đang dùng thìa ngoáy ngoáy trong nồi. Hẳn là trong ngôi ngà ngang, các bếp lò đều hun khói, vì vậy chủ nhân ngôi nhà đành phải nấu nướng ngay ngoài trời cho đến tận cuối thu thế này.

Tiếp nữa lại là rặng cây âm u. Tôi lần đi theo nó hồi lâu mới ra đến chỗ đêm qua chúng tôi lọt vào khu vườn. Ở đây còn nguyên vết bánh xe của chúng tôi. Hàng rào gang, uốn cực kỳ công phu đã bị đổ, bị đứt từng đoạn, hất sang bên. Mấy thân bạch dương non nớt đã kịp mọc luồn qua nhưng hình uốn khúc. Đến đây rặng cây rẽ trái và không hiểu dẫn đi đâu, còn bên kia hàng rào là cả một cánh đồng màu nâu xám trải rộng mênh mông, lác đác vài thân cây, cành nhánh cong queo, vài tảng đá khổng lồ và những bãi sình lầy xanh rêu (có lẽ đêm qua chúng tôi đã suýt sa vào một cái bãi như vậy, giờ đây nghĩ lại tôi còn thấy lạnh xương sống).

Một con quạ đang lượn lờ trên cái vùng đất chết chóc ấy.

... Khi chiều tối từ khu trại trở về lâu đài, tôi mệt mỏi bạc nhược đến nỗi hầu như không còn tự chủ được nữa. Tôi bắt đầu có cảm tưởng tất cả đều tuyệt vọng rồi: cả những cánh đồng vô bờ màu nâu xám xịt ấy, cả những sình lầy, cả những còn người sống dở chết dở vì sốt rét, cả khu vườn đang chết dần chết mòn vì già cỗi-tất cả mảnh đất vô vọng mà vẫn thân thương ấy, ngày u ám mây đen, đêm đỏ lừ mắt sói hoặc mưa xối xả không dứt cơn.

Nađêia Janôpxkaia đã đợi tôi, vẫn gian phòng hôm qua, và vẫn với vẻ kỳ lạ trên gương mặt nhăn nhó, ăn mặc vẫn xềnh soàng như vậy. Duy chỉ trên mặt bàn bày bữa trưa muộn mằn là vài thay đổi.

Bữa ăn quá ư đạm bạc, không tốn của nữ chủ nhân đến một xu bởi vì các món ăn đều là thực phẩm sẵn có ở nông thôn. Nhưng ở giữa bàn có đặt một chai rượu vang, có lẽ cũng lấy ra từ hầm rượu của nhà. Tất cả những thứ khác còn lại chỉ là phô trương màu sắc sặc sỡ và hình dạng kỳ dị. Giữa bàn là một bình hoa bằng bạc cám hai cành phong vàng rực: cạnh bình hoa là một bộ đồ ăn súp cũng bằng bạc, nhưng chắc hẳn thuộc một bộ khác – một chén để muối bằng bạc, bát đĩa. Tuy nhiên, điều làm tôi ngạc nhiên không phải là các bộ đồ bày biện bàn ăn hơn nữa chúng lại rất tạp nham, không đồng bộ, đã xỉn màu vì cũ kỹ, đôi chỗ đã móp méo. Điều khiến tôi ngạc nhiên là bộ đồ ấy đầu là những đồ cổ do bàn tay các nghệ nhân địa phương làm ra.

Tất nhiên, các bạn đọc của tôi đều biết rõ là vài ba thế kỷ trước đây bát đĩa bằng vàng bạc ở Bêlôruxia đều là đồ Đức và du nhập từ đất Phổ vào. Những đồ mỹ nghệ ấy trang trí chi chít những hoa văn, những hình vẽ thánh nhân và thiên thần, trông xinh xắn và diêm dúa đến buồn nôn. Biết làm sao được cái “mốt” thời bấy giờ nó như vậy.

Những đồ bày biện trên này đây đều của ta cả, những hình người thô thiển, chắc nịch trên bình hoa, những nét hoa văn độc đâó. Ngay cả đến những hình phụ nữ vẽ trên chiếc chén đựng muối cũng có diện mạo hơi thô của người địa phương đây.

Ngoài ra, trên bàn còn bày hai chiếc cốc lớn bằng thứ thủy tinh màu sắc sặc sỡ cổ xưa mà bây giờ có các vàng cũng không tìm đâu được (miệng một chiếc – chiếc đặt trước mặt nữ chủ nhân – hơi bị sứt).

Những tin nắng cuối cùng và cũng là duy nhất trong ngày hôm ấy lọt qua cửa sổ, rọi vào hai chiếc cốc thủy tin làm rực lên những tia lửa sặc sỡ muôn màu.

Chắc hẳn nhận ra sự chăm chú của tôi nên nữ chủ nhân giải thích:

– Đây là những thứ cuối cùng trong số ba bộ đồ bày biện bàn tiệc lưu truyền lại từ cụ tổ dòng họ chúng tôi là cụ Rôman Git-Janôpxki. Vậy mà vẫn có một truyền thuyết thật vô lý cho rằng đây là tặng vật mà...Quốc vương Xtác ban cho Người.

Hôm nay nàng có vẻ linh hoạt hơn, thậm chí trông không đến nỗi xấu như tôi tưởng, có lẽ vai trò nữ chủ tiếp khách khiến nàng hứng thú.

Chúng tôi nâng cốc, rồi vừa ăn vừa nói chuyện. Rượu màu đỏ như thạch lựu rất ngon. Tôi thấy vui, luôn pha trò khiến Nađêia phải bật cười và đôi má nàng hơi ửng hồng - một sắc hồng yếu ớt

– Tại sao tiểu thư lại thêm vào quý tính của cụ tổ nhà cái biệt hiệu “Git” [9] ạ?

– Chuyện cũ lắm rồi thưa ngài - nàng bỗng sa sầm nét mặt đáp – Nghe đâu hình như xảy ra trong một cuộc săn thì phải. Quốc vương hơi nặng tai, nên không nghe thấy tiếng chân một con bò rừng đang lao vòa ngài từ phía sau lưng. Chỉ có mình cụ tổ chúng tôi là Rôman Janôpxki trông thấy mối hiểm họa ấy và hét lên “Git” – theo tiếng địa phương đây có nghĩa là “Cẩn thận kìa!”. Quốc vương quay phắt lại, nhưng khi nhảy tránh sang bên lại bị ngã. Cụ Rôman liều mạng nổ súng mặc dù có thể đạn sẽ trúng quốc vương. Viên đạn đã găm vào mắt con bò rừng, quật nó ngã lăn ngay cạnh quốc vương. Sau vụ ấy, trên gia huy dòng họ chúng tôi thêm hình cây hỏa mai, và họ thì thêm biệt hiệu “Git”

– Thời ấy quả có những trường hợp như vậy - tôi xác nhận. – Xin lỗi tiểu thư là trong vấn đề phả học này, tôi quả dốt đặc. Theo tôi hình như dòng họ Janôpxki bắt đầu tình từ thế kỷ mười hai có phải không ạ?

– Từ thế kỷ mười ba - nàng đáp. - Giá như đừng tính dòng tính họ thì lại hơn. Các luật lệ gia tộc là điều ngu xuẩn hoàn toàn, ấy thế nhưng không sao có thể chống lại chúng. Giả dụ những cái lò sưởi này, cùng sự bắt buộc người nối dõi phải sống trong tòa nhà này, lời nghiêm cấm không được bán nó đi chẳng hạn. Vậy mà chúng tôi nghèo như những đứa ăn mày. Và lâu đài này là một tòa nhà khủng khiếp. Hình như có một lời nguyền treo lơ lửng trên số mệnh chúng tôi. Đã hai lần dòng họ chúng tôi bị tước gia huy, nhiều lần bị truy bức đàn áp. Hầu như không một ai trong tổ tiên chúng tôi được chết một cách bình thường. Đây, cụ mặc áo đỏ này bị làm lễ cầu hồn ở nhà thờ khi còn đang sống sờ sờ. Bà mệnh phụ có gương mặt khinh khỉnh này, một chị xa của chúng tôi họ là Đôxtôiépxkaia (nhân tiện xin trình ngài rõ, bà ta thuộc tổ tiên xa xưa của nhà văn nổi tiếng đấy) – bà ta đã giết chồng và suýt giết nốt cả con chồng, bà bị kết án tử hình. Biết làm sao được, những kẻ hậu sinh phải trả giá cho tất cả những tội lỗi ấy, nên đến tôi thì dòng họ Janôpxki này sẽ tuyệt nọc. Đôi lúc sao mà tôi thèm được thoát ra dưới trời nắng ấm, được ngồi dưới bóng xanh rợp mát của những cây cao đầy sức sống không bao giờ mọc ở chốn này. Nhiều khi tôi nằm mơ thấy chúng – những thân cây xanh tươi, cao to và nhẹ nhõm tựa những đám mây xanh lục. Mơ thấy cả những hồ nước nữa, những hồ nước trong veo, tràn đầy đến ngợp cả người, đến ngừng cả nhịp đập của con tim vì cảm giác hạnh phúc. Còn như ở đây...ở đây chỉ có toàn một loại tùng bách xấu xí, ghê tởm, cùng với đống lầy, bóng tối âm u...

Ánh lửa cháy, trong lò khiến gương mặt nàng hơn ửng hồng. Ngoài khung cửa sổ, đêm đen buông xuống ấp từ lâu và hình như lại một trận mưa rào đang ập đến.

– Ôi, thưa pan Bêlôretxki, tôi rất lấy làm sung sướng được thấy ngài ngồi đây, được thấy cạnh mình còn có một người khác. Thông thường trong những đêm tối thế này tôi phải hát thật to, khốn nỗi tôi không biết một bài hát hay nào, toàn những bài hát cổ xưa, chép tay thành từng quyển mà ông nội tôi đã sưu tầm được. Trong các bài ca ấy lại cũng toàn những chuyện hãi hùng: có kẻ khốn khổ đang lết vệt máu giữa sình lầy từ lâu mà đêm đêm vẫn ngân vang, ngân vang mãi....

Ngày đến rồi lại qua đi...

Nàng bỗng cất tiếng hát, giọng run rẩy sâu lắng:

Ngày đến rồi lại qua đi

Đêm đen dần buông xuống

Chàng Xkakô cùng Kiecdiai Paxúc

Chiến đếu suốt một ngày một đêm

Máu dòng dòng chảy

Gươm va chan chát, chớp lửa sáng ngời

Xkakô ngã ngựa gọi vang đất trời:

“Các bạn nơi đâu, hỡi anh em đồng chí?”

Bạn hữu nơi xa nghe sao thấy nhỉ?

Riêng nàng Liupka nhận ra tiếng chàng

Liền tụ tập họ hàng kiêu dũng

Phóng ngựa như bay

Tới đầm lầy xa lắc...

– Tiếp theo không hay chả nên hát. Riêng mấy câu kết là hay hơn cả:

Và họ đã yêu nhau

Cùng chung sống đến bạc đầu

Cùng soi chung bóng nhật nguyệt

Cùng bước xuống huyệt sâu...

Tôi cảm động sâu sắc và chân thành. Phải là một người tin tưởng sâu sắc vào những điều mình hát, mới xúc động được như vậy. Và bài ca cổ thật tuyệt vời.

Nhưng bỗng dưng nàng gục mặt vào lòng bàn tay mà khóc nức nở. Xin thú thực trái tim tôi lúc ấy như rớm máu. Biết làm sao được, tôi hay thương cảm quá đỗi.

Tôi không còn nhó đã an ủi nàng bằng những lời lẽ nào.

Bạn đọc kính mến, từ đầu cho đến đây, trong câu chuyện đang kể, có thể nói, tôi đã cố làm một nhà văn, hiện thực nghiêm ngặt. Bạn biết rồi đấy, tôi vốn không ham mê những cuốn tiểu thuyết kiểu bà Ratklip thường viết, cho nên chính tôi sẽ không tin vào những điều xảy ra tiếp sau đây. Bởi vậy mà giọng kể chuyện cuả tôi cũng đột ngột thay đổi.

Xin bạn hãy tin tôi, nếu tất cả chỉ là một trò bịa đặt thì tôi thà phịa một chuyện khác. Tôi trộm nghĩ rằng thị hiếu của tôi không đến nỗi tồi, vậy mà những điều như câu chuyện sau đây thì không một nhà tiểu thuyết biết tự trọng nào lại dám cả gan đem mời những bạn đọc nghiêm túc.

Tuy nhiên, tôi đang kể lại những điều có thực trăm phần trăm. Tôi không thể nói dối được vì những điều kể dưới đây quá ư hệ trọng đối với riêng cá nhân tôi. Bởi vậy, tôi sẽ kể đúng như sự thực đã xảy ra.

Hai chúng tôi ngồi lặng thinh khá lâu. Lò lửa đang tàn, bóng tôi đang lan dần khắp xó xỉnh gian phòng rộng lớn. Chợt ngước mắt lên nhìn Nađêia tôi phát hoảng, đôi mắt nàng mở to, mái đầu cúi nghiêng kỳ lạ. Môi tái nhợt đi đến mức không còn thấy đâu nữa.

– Ngài có nghe thấy gì không?

Tôi lắng tai nghe. Thính giác của tôi khá tinh, nhưng phải đến một phút sau tôi mới phát hiện điều nàng đã nghe thấy.

Đâu đó ngoài hành lang, phía bên trái chúng tôi, có tiếng ván sàn cót két dưới chân ai đó đang đi.

Có ai đó đang bước đi khắp các dãy hành lang thông thống và vô số ngóc ngách. Tiếng bước chân lúc hiện lúc mất.

– Ngài có nghe thấy không? két...két...két...

– Tiểu thư Nađêia! tiểu thư làm sao thế? Cái gì vậy?

– Xin ngài buôn tôi ra... Người Lùn đấy... Lại nó đấy mà... Nó đến đòi phần hồn tôi đấy.

Qua những lời thảng thốt ấy, tôi chỉ hiểu ra một điều là trong tòa nhà này có kẻ nào đó bày ra những trò đùa nghịch vô nghĩa lý, một tên vô lại nào đó chủ tâm dọa nạt người con gái.

Mặc cho Nađêia bám chặt vào tay áo tôi, cố níu tôi lại, tôi vơ cái que cời lò, lao qua mấy bậc thang nhảy ra hành lang. Trong phúc chốc, tôi đạp tung cửa. Cái hành lang thông thống tối lờ mờ, nhưng tôi vẫn nhìn rõ là chẳng có ai ở đó cả. Đúng vậy, không một bóng người. Chỉ có tiếng chân bước, vẫn dò dẫm như ban nãy, nghe khá rõ.

Tiếng chân bước lúc đầu ngay cạnh tôi, nhưng dần dà đi xa dần về phía cuối hành lang.

Biết làm gì bây giờ? Đánh nhau với kẻ vô hình kia ư? Tôi biết đó là chuyện vô ích. Song vẫn ném mạnh que cời lò về phía có tiếng chân bước. Cái que lao vút qua khoảng không rơi loảng xoảng xuống sàn.

Tức cười lắm, có phải không ạ? Nhưng lúc ấy, hẳn các bạn đã đoán ra, tôi chẳng buồn cười chút nào. Đáp lại đòn hiệp sỹ đáng ngợi khen của tôi có một tiếng gì rên lên khủng khiếp, tiếp theo nghe rõ vài ba bước chân nữa, rồi tất cả im bặt.

Đến lúc này tôi mới chợt nhớ ra là nữ chủ nhân ngồi lại một thân một mình trong gian phòng rộng lớn ánh lửa lù mù, nên vội trở lại với nàng.

Tôi cứ tưởng nàng đã ngất đi đã mất trí vì khiếp sợ, đã chết rồi cũng nên. Tôi không hề ngờ tới cảnh tượng đã bắt gặp khi trở vào phòng. Nađêia đang đứng cạnh lò sưởi, nét mặt nghiêm nghị, sa sầm, nhưng hầu như bình thản, và lại vẫn cái vẻ kỳ lạ khó hiểu ấy trong khóe mắt.

– Ngài lao ra đấy vô ích, - nàng nói – Tất nhiên là ngài đã chẳng thấy ai ở đó. Tôi biết như vậy bởi vì chỉ có tôi là hay nhìn thấy nó. Đôi khi bà quản gia cũng thấy. Cả Becman cũng đã có lần thấy.

– “Nó” là ai vậy?

– Người Lùn Rùng Tùng Đầm Lầy ấy mà.

– Hắn là cái gì vậy?

– Tôi không biết. Nhưng nó thường xuất hiện mỗi khi ở Rùng Tùng Đầm Lầy có người sẽ phải chết bất đắc kỳ tử. Có khi nó còn phải đi lại hàng năm trời nữa, nhưng nó sẽ đạt được điều nó muốn.

– Rất có thể, nó sẽ còn phải đi lại chừng bảy chục năm nữa, cho đến khi cháu chắt tiểu thư sẽ chôn cất tiểu thư. – Tôi pha trò không đúng lúc.

Nàng ngẩng phắt đầu lên:

– Tôi căm ghét những kẻ lấy vợ lấy chồng. Và xin ngài chớ đùa chuyện này. Chuyện này rất nghiêm chỉnh. Đã tám người trong gia tộc chúng tôi chết như vậy - ấy là chỉ kể những người gia phải có ghi lại. Lần nào cũng có nhắc đến Người Lùn cả.

– Xin tiểu thư chớ qua lo lắng. Tổ tiên chúng ta đã chẳng từng tin là có ma quỷ đó sao? Và bao giờ chẳng có và ba kẻ thề độc địa là đã chính mắt thấy lũ ma quỷ ấy.

– Thế còn cha tôi? Còn cha tôi thì sao? Đây không phải là chuyện ghi chép nữa, mà chính tôi nghe, tôi thấy. Cha tôi là một người vô thần, nhưng ông cũng phải tin là có Người Lùn cho đến tân ngày bị đội săn giết chết. Chính tai tôi nghe mà, ngài có hiểu không? Trong chuyện này, ngài không thuyết phục nổi tôi đâu. Những tiếng chân ấy đã vang lên trong tòa lâu đài này hầu như ngày ngày trước khi cha tôi chết.

Tôi biết làm gì được? Thuyết phục nàng rằng đó chẳng qua chỉ là ảo ảnh thính giác ư? Nhưng tôi thì tôi đâu có bị ảo ảnh thính giác mê hoặc, tôi đã nghe rõ mồn một những bước chân ấy, cả tiếng rên nữa. Bảo rằng đó chỉ là một trò ảo thuật âm học ư? Không hiểu lời giải thích như vậy có hiệu quả hay không mặc dù đến quá nửa số lời đồn đại về những hồn ma trong các tòa lâu đài dòng họ Liubômirxki ở Đubrôpnhia, cuối cùng được khám phá ra đưới dạng một chiếc bình đựng thủy ngân và những đồng tiền vàng. Một cha tinh nghịch nào đó cách đây trăm năm đã “yểm” cái bình vào ống khói, về phía mặt trời. Cứ hễ có ánh mặt trời ấm áp chiều lên thay cho bóng đêm lạnh lẽo là trong hầu hết các gian phòng ở tầng hai bắt đầu nghe rõ tiếng hú man rợ tiếng sột soạt.

Nhưng làm sao mà thuyết phục được một con bé ngốc nghếch cơ chứ? Bởi vậy tôi đành hỏi ra vẻ quan trọng:

– Thế nó là ai vậy? Trông nó thế nào, cái tên lùn ở Rùng Tùng Đầm Lầy ấy?

– Tôi đã nhìn thấy nó ba lần, nhưng lần nào cũng từ xa. Một lần trước ngày cha tôi chết. Hai lần sau cách đây không lâu. Còn nghe thấy, phải đến trăm lần. Tôi không hề thấy sợ, có lẽ chỉ có lần gần đây nhất là hơi sợ. Tôi tiến lại phía nó, nhưng nó lập tức biến mất. Nó quả là một người lùn thật, đứng chỉ đến ngực tôi, trông còm nhom như một đứa trẻ yểu tướng. Đôi mắt nó to, buồn rười rượi, hai tay dài ngoẵng, cái đầu thuỗn ra. Nó ăn mặc như hai trăm năm trước đây, có điều là theo kiểu Tây Âu. Quần áo đều màu xanh lục. Tôi thường bị mất hút bóng nó ở chỗ ngoặt của hành lang hoang toàn kín. ở đó, chỉ có một căn phòng chứa những đồ rách nát đã bỏ đi, nhưng cửa căn phòng đã đóng đinh năm phân bịt chặt.

Tôi thấy thương hại cô bé. Chắc hẳn, cô ta đang đi đến chỗ hoàn toàn mất trí

– Như vậy chưa phải đã hết đâu – Nađêia trở nên hoạt bát hơn. – Có lẽ đã ba trăm năm nay trong lâu đài này không còn bóng dáng thiếu phụ Áo xanh nữa, kia kìa, cái bà trên bức chân dung treo kia, ngài có thấy không ạ? Những truyền thuyế trong gia tộc kể rằng bà ta đã uống no khát vọng trả thù, nhưng tôi không tin. Bà ta không phải hạng người như vậy. Năm 1501 khi bị lôi đi xử tử, bà ta đã hét vào mặt chồng: “Nắm xương khô của bà còn chưa nằm yên chừng nào con rắn độc cuối cùng trong dòng họ nhà mày chưa chết nhăn răng ra”. Đến gần một trăm năm sau đó cả dòng họ điêu đứng với bà ta: Khi thì dịch hạch, khi thì bình rượu chẳng biết bị ai bỏ thuốc độc, khi thì có người lăn ra chết vì những giấc mơ khủng khiếp. Mãi đến đời chút chít, bà ta mới thôi không báo thù nữa...

Nhưng bây giờ thì tôi tin rằng bà ta sẽ thực hiện đúng lời đã nguyền. Cách đây không lâu, Becman có nhìn thấy bà ta đứng trên cái ban công cũng đã đóng đinh bịt kín, những người khác cũng đã nhìn thấy... Riêng mình tôi là chưa nhìn thấy bà ta, nhưng bà ta vốn có thói quen như vậy, mới đầu bà ta hiện về cho mọi người thấy đã, còn riêng với cái người bà ta cần gọi đi thì bà ta chỉ hiện về vào giờ tận số... Dòng họ tôi sẽ tuyệt tự ở tôi. Chẳng còn phải chờ đợi lâu la gì nữa đâu. Bọn họ sẽ được thỏa mãn.

Tôi cầm lấy tay nàng và xiết chặt mong làm cho nàng bình tâm lại, làm cho nàng khuây khỏa, quên đi những lời nàng vừa mới nói như trong một cơn mê sảng.

– Tiểu thư không nên quá lo lắng. Chuyện đã như vậy thì tôi cũng sẽ lưu tâm. Thời đại hơi nước không thể dung nạp những hồn ma bóng quỷ. Tôi xin thề rằng sẽ dành trọn hai tuần sống ở đây để khám phá cho ra những điều bí ẩn này. Quỷ thật, vô lý hết mức! Chỉ xin tiểu thư chớ quá lo sợ.

Làn môi nàng mỉm một nụ cười yếu ớt:

– Đâu có, thưa ngài...Tôi quen rồi mà. Chuyện như mới rồi, ở đây đêm nào chẳng có.

Trên gương mặt nàng lại thoáng hiện cái vẻ khó hiểu đối với tôi và làm xấu hẳn khuôn mặt nàng. Mãi đến lúc này tôi mới hiểu ra: đó là cái vẻ khiếp nhực một nỗi khiếp nhược cố hữu u mê. Không phải là một sự khủng khiếp khiến người ta phải dựng hết tóc gáy lên trong giây lát, mà là cả một nỗi khiếp nhược tích tụ qua bao năm dài, cuối cùng đã trở thành một trạng thái thường trực đến cả trong giấc ngủ mê mệt vẫn không thoát ra được. Cô gái bất hạnh lẽ ra trông không đến nỗi nào nếu như trên gương mặt cô không ẩn hiện cái vẻ khiếp nhược ấy.

Mặc dù tôi ngồi gần như kề bên, cô gái xích lại sát tôi hơn để khỏi phải thấy bóng tối ở sau lưng.

– Ôi, khủng khiếp lắm, pan Bêlôrutxki. Tôi có tội tình gì, tại sao tôi phải trả nợ cho những tội lỗi của tổ tiên? Vậy mà toàn bộ gánh nặng khủng khiếp kia chất cả lên đôi vai gày yếu của tôi. Lại toàn những của đen tối, nhớp nháp. Ngài không thể tưởng tượng nổi là đã biết bao máu đổ thây phơi, bao vụ hạ sát, bao nước mắt trẻ thơ côi cút, bao nhơ nhuốc trên mỗi tấm gia huy sliăcta! Đã biết bao người bị giết, bị đe dọa, hành hạ cho đến chết! Giai tầng chúng tôi quả không còn được quyền tồn tại nữa, kể cả những kẻ trung thực, tốt đẹp nhất trong chúng tôi. Trong huyết quản chúng tôi đâu còn dòng máu xanh [10] chỉ toàn những máu nhơ bẩn thôi. Chẳng lẽ ngài lại cho rằng chúng tôi, tất cả chúng tôi, cho đến tận đời thứ hai mươi không phải chịu trách nhiệm về những tội lỗi tày đình đó, không phải đền nợ bằng khổ đau, bần cùng, chết chóc hay sao? Chúng tôi sống thờ ơ với nhân dân, những người đã chịu khổ đau bên cạnh chúng tôi và do chúng tôi, chúng tôi coi họ là một lũ dân đen, là đồ súc sinh chúng tôi đổ rượu nho tràn trề, còn họ thì phải đổ máu lênh láng. Họ không được ăn thứ gì khác ngoài thứ bánh mỳ tồi tàn. Một hôm ông láng giềng của tôi là pan Đubôtôpkơ đến chơi với cha tôi có kể một giai thoại về chuyện một bà nông dân dắt con đến thăm cha cố mời món bánh khoai hấp nhân thịt. Đứa bé hỏi mẹ nó đấy là bánh gì. Bà mẹ vốn quen phép lịch sự kiểu nhà quê, nên ngầm đá chân con dưới gầm bàn, thì thầm bảo: “Im đấy!”. Đứa bé ăn hết nhẵn cả một đĩa, đoạn thở dài, nhỏ nhẻ “Con ăn một lúc hết cả mười cái im đấy”. Mọi người nghe đến đó đều phá lên cười riêng tôi lại muốn cho ông Đubôtôpkơ một cái tát. Có gì là đáng cười khi trẻ em chưa bao giờ được thấy một tấm bánh bột khoai, chưa bao giờ được biết mùi thịt. Tóc tai chúng lơ thơ, chân vòng kiềng, mười bốn, mười lăm vẫn còn là đứa bé, nhưng hai bốn - hai lăm đã thành những ông cụ, da dẻ nhăn nhúm hết. Nhưng thanh niên như vậy có cho ăn gì đi nữa, vẫn đẻ ra những đứa con yểu tướng, nếu như họ còn sinh nở được... Họ đáp lại chúng tôi bằng hàng loạt các cuộc khởi nghĩa họ tàn sát chúng tôi trong các cuộc khởi nghĩa ấy vì đã từng phải chịu đựng sự lăng nhục đầy đọa vô cùng tàn bạo. Sau đó, đến lượt chúng tôi treo cổ họ, đây ông mặc áo cổ lông hải ly này, đã từng tra tấn đến chết cả người em họ chỉ vì anh ta tham gia cuộc khởi nghĩa của Vasilô [11]. Người em tên là Agei Grukê-vich Janôpxki.

Chúng tôi sống bàng quang với đồng loại. Cũng nhưng kẻ có hai chân như chúng tôi phải ăn cỏ qua ngày, mặc dù xứ sở chúng ta giàu có và hào phóng, một xử sở tươi đẹp nhất trên trái đất này, không bao giờ để cho con người phải thiếu ăn. Chúng tôi đã buôn bán tổ quốc, bán rẻ quê hương cho các lân bang, cho bất kỳ kẻ nào muốn mua. Còn nông dân, họ lại yêu quý Tổ quốc – người mẹ ghẻ đối với họ và... chết đói vì thiếu bánh ăn. Vậy thì ai có thể lên án họ khi họ với lấy cái đinh ba và xọc vào ngực chúng tôi? Tôi thiết nghĩ: ngay cả trăm năm sau nữa, khi tất cả lũ chúng tôi đã chết hết rồi, nếu như tình cờ cháu chắt những kẻ bất hạnh ấy bắt gặp một anh chàng sliăctich nào thì họ vẫn sẽ có quyền giết anh ta. Chúng tôi không có chỗ dứng trên trái đất này.

Tôi nhìn nàng mà ngạc nhiên. Những phút bồng bột, sôi nổi ấy khiến gương mặt nàng trở nên khác thường. Tôi bỗng nhận ra rằng nàng đâu có xấu xí. Không! Trước mặt tôi là một cô gái khác thường, đẹp một cách kỳ lạ pha lẫn vẻ điên dại. Trời! Một sách đẹp huyền diệu... Chắc hẳn đó là vẻ đẹp của các vị “nữ tiên tri” ở xứ sở ta cổ xưa, từng tham gia chiến đấu trong các đội quan của Muraska và đức Khơristô thợ cày [12]. Đó là một vẻ đẹp siêu phàm, khổ hạnh, với làn môi xót xa và đôi mắt mở to ráo hoảnh.

Thế rồi... bỗng tất cả đều vụt biến mất. Trước mắt tôi lại chỉ là một con bé ẻo lả. Tuy nhiên, tôi cũng đã được biết vẻ thực của nàng.

– Dẫu sao tôi cũng không muốn phải chết. Tôi khát khao ánh mặt trời, những thảm cỏ xanh rờn mà tôi chưa hề được thấy, tôi thèm iếng cười của con trẻ. Tôi rất muốn sống, mặc dù không được quyền sống. Chỉ nhờ có những ước mơ ấy về cuộc sống mà tôi mới có đủ sức lực chịu đựng suốt hai năm nay, dẫu lối thoát vẫn chẳng thấy đâu. ở chốn này chỉ có những tiếng cân bước trong đêm hoang vắng cùng Người Lùn, Thiếu phụ Áo Xanh. Tôi biết tôi sẽ phải chết. Và trăm sự đều do đội săn của quốc vương Xtác. Nếu không, có lẽ chúng tôi sẽ còn được sống. Chính cái đội săn ấy sẽ giết hết chúng tôi.

Nàng im bặt, lặng thinh suốt một tiếng đồng hồ, cho đến tận giờ đi nghỉ.

Nếu như trước đó tôi hầu như bàng quan với số phận của cô tiểu thư sliăctich yểu tướng ấy, thì sau khi những lời bồng bột của nàng tôi hiểu ra rằng không rõ nhờ một phép màu nhiệm nào đó mà cô tiểu thư quý tộc này đã trở nên một cong người chân chính. Vậy nhất thiếu phải cứu giúp con người ấy.

Nằm chong mắt thâu đêm suốt sáng, tôi suy đi nghĩ lại một điều là, nếu như mới hôm qua tôi còn rắp tâm hai ngày nữa sẽ ra đi bỏ mặc xác cái chốn u ti quốc này cùng nữ chủ nhân thế gia vọng tộc của nó, thì giờ đây tôi quyết định sẽ ở lại đây tôi quyết định sẽ ở lại đây một, hai, ba tuần, cả tháng nước, để khám phá cho ra mọi điều bí ẩn và trả lại cho một con người sự thanh thản mà người ấy xứng đáng được hưởng.

[9] Một phong tục ở Bêlôruxia cổ xưa: thêm biệt hiệu thường gọi vào họ. Chẳng hạn, họ bình thường là “Lêônôvich”, họ kèm thêm biệt hiệu là “Pora- Lêônôvich” vì tổ tiên dòng họ này, khi xung trận có tập quán hò hét “Pora! Pora! “ (Đến lúc rồi! Đến lúc rồi!) – (Chú thích của tác giả)

[10] Theo quan niệm xưa, trong huyết quản của những người thuộc tầng lớp quý tộc, máu không đỏ như mọi người bình thường mà màu xanh lơ (N.D)

[11] Vasilô – Anh hùng dân tộc Bêlôruxia, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa những năm 1746-1944 (Chú thích của tác giả).

[12] Hai thủ lĩnh các cuộc khởi nghĩa ở vùng Minxk và ven sông Nê man (chú thích của tác giả)