← Quay lại trang sách

Chương 12

Gần cuối năm thứ ba đại học lại là một kỳ bầu cử nữa. Khoảng một năm trước tôi đã quyết định sẽ ra tranh cử chức chủ tịch ban đại diện sinh viên. Dù tôi không mấy khi ở trong trường, tôi vẫn giữ liên lạc với bạn bè và theo dõi các hoạt động ở trường, và xét tới những lần thành công trước đây, tôi nghĩ là mình có thể chiến thắng. Nhưng thực ra tôi không bắt kịp tình hình như tôi tưởng. Đối thủ của tôi, Terry Modglin, là lớp phó lớp chúng tôi. Cậu ta đã chuẩn bị ra tranh cử trong cả năm trời, tìm kiếm sự ủng hộ và vạch ra một chiến lược. Tôi đưa ra một chương trình tranh cử cụ thể nhưng bình thường. Modglin thì khai thác tâm trạng bất bình ngày càng tăng trong khắp các đại học ở Mỹ, cũng như sự phản kháng cụ thể của sinh viên trước những đòi hỏi học thuật cũng như sinh hoạt nghiêm khắc cứng nhắc của trường Georgetown. Cậu ấy gọi chiến dịch của mình là "Cuộc nổi loạn của Modg", nhái theo "Cuộc nổi loạn của Dodge" - khẩu hiệu quảng cáo của hãng xe hơi. Cậu ấy và các ủng hộ viên mô tả họ như những người chính trực chống lại chế độ Dòng Tên và tôi. Vì quan hệ tốt của tôi với ban giám hiệu trường, lại thêm công việc và chiếc xe, rồi chiến dịch tranh cử đầy vẻ chính thông, nên tôi trở thành ứng viên "của trường". Tôi nỗ lực, và bạn bè tôi cũng vậy, nhưng có thể thấy ngay từ đầu chúng tôi đã gặp gay go vì hoạt động dữ dội của Modglin và đồng sự của cậu ta. Thí dụ như các tờ cổ động của tôi bỗng biến mất với một tốc độ báo động. Để trả đũa, một buổi tối gần ngày bầu cử, một số người của tôi đi xé các tờ cổ động của Modglin, bỏ vào trong xe và đem vứt đi. Họ đáng bị phát hiện và khiển trách.

Mọi chuyên đã ngã ngũ. Modglin đánh bại tôi tơi tả với tỷ lệ phiếu 717-570. Cậu ấy xứng đáng chiến thắng. Cậu ta suy nghĩ, làm việc và tổ chức đều hơn hẳn tôi. Và cậu ấy cũng mong muốn vị trí ấy tha thiết hơn tôi. Bây giờ nhìn lại, lẽ ra tôi không nên tranh cử từ đầu. Tôi không đồng ý với đa số bạn cùng lớp rằng chương trình học cần phải thoải mái hơn; tôi thích chương trình y như cũ. Tôi đã mất đi sự tập trung chú ý vào sinh hoạt trong trường vốn là thứ giúp tôi giành chức lớp trưởng những lần trước. Và chuyện tôi hay vắng mặt trong trường làm người ta dễ coi tôi như người thân cận của nhà trường tìm cách xoay xở cho qua truông. Tôi vượt qua thất bại này cũng nhanh chóng và đến cuối năm bắt đầu mong ở lại Washington trong dịp hè để làm việc cho ủy ban và học thêm vài môn. Tôi không thể biết được rằng mùa hè năm 67 ấy là sự yên lặng trước cơn bão, cho tôi và cho cả nước Mỹ.

Mùa hè ở Washington mọi việc chùng xuống, và quốc hội thường tạm nghỉ trong tháng 8. Nếu bạn còn trẻ, quan tâm đến chính trị và không sợ nóng thì Washington là nơi tốt cho bạn. Kit Ashby và một bạn cùng lớp khác của tôi là Jim Moore mướn một căn nhà cũ ở số 4513 đại lộ Potomac, ngay quá đại lộ MacArthur và nằm phía sau trường Georgetown chừng một dặm. Họ mời tôi đến ở chung trong mùa hè và cả năm cuối nữa, lúc đó sẽ có thêm Tom Campbell và Tommy Caplan. Căn nhà này nhìn ra sông Potomac, có năm phòng ngủ, một phòng khách nhỏ và một gian bếp ngăn nắp. Nó cũng có hai khoảng ban công trống bên ngoài các phòng ngủ ở tầng hai, nơi chúng tôi có được ít ánh nắng vào ban ngày và đôi khi chúng tôi ngủ luôn tại đó trong không khí dịu nhẹ của mùa hè. Chủ trước của nhà này là một người từng soạn quy tắc thiết kế ống dẫn áp dụng toàn quốc từ đầu thập niên 50. vẫn còn một bộ những pho sách rất thú vị ấy trên các kệ sách trong phòng khách, được đỡ đứng lên bang một cặp giá chặn sách có hình ông Beethoven bên đàn dương cam. Đó là món đồ thú vị duy nhất trong cả căn nhà này. Bạn bè tôi nhường nó cho tôi, và tôi vẫn còn giữ.

Kit Ashby là con trai một bác sĩ ở Dallas. Khi tôi làm việc cho Thượng nghị sĩ Fulbright, cậu ấy làm việc cho Thượng nghị sĩ Henry "Scoop" Jackson bang Washington, người mà, cũng như Johnson, theo khuynh hướng tự do trong đối nội nhưng lại có quan điểm diều hâu về vấn đề Việt Nam. Kit chia sẻ quan điểm của ông ấy và chúng tôi rất hay tranh luận với nhau. Jim Moore thì lại là con quân nhân nên đi khắp nơi trong thời thơ ấu. Anh ấy là một sử gia nghiêm túc và là một trí thức thực sự, với quan điểm về Việt Nam ở khoảng giữa quan điểm của tôi và của Kit. Vào mùa hè năm đó và năm học tiếp theo, tôi kết bạn với họ. Sau khi tốt nghiệp Georgetown, Kit gia nhập lính thủy quân lục chiến, rồi trở thành một giám đốc ngân hàng quốc tế. Khi tôi làm tổng thống, tôi chỉ định anh ấy làm đại sứ ở Uruguay. Jim Moore tiếp bước cha vào quân đội, về sau rất thành công khi làm quản lý quỹ đầu tư hưu trí của tiểu bang. Khi nhiều bang gặp rắc rối với các khoản đầu tư này vào đầu thập niên 80, tôi được anh ấy cho những lời khuyên rất hữu ích về việc nên làm gì ở Arkansas.

Tất cả chúng tôi đều vui vẻ trong mùa hè năm ấy. Ngày 24 tháng 6, tôi đến Hội trường Constitution để nghe Ray Charles hát. Bạn hẹn hò với tôi lúc ấy là Carlene Jann, một cô gái nổi bật tôi gặp tại một trong các buổi giao lưu mà trường của các cô ở đó hay tổ chức cho các chàng trai Georgetown. Cô ta cao gần bằng tôi và có mái tóc vàng dài. Chúng tôi ngồi gần cuối ban công và nằm trong số rất ít người da trắng trong buổi giao lưu. Tôi khoái Ray Charles từ khi nghe bài "What'd I say" của ông: "Hãy bảo mẹ, bảo cha, anh sẽ gửi em về lại Arkansas". Đến cuối buổi biểu diễn Ray mời mọi người ra lối đi để nhảy theo nhạc. Khi tôi về đến đại lộ Potomac đêm đó, tôi phấn khích đến mức không ngủ được. Đến năm giờ sáng tôi đành chịu thua và dậy chạy bộ luôn ba dặm. Tôi còn giữ cuống vé buổi biểu diễn trong ví đến cả chục năm sau.

Hội trường Constitution đã thay đổi rất nhiều kể từ thập niên 1930 khi tổ chức Những con gái của Cách mạng Mỹ còn từ chổi không cho Marian Anderson được biểu diễn ở đó vì bà là người da đen. Nhưng rất nhiều người da đen thế hệ sau đã tiến xa hơn rất nhiều so với việc đơn thuần bước vào các thính phòng hòa nhạc. Sự bất binh càng tăng về nghèo đói, tệ phân biệt đối xử vẫn tiếp diễn nạn bạo lực nhắm vào những người hoạt động cho dân quyền, và con số bất bình thường những binh sĩ da đen chiến đấu và chết ở Việt Nam đã châm ngòi cho phong trào phản kháng vũ trang mới đặc biệt là ở những thành phố của nước Mỹ, nơi mà Martin Luther King Jr. vẫn cố gắng giành lấy con tim và khối óc của người Mỹ da đen khỏi ảnh hưởng của phong trào "Black Power" (Hắc Quyền) vốn mang tính vũ trang hơn nhiều.

Giữa thập niên 60, các vụ bạo loạn chủng tộc đủ các quy mô và độ dữ dội đã lan tràn các khu vực da đen ngoài miền Nam. Trước năm 1964, lãnh tụ_Hồi giáo da đen Malcolm X đã gạt bỏ việc hòa nhập chủng tộc để theo đuổi các nỗ lực chỉ của người da đen nhằm xóa nghèo và giải quyết các vấn nạn đô thị khác, và dự đoán rằng "bạo lực chủng tộc sẽ còn lên đến mức mà người da trắng chưa từng thấy".

Vào mùa hè năm 1967, khi tôi đang vui thú ở Washington thì ở Newark và Detroit đã xảy ra những vụ bạo loạn nghiêm trọng. Đến cuối hè, ở các thành phố tại Mỹ đã có trên 160 cuộc bạo động. Tổng thống Johnson lập ra ủy ban tư vấn quốc gia về Trật tự dân sự, chủ tịch là Thống đốc Otto Kerner của bang Illinois, ủy ban này kết luận rằng các vụ bạo loạn là kết quả của thói tàn bạo và kỳ thị chủng tộc của cảnh sát cũng như việc người da đen thiếu cơ hội kinh tế và giáo dục. Kết luận đầy tính điềm báo này của ủy ban có thể được rút gọn trong một câu nổi tiếng sau này: "Đất nước ta đang tiến đến hai xã hội, một trắng, một đen - tách bạch và bất bình đẳng".

Trong mùa hè bất ổn đó, Washington vẫn tương đối yên ả, nhưng chúng tôi cũng được nếm mùi của phong trào Hắc Quyền khi trong nhiều tuần liền, đêm nào các nhà đấu tranh cho quyền lợi của người da đen cũng chiếm cứ Vòng xoay Dupont, cách Nhà Trắng không xa, nsay chỗ đại lộ Connecticut và Massachusetts giao nhau. Một người bạn tôi biết vài người trong số này và một tối dắt tôi đến đây xem họ nói gì. Họ thật cao ngạo, giận dữ và đôi khi nói không rõ ràng, nhưng họ không ngu, và dù tôi không đồng tình với các giải pháp của họ, nhưng cội rễ những thống khổ của họ là có thật.

Lằn ranh giữa tính bạo động của phong trào dân quyền và bạo động của phong trào phản chiến ngày càng lu mờ dần. Dù phong trào phản chiến mới đầu thuộc về giới sinh viên đại học da trắng xuất thân trung lưu hoặc giàu có cùng lớp trí thức lớn tuổi hơn, giới lãnh đạo tôn giáo và nghệ sĩ, nhưng khá đông các lãnh đạo của phong trào này cũng có liên quan đến phong trào dân quyền. Đến mùa xuân năm 1966, phong trào phản chiến đã vượt quá tầm của những người tổ chức ra nó, với những cuộc tuần hành lớn và tập hợp khắp nơi trên nước Mỹ, một phần được thúc đẩy bởi phản ứng của dân chúng trước các cuộc điều trần của Thượng nghị sĩ Fulbright. Vào mùa xuân năm 1967, 300.000 người đã tuần hành chống chiến tranh ở Công viên Central Park của Thành phố New York.

Lần đầu tiên tôi chạm trán với những người hoạt động phản chiến nghiêm túc là vào mùa hè năm đó, khi Hiệp hội sinh viên quốc gia (NSA) tổ chức đại hội ở Đại học Maryland, nơi tôi từng tham dự Boys Nation bốn năm trước. Hội NSA không cực đoan bằng tổ chức Sinh viên ủng hộ Xã hội dân chủ (SDS) nhưng kiên quyết chống chiến tranh. Uy tín của hội bị tổn thương mùa xuân năm trước khi hội tiết lộ rằng đã nhận tiền của CIA trong nhiều năm để tài trợ cho những hoạt động quốc tế của mình. Dù vậy, hội vẫn được sự ủng hộ của nhiều sinh viên ở khắp nước Mỹ.

Một tối tôi lên chỗ đại hội ở College Park để xem có gì diễn ra. Tôi tình cờ gặp Bruce Lindsey, bạn tôi gặp hồi năm 1966 khi còn làm việc cho chiến dịch tranh cử thống đốc ở Little Rock, khi ấy cậu ta làm việc cho Brooks Hays. Cậu ấy đến dự cùng với đại biểu NSA miền Tây Nam, Debbie Sale, cũng là người Arkansas. Bruce trở thành bạn thân, cố vấn và là người tin cẩn của tôi khi tôi làm thống đốc và tổng thống - kiểu bạn mà ai cũng cần và không một tổng thống nào có thể thiếu. Sau này, Debbie giúp tôi đặt chân được vào New York. Nhưng tại kỳ đại hội NSA năm 1967, chúng tôi chỉ là ba thanh niên Arkansas vẻ ngoài bình thường, cư xử cũng bình thường, đều phản đối chiến tranh và tìm kiếm bạn cùng chí hướng.

NSA đầy người như tôi, những người thấy khó chịu với nhóm SDS có vẻ bạo lực hơn nhưng vẫn muốn được nằm trong danh sách những người cố gắng chấm dứt chiến tranh. Bài diễn văn đáng chú ý nhất đại hội là của Allard Lowenstein kêu gọi sinh viên thành lập một tổ chức quốc gia nhằm đánh bại Tổng thống Johnson vào năm 1968. Phần lớn mọi người lúc ấy đều nghĩ rằng đó là một ý nghĩ xuẩn ngọc, nhưng sự việc thay đổi nhanh đến mức khiến AI Lowenstein trở thành nhà tiên tri. Trong vòng ba tháng, phong trào phản chiến huy động được 100.000 người tập trung ở Đài tưởng niệm Lincoln. Ba trăm người trong số này gom thẻ quân dịch lại, được hai nhà hoạt động phản chiến - William Sloane Coffin, linh mục của Đại học Yale, và Bác sĩ nhi khọa nổi tiếng Benjamin Spock chuyển trả cho Bộ Tư pháp.

Thật thú vị là NSA cũng từng phản đối sự toàn trị khắc nghiệt, nên trong hội có cả đại diện của các nước vùng Baltic. Tôi nói chuyện với một phụ nữ đại diện cho Latvia. Cô ấy lớn hơn tôi vài tuổi, và tôi có cảm tưởng rằng nghề của cô ta là đi dự mấy cuộc họp kiểu này. Cô ta say sưa nói về niềm tin một ngày nào đó chủ nghĩa cộng sản Xô Viết sẽ thất bại và Latvia sẽ lại được tự do. Lúc đó tôi thấy cô ta nổ quá. Thế mà hóa ra cô ấy cũng tiên tri y như AI Lowenstein.

Ngoài làm việc cho ủy ban và thỉnh thoảng đi chơi, tôi học thêm ba môn trong hè - triết học, đạo đức và Ngoại giao Mỹ ở Viễn Đông. Đó là lần đầu tiên tôi đọc Kant và Kierkegaard, Hegel và Nietzsche. Trong lớp đạo đức tôi ghi chép cẩn thận, một hôm vào tháng 8, một sinh viên trong lớp vốn thông minh sáng láng nhưng ít khi đi học đề nghị tôi dành vài tiếng cùng dò lại ghi chép của mình với anh ta trước kỳ thi cuối khóa. Vào ngày 19 tháng 8, ngày sinh nhật thứ 21 của tôi, tôi dành ra bốn tiếng để làm việc đó, và anh ta sau này thi được điểm B. Hai mươi lăm năm sau, khi tôi thành tổng thống, anh bạn học Turki al-Faisal ấy, con trai của quốc vương Ảrập Xêút, là chỉ huy tình báo Ảrập Xêút, cương vị mà anh ta nắm giữ suốt 24 năm. Tôi chắc là điểm môn triết học của anh ta chẳng liên quan gì đên những thành công trong đời anh ấy, nhưng chúng tôi thích đùa về chuyện đó.

Giáo sư dạy Ngoại giao Mỹ, Jules Davids, là một học giả có tiếng sau này giúp Averell Harriman viết hồi ký của ông ta. Bài luận của tôi viết về quốc hội và nghị quyết Đông Nam Á. Nghị quyết này, thường được gọi là nghị quyết Vịnh Bắc bộ, được thông qua ngày 7 tháng 8 năm 1964 theo yêu cầu của Tổng thống Johnson, sau khi hai tàu chiến USS Maddox và USS C. Turner Joy được cho là đã bị tàu hải quân Bắc Việt Nam tấn công vào ngày 2 và 4 tháng 8 năm 1964. Mỹ trả đũa bằng cách tấn công các căn cứ hải quân và khu chứa dầu của Bắc Việt. Nghị quyết cho phép tổng thống "thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết nhằm giáng trả các cuộc tấn công vũ trang nhắm vào lực lượng Mỹ và ngăn chặn các hành động xâm lấn tiếp theo", đồng thời cho phép "sử dụng mọi bước cần thiết, kể cả sử dụng lực lượng vũ trang" để trợ giúp bất cứ quốc gia nào trong Hiệp ước SEATO "để bảo vệ tự do cho quốc gia ấy".

Luận điểm chính trong bài luận của tôi là, ngoại trừ Thượng nghị sĩ Wayne Morse, không có ai xem xét nghiêm túc hoặc nghi vấn về tính hợp hiến, hay thậm chí là tính khôn ngoan, của nghị quyết này. Nước Mỹ và quốc hội nhảy dựng lên và muốn cho thấy rằng chúng ta không thể bị bắt nạt hoặc bỏ chạy khỏi Đông Nam Á. Tiến sĩ Davids thích bài viết của tôi và nói bài này đáng được xuất bản. Tôi thì không chắc lắm; vẫn còn rất nhiều câu hỏi chưa có lời giải đáp. Ngoài những câu hỏi về tính hợp hiến, một số nhà báo đã nghi vấn có đúng là tàu chiến Mỹ đã bị tấn công hay không, và khi tôi hoàn tất bài luận thì Thượng nghị sĩ Fulbright đang đòi Lầu năm góc cung cấp thêm thông tin về sự cố này. Ủy ban tiếp tục xem xét sự kiện Vịnh Bắc bộ cho đến năm 1968, và các cuộc điều tra có vẻ như xác nhận rằng ít nhất là vào ngày 4 tháng 8, các tàu Mỹ không bị bắn. Thật hiếm khi trong lịch sử lại có chuyện một việc chưa xảy ra lại mang đến những hậu quả ghê gớm như thế.

Trong vòng vài tháng, những hậu quả đó để ập xuống đầu Lyndon Johnson. Việc thông qua nhanh chóng và gần như nhất trí nghị quyết Vịnh Bắc bộ trở thành một ví dụ đau đớn cho câu ngạn ngữ cổ rằng lời nguyền lớn nhất của cuộc sống chính là lời cầu nguyện trở thành hiện thực.