Chương 21
Chúng tôi bắt đầu chuẩn bị cho nhiệm kì đầu tiên của tôi sau
cuộc bầu cử sơ bộ từ tháng 5 và đến tháng 11 thì thực sự tăng tốc, chuyển đổi tổng hành dinh thành văn phòng bàn giao. Rudy Moore và Steve Smith, từng làm việc ở cơ quan lập pháp, giúp tôi trong việc tổ chức ngân sách, khởi thảo các dự luật nhằm luật hoá những ưu tiên chính sách của tôi, phân tích những thách thức chính về quản lý và bắt đầu tuyển nhân viên cũng như thành lập nội các.
Vào tháng 12, đảng Dân chủ tổ chức đại hội giữa kỳ ở Memphis. Tôi được yêu cầu đi khắp vùng sông Mississippi để làm người điều khiển một nhóm tranh luận bao gồm Joe Califano, Bộ trưởng Y tế, Giáo dục và Xã hội dưới triều Tổng thống Carter, và Thượng nghị sĩ Edward Kennedy, người ủng hộ mạnh mẽ nhất trong thượng viện đối với chương trình chăm sóc sức khỏe đại trà. Califano rất hùng hồn bảo vệ thái độ tăng giá trị chương trình cải cách y tế của tổng thống, nhưng chính Kennedy mới là người giành được sự ủng hộ của đám đông khi xúc động kêu gọi sao cho mỗi người dân Mỹ bình thường đều có thể được hưởng trợ cấp bằng với mức mà ông, với sự giàu có của mình, từng chăm sóc cho con trai là Teddy khi anh này mắc bệnh ung thư. Tôi thích thú cả cuộc tranh luận ấy lẫn việc được sự chú ý của toàn quốc, nhưng cũng nhận ra rằng hội nghị đó chỉ càng tô đậm thêm những bất đồng trong nội bộ đảng chúng tôi, khi mà lẽ ra nó phải đoàn kết và khích lệ mọi thành viên trong đảng trong những năm không có bầu cử tổng thống. Những hội nghị giữa nhiệm kỳ sau này đã bị hủy bỏ.
Không lâu trước giáng sinh, Hillary và tôi đi nghỉ ở Anh - một chuyến đi cực kỳ cần thiết. Chúng tôi đã đón Ngày giáng sinh cùng với bạn tôi hồi học ở Oxford, Sara Maitland và chồng cô ấy, Donald Lee, một người Mỹ nhưng lại làm linh mục của Nhà thờ Anh giáo. Đó là lễ giáng sinh đầu tiên của Donald trong vai trò một linh mục. Anh ấy cũng hơi lo lắng chút ít, nhưng bắt đầu buổi lễ với một bài giảng cho trẻ em, một cách thức thường chắc chắn mang lại thành công. Anh ấy ngồi xuống trên bậc thềm trước một bối cảnh ngày chúa giáng sinh, gọi bọn trẻ đến ngồi cùng. Khi bọn trẻ yên vị, anh ấy hỏi, "này các con, hôm nay là một ngày rất đặc biệt". Bọn trẻ gật đầu. "Các con có biết hôm nay là ngày gì không?". "Vâng biết ạ". Bọn trẻ trả lời. Donald vui sướng hỏi tiếp: "Thế hôm nay là ngày gì?". Bọn trẻ cùng đồng thanh nói to: "Ngày thứ hai ạ". Tôi không biết anh ấy trò chuyện tiếp ra sao. Có lẽ anh ấy chỉ có thể tự an ủi rằng trong nhà thờ của mình, bọn trẻ luôn nói sự thật.
Một tháng trôi qua, đã đến lúc chuyển đến dinh thự thống đốc và sẵn sàng nhậm chức. Dinh thự là một căn nhà lớn kiểu từ thời thuộc địa rộng khoảng 30.000m2 trong khu vực Quapaw đẹp đẽ cổ kính ở Little Rock, không xa tòa nhà quốc hội tiểu bang. Căn nhà chính ở giữa, hai bên là hai căn nhỏ hơn với căn bên trái dùng làm nhà khách và căn bên phải làm tổng hành dinh cho binh sĩ tiểu bang canh gác nơi này và trực điện thoại 24 giờ trong ngày. Dinh thự có ba phòng làm việc lớn và một căn bếp rộng, một phòng ăn sáng nhỏ ở tầng trệt, tầng hầm rộng rãi được dùng làm phòng giải trí với máy trò chơi bắn banh; khu vực sinh hoạt nằm ở lầu một. Dù tổng diện tích của tòa nhà khá lớn nhưng chỗ ở trong tòa nhà chỉ gồm có năm phòng nhỏ và hai phòng tắm khiêm tốn. Nhưng đó đã là cả một sự thay đổi lớn so với ngôi nhà nhỏ của chúng tôi trên phố L trước đây đến mức chúng tôi không có đủ đồ đạc để đưa vào năm căn phòng này.
Điều khó khăn nhất đối với tôi trong thời gian đầu là phải thích nghi với việc bảo vệ an ninh. Tôi luôn tự hào về tính tự lập của mình và rất coi trọng thời gian riêng tư. Từ khi 20 tuổi, tôi đã tự chăm lo cho bản thân, và trong nhiều năm sau tôi biết tự lau nhà, lo việc vặt và tự nấu ăn. Khi sống chung với Hillary, chúng tôi cùng chia sẻ việc nhà. Từ năm 16 tuổi, tôi đã thích lái xe một mình, vừa nghe nhạc vừa suy ngẫm mọi việc. Bây giờ tôi không được làm như vậy nữa. Hàng ngày trước hoặc sau giờ làm việc, tôi thích chạy bộ và luôn có một binh sĩ tiểu bang bám theo tôi trên một chiếc xe hơi. Lúc đầu tôi thấy thực sự phiền hà - đôi khi tôi chỉ muốn chạy ngược vào mấy con đường một chiều. Nhưng dần dà tôi quen dần và trân trọng công việc của các nhân viên phục vụ ở dinh thự và binh sĩ cận vệ; họ giúp tôi dành nhiều thời gian giải quyết công việc hơn. Vì lính cận vệ lái xe cho tôi nên tôi hoàn tất rất nhiều công văn giấy tờ trong lúc di chuyển, về sau này chúng tôi thống nhất là tôi sẽ tự lái xe đi nhà thờ vào các chủ nhật. Thực ra điều này cũng chẳng phải là nhượng bộ gì ghê gớm lắm, vì cả nhà thờ tôi dự lễ lẫn nhà thờ Giám lý của Hillary đều cách toà dinh thự chỉ khoảng một dặm, nhưng tôi thường mong đến lượt lái xe tự do vào ngày chủ nhật. Một trong số các binh sĩ tiểu bang cùng chạy với tôi khi đến phiên anh ta trực, và tôi thích như vậy hơn là bị lái xe bám theo sau. Sau nhiều năm tôi ở cương vị này mà rõ ràng không có mối đe dọa trực tiếp nào, tôi thường chạy một mình vào mỗi buổi sáng nhưng theo một tuyến đường được định trước và có đông người. Sau khi chạy tôi hay dừng ở tiệm McDonald hay một tiệm bánh, cả hai chỉ cách toà dinh thự nửa dặm, để uống nước và rồi đi bộ về nhà.
Nhưng đôi khi đội cận vệ cũng thực sự có việc để làm. Trong nhiệm kì đầu tiên của tôi, một người trốn khỏi bệnh viện tâm thần gọi điện thoại đến dinh thống đốc và nói ông ta sắp giết tôi. Người này đã chặt đầu mẹ đẻ của mình một vài năm trước nên đội cận vệ coi đây không phải chuyện đùa. Người kia bị bắt và nhốt lại, có lẽ đó chính là điều ông ta mong muốn một cách vô thức khi gọi điện de dọa. Một lần khác, một người đàn ông to lớn dềnh dàng cầm thanh sắt đường ray bước vào văn phòng thống đốc và yêu cầu được gặp riêng tôi. Người ta ngăn không cho ông ta vào. Năm 1982, khi tôi đang tranh cử nhằm giành lại ghế thống đốc, một người đàn ông gọi điện đến và tuyên bố Chúa Trời đã nhắn gửi cho ông ta một thông điệp, đối thủ của tôi chính là công cụ của Chúa Trời còn tôi là tay sai cho quỷ dữ và ông ta sẽ thực hiện ý nguyện của Chúa và tiêu diệt tôi. Hóa ra ông ta là một người trốn khỏi bệnh viện tâm thần ở Tennessee. Ông ta có một khẩu súng lục và đi hết cửa hàng bán súng này đến cửa hàng bán súng khác để mua đạn, nhưng vì không có giấy tờ tùy thân nên không mua được. Dù vậy, tôi vẫn phải mặc một áo chống đạn rất khó chịu trong những ngày cuối chiến dịch tranh cử. Một lần khác, khi cửa trước dinh thự không khóa, một người phụ nữ bị điên nhưng vô hại đã lẻn vào, đi lên được nửa phần cầu thang dẫn đến khu tôi ở trước khi đội cận vệ bắt được khi bà gọi tên tôi. Một lần khác nữa, một người đàn ông nhỏ con, gầy gò, đi giày trận bị chặn lại khi đang phá cửa trước. Ông ta đang say một loại hợp chất ma túy làm cho ông ta khỏe đến mức phải hai binh sĩ to hơn tôi mới khống chế nổi, mà chỉ sau khi ông ta đã ném một binh sĩ ra và dúi đầu anh ta vào cửa sổ trong khu cận vệ. Ông ta được đem đi, người bị bó trong một cái áo buộc chặt vào cáng. Sau khi tỉnh táo trở lại, ông ta đã xin lỗi các binh sĩ và cảm ơn họ đã ngăn chặn ông ấy kịp thời trước khi gây hại cho ai.
Các binh sĩ cận vệ phục vụ tôi cũng trở thành một vấn đề trong nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên của tôi. Hai trong số họ sau này trở nên bất mãn, gặp rắc rối tiền bạc và bắt đầu phát tán những câu chuyện về tôi chỉ để đổi lấy một khoản tiền nhỏ và được nổi danh, hy vọng sẽ được thêm nhiều món hời khác. Nhưng hầu hết những người phục vụ trong đội bảo vệ an ninh là những người tốt, tận tụy với công việc và nhiều người đã trở thành bạn tốt. Vào tháng giêng năm 1979, tôi không dám chắc mình sẽ quen được với sự đảm bảo an ninh 24/24 giờ hay chưa nhưng tôi quá thích thú với công việc của mình nên không có nhiều thời gian để ý tới việc đó nữa.
Ngoài buổi tiệc nhậm chức truyền thống, chúng tôi còn tổ chức một đêm giải trí kiểu Arkansas có tên gọi là "Kim cương và vải bông chéo". Tất cả các nghệ sĩ tham gia đều là người Arkansas, trong đó có ca sĩ nhạc soul nổi tiếng AI Green, người sau này chuyển sang dòng nhạc thánh ca kiêm sản xuất nhạc, và Randy Goodrum, tay chơi piano trong nhóm nhạc hồi trung học của tôi, nhóm Tam Vua. Ở tuổi 31, anh đã có một giải Grammy về sáng tác. Tôi chơi saxo cùng anh bài "Summertime", lần đầu tiên chúng tôi lại chơi cùng nhau kể từ năm 1964.
Lễ nhậm chức là một sự kiện lớn. Hàng trăm người trên khắp bang cùng với tất cả bạn bè của tôi và Hillary đã đến dự, bao gồm bạn cùng phòng của tôi - Tommy Caplan; Dave Matter, người tổ chức chiến dịch tranh cử thất bại của tôi ở Georgetown; Betsey Wright; những người bạn cùng vận động cho dân quyền trong tổ chức Boys Nation ở Louisiana, Fred Kammer và Alston Johnson; ba người bạn thời học trường Yale Carolyn Ellis, Greg Craig và Steve Cohen. Carolyn Yeldell Staley cũng từ Indiana về tiểu bang nhà để hát cho buổi lễ.
Tôi chăm chút đến bài diễn văn nhậm chức. Tôi vừa muốn nắm lấy khoảnh khắc lịch sử, vừa muốn nói với những đồng hương Arkansas của tôi nhiều hơn nữa về những giá trị và lý tưởng mà tôi theo đuổi trong vai trò thống đốc. Đêm hôm trước, Steve Cohen đã gợi ra một ý mà tôi thêm vào bài diễn văn. Anh ấy nói anh ấy cảm thấy hai thứ đã lâu không thấy là "tự hào và hy vọng". Một số điều tôi nói trong bài diễn văn đó đến bây giờ tôi vẫn tin tưởng mạnh mẽ như lúc bấy giờ vậy, những từ ngữ mô tả những gì tôi đã nỗ lực thực hiện trong sự nghiệp phục vụ công chúng của mình, bao gồm cả thời gian làm tổng thống:
Đã từ lâu, tôi tin tưởng vào mục tiêu công bằng về cơ hội, và tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để thúc đẩy mục tiêu ấy.
Đã từ lâu, tôi vẫn khinh ghét chuyên chuyên quyền và lạm quyền của những người nắm quyền, và tôi sẽ làm những gì có thể để ngăn chặn điều đó.
Đã từ lâu, tôi vẫn xót xa trước sự phung phí và lộn xộn thường thấy trong các vụ việc của chính quyền, và tôi sẽ làm mọi điều có thể để loại bỏ chúng.
Đã từ lâu, tôi yêu đất đai, bầu trời và nguồn nước Arkansas, và tôi sẽ làm những gì có thể để bảo vệ chúng.
Đã từ lâu, tôi vẫn ước mong giảm nhẹ gánh nặng cuộc sống của những người già hoặc yếu hoặc thiếu thốn, dù chính bản thân họ không có lỗi gì, và tôi sẽ nỗ lực để giúp đỡ họ.
Đã từ lâu, tôi vẫn buồn vì cảnh biết bao người lao động chăm chỉ, độc lập làm việc vất vả mà thu nhập chẳng là bao vì không đủ các cơ hội kinh tế, và tôi sẽ làm mọi điều có thể để nâng đỡ họ...
Ngày hôm sau tôi đi làm, bắt đầu hai năm vừa vui vừa vất vả, đầy sự tưởng thưởng và cũng đầy những bực dọc trong đời tôi. Tôi lúc nào cũng vội vã để hoàn thành công việc, và lần này những gì tôi chạm tới lại vượt quá tầm kiểm soát của tôi. Tôi nghĩ nhiệm kì thống đốc đầu tiên của tôi có thể được khái quát rằng nó là một thành công về chính sách nhưng lại là một thảm họa về mặt chính trị.
Trong kỳ họp lập pháp tôi có hai ưu tiên trong chi tiêu là giáo dục và đường cao tốc, và một loạt các cải cách sâu rộng khác về y tế, năng lượng và phát triển kinh tế. Năm 1978, Arkansas đứng cuối cùng trong các tiểu bang về chi tiêu cho giáo dục trên đầu người. Một nghiên cứu về các trường học của chúng tôi do Tiến sĩ Kern Alexander của Đại học Florida, một chuyên gia nổi tiếng trong cả nước về chính sách giáo dục thực hiện, cho thấy hệ thống giáo dục của chúng tôi thật tệ: "Nhìn từ góc độ giáo dục, một đứa trẻ bình thường ở Arkansas sẽ khá hơn nếu được học trường công lập của bất kỳ bang nào khác trên nước Mỹ". Chúng tôi có 369 khu vực trường học, nhiều khu vực quá nhỏ nên không thể tổ chức dạy nổi các môn toán và khoa học cần thiết. Tiểu bang cũng không có tiêu chuẩn thống nhất trong đánh giá kết quả học tập. Còn lương giáo viên thì phần lớn là thấp thảm hại.
Kỳ họp lập pháp thông qua hầu như toàn bộ các đề nghị về giáo dục của tôi, với sự ủng hộ của Hiệp hội Giáo dục Arkansas vôn đại diện cho hầu hết giới giáo chức; cũng như của các hiệp hội đại diện cho ban quản trị và ban giám hiệu nhà trường; ngoài ra còn có sự ủng hộ của các thành viên quốc hội tiểu bang ủng hộ giáo dục, trong đó có Clarence Bell, vị chủ tịch đầy quyền uy của Ủy ban Giáo dục thượng viện. Quốc hội bang chuẩn y tăng 40% đầu tư cho giáo dục trong hai năm kế tiếp, bao gồm tăng lương giáo viên thêm 1.200 đôla trong mỗi năm, chi cho các chương trình giáo dục đặc biệt thêm 67%, tăng ngân sách cho sách giáo khoa, xe đưa đón và các hoạt động khác. Và lần đầu tiên, quốc hội chuẩn y trợ cấp cho các trường trong các chương trình đào tạo học sinh tài năng, ưu tú và hỗ trợ đưa đón học sinh mẫu giáo, một bước tiến hướng tới mục tiêu phổ cập mẫu giáo.
Tiền tăng thêm này được gắn với các nỗ lực nâng cao tiêu chuẩn và cải thiện chất lượng, điều tôi luôn cố gắng thực hiện. Chúng tôi thông qua các chương trình của tiểu bang đầu tiên bắt buộc phải thi để đánh giá năng lực học sinh và chỉ ra những môn còn phải cố gắng, thêm một yêu cầu bắt buộc tất cả giáo viên phải thi Kỳ thi Giáo viên Quốc gia trước khi được cấp chứng chỉ, và thêm một đạo luật cấm sa thải giáo viên vì những lý do "vô lý, không rõ ràng hay phân biệt đối xử". Chúng tôi còn thành lập trường Thống đốc Arkansas dành cho học sinh tài năng ưu tú, nhóm học sinh này tụ hội lần đầu ở trường Hendrix vào mùa hè năm 1980. Hillary và tôi đã đến nói chuyện với lớp học đầu tiên. Đó là một trong những thành tựu đáng tự hào nhất của tôi, và đến bây giờ ngôi trường ấy vẫn phát triển vững chắc.
Trong hai lĩnh vực kia tôi không thành công được như thế. Báo cáo của Alexander gợi ý nên giảm số khu vực trường học xuống còn 200, như vậy có thể tiết kiệm được nhiều chi phí hành chính. Nhưng tôi thậm chí không thông qua nổi một dự luật nhằm thành lập một ủy ban nghiên cứu vấn đề này, vì rất nhiều thị trấn nhỏ tin rằng nếu họ không có các khu vực trường học của riêng mình, "đám dân thành thị" rồi sẽ đóng cửa trường và phá hỏng cộng đồng của họ.
Lĩnh vực nữa mà tôi gặp sự chống đối là công thức phân bổ những khoản hỗ trợ cho các trường. Nhiều khu vực trường học khiếu nại cách thức phân bổ của chúng tôi không công bằng, và rằng nếu xét đến các khoản thu thuế tài sản khác nhau giữa các địa phương thì sự mất cân đối trong chi tiêu giáo dục trên từng học sinh của toàn tiểu bang sẽ lớn đến mức vi phạm hiến pháp. Công thức phân bổ hỗ trợ đã không tính đủ đến sự khác biệt về giá trị tài sản hay dao động của số lượng học sinh. Mỗi học sinh ở các khu vực trường rất nhỏ nhận được mức trợ cấp cao hơn, vì ở đó chi phí phụ trội trên mỗi học sinh cao hơn rất nhiều lần. Hệ thống này khó có thể thay đổi được bởi vì hỗ trợ nhiều hơn cho một số trường cũng đồng nghĩa với ít đi cho những trường khác. Cả hai nhóm khu vực trường này đều có đại diện của mình ngang nhau trong quốc hội tiểu bang, và khi nhóm bị thiệt trông thấy các dự thảo cho thấy nếu thay đổi thì các trường của họ sẽ lãnh đủ ra sao, họ chống đối rất dữ. Chúng tôi điều chỉnh lại công thức, nhưng không nhiều. Phải nhờ đến một phán quyết của Tòa án tối cao tiểu bang vô hiệu hóa công thức phân bổ vào năm 1983 chúng tôi mới thực sự thay đổi được mọi việc.
Chương trình nâng cấp xa lộ do tôi đề xuất được thiết kế để khắc phục tình trạng xuống cấp của hệ thống xa lộ tiểu bang, đường giao thông trong hạt và đường nội thị, cũng như đáp ứng nhu cầu xây thêm đường mới. Arkansas chưa có được một chương trình phát triển giao thông tốt trong hơn một thập niên, và ổ gà cũng như việc phải đi chậm chạp làm mọi người tốn tiền bạc và thời gian. Chương trình nâng cấp xa lộ nhận được nhiều ủng hộ, nhưng lại có nhiều bất đồng lớn trong việc nên tài trợ tài chính cho nó như thế nào. Tôi đề nghị một chương trình trọn gói về thuế, trong đó tăng thuế đối với xe tải nặng, vốn là loại xe làm đường xá xuống cấp nhiều nhất, và tăng cả thuế xe hơi bốn chỗ. Vào thời điểm đó, lệ phí đăng ký xe hơi bốn chỗ và xe tải được định giá dựa trên trọng lượng xe. Tôi nghĩ điều này thật không công bằng vì loại xe nhỏ dù có đôi chút khác biệt về trọng tải cũng không làm đường xá xuống cấp nhanh như xe tải, và các xe bốn chỗ nặng hơn thường là các xe cũ, thuộc sở hữu của những người có thu nhập thấp. Thay vào đó, tôi đề nghị đặt ra mức phí dựa trên giá trị chiếc xe, theo đó, chủ xe mới và đắt tiền nhất sẽ phải đóng 50 đôla, còn chủ xe cũ giá trị thấp nhất sẽ phải đóng 20 đôla. Theo đề xuất này, các chủ xe nặng và cũ sẽ không phải trả thêm tiền.
Một số thành viên lão làng trong quốc hội tiểu bang nói rằng chúng tôi không nên tăng phí đăng ký, mà nên tăng thuế nhiên liệu để lấy tiền cho chương trình cải tạo đường. Giới nghiệp đoàn phản đối việc này bởi vì trong một năm những người lái xe sẽ phải trả một khoản phụ trội khá lớn, dù họ có thể sẽ không cảm thấy như vậy vì khoản thuế nằm ẩn trong giá nhiên liệu. Tôi nhất trí với nghiệp đoàn về tinh thần, nhưng tăng thuê nhiên liệu có lẽ sẽ ít gây tổn hại về mặt chính trị hơn nhiều so với đề nghị của tôi.
Không một nhóm có tổ chức nào, ngoại trừ nhóm nhà thầu xây xa lộ, ủng hộ đề xuất của tôi. Các nhóm lợi ích về xe tải, gia cầm và gỗ tuyên bố họ không đủ tiền trả số lệ phí tăng thêm trên các xe tải nặng của họ, và họ tìm cách giảm mức tăng lệ phí xuống. Các tay buôn bán xe hơi nói tôi buộc khách hàng của họ đóng quá nhiều tiền, và việc định lệ phí đăng ký dựa trên giá trị xe sẽ trở thành một cơn ác mộng cho công tác quản lý. Tôi cho rằng lập luận của họ không hề thuyết phục nhưng những nhà làm luật thì tin vào những lý lẽ này. Đại diện cho nhóm vận động hành lang về phát triển giao thông ở thượng viện là Knox Nelson, một người đầy mứu mẹo. Bản thân cũng là một nhà thầu, ông ấy muốn có tiền cho chương trình nâng cấp đường nhưng không quan tâm tiền đó có được từ đâu. Cuối cùng quốc hội bang cũng thông qua việc tăng thu lấy từ nguồn phí đăng ký xe, nhưng vẫn dựa trên kiểu tính trọng lượng xe như cũ, làm tăng lệ phí đăng ký xe nhỏ nặng gần gấp đôi từ 19 đôla lên đến 36 đôla. Tôi phải đưa ra quyết định của mình. Tôi có thể ký thông qua dự luật đó thành luật để có một chương trình phát triển giao thông tốt dựa trên một cách thức không công bằng, hoặc phủ quyết nó và không có được chương trình phát triển đường sá. Tôi đã ký thông qua dự luật. Đó là một sai lầm ngớ ngẩn nhất tôi phạm phải trên chính trường tính tới năm 1994, khi tôi đồng ý yêu cầu một công tố viên đặc biệt trong vụ Whitewater trong khi thậm chí không có một cơ sở gì cho thấy cần phải làm vậy.
Ở Arkansas, kỳ hạn đóng lệ phí đăng ký xe mỗi năm rơi vào ngày sinh nhật của chủ xe. Lúc đó họ sẽ đến các văn phòng thu phí ở hạt của mình để gia hạn đăng ký. Sau khi luật tăng phí có hiệu lực vào ngày 1 tháng 7, trong suốt một năm cứ mỗi ngày lại có một nhóm người đến văn phòng thu phí để nhận được món quà sinh nhật tôi dành cho họ: lệ phí đăng ký của họ đã tăng gấp đôi. Nhiều người trong số này là dân miền quê và thường lái xe hơn 20 dặm đến thủ phủ của hạt để trả tiền lệ phí. Họ thường không có cuốn séc và chỉ đem vừa đủ số tiền trả mức lệ phí cũ, thế là họ phải lái xe ngược về nhà, rút ra thêm một khoản tiền nữa từ ngân sách gia đình của mình rồi quay trở lại. Khi quay lại và phải xếp hàng chờ, hình ảnh duy nhất hộ nhìn thấy từ ô cửa sổ đơn điệu của phòng thu lệ phí là hình ảnh ông thống đốc bang đang mỉm cười với họ.
Vào cuối năm 1978, khi tôi được bầu làm thống đốc bang lần thứ nhất, Hilary Jones đã nhận xét đầy tiên đoán với tôi. Ông ấy bảo dân miền núi đã giúp tôi thắng được cuộc bầu cử, nhưng rồi đây tôi sẽ phải kiếm được phiếu từ các thành phố. Khi tôi hỏi tại sao, ông ấy đáp rằng tôi sẽ tiến hành các chương trình phát triển kinh tế và giáo dục, những điều mà tiểu bang cần, nhưng bất cứ điều gì tôi làm để tăng chuẩn mực trường học lên sẽ đe dọa các trường ở miền quê; rằng tôi sẽ không thể đem lại nhiều việc làm mới cho khu vực nông thôn; và rằng theo quy định của Tòa án tối cao Hoa Kỳ thì những nhân viên chính phủ nào không ở các vị trí đưa ra quyết định sẽ không thể bị thay thế vì các lý do chính trị, và điều đó có nghĩa là tôi thậm chí không thể sa thải các nhân viên của chính quyền tiểu bang để đưa người của tôi vào. "Tôi sẽ vẫn làm tất cả những gì có thể cho anh", Hilary nói, "nhưng trên này mọi việc sẽ không bao giờ còn được như xưa nữa". Cũng như biết bao việc khác, Hilary hoàn toàn đúng. Trong các chiến dịch tranh cử thống đốc thắng lợi của mình, tôi giành được ngày càng nhiều sự ủng hộ từ phía cử tri độc lập và của phe Cộng hòa ở cả các thành phố và khu ngoại ô, nhưng không bao giờ lấy lại được sự ủng hộ sâu sắc từng có trong số các cử tri da trắng ở nông thôn trong Quận nghị viện thứ Ba và phần lớn các nơi khác trong tiểu bang. Bây giờ, ngoài những thứ nằm ngoài tầm kiểm soát, tôi còn tự làm hại mình bằng việc tăng lệ phí xe hơi, làm tiêu tan năm năm vất vả thuyết phục những người dân miền quê Arkansas - và thêm rất nhiều dân lao động ở thành thị nữa - chỉ bằng một chữ ký.
Cái kiểu chính sách tốt nhưng bất lợi về chính trị không chỉ gói gọn trong các vụ việc lập pháp. Tôi tổ chức văn phòng thống đốc mà không có vị trí chánh văn phòng, chia các mảng trách nhiệm cho Rudy Moore, Steve Smith và John Danner, một nhà phân tích chính sách đến từ California có vợ là Nancy Pietrafesa, một người bạn cũ của Hillary. Nancy cũng làm việc trong bộ máy chính quyền, phụ trách giáo dục. Tổng thống Kennedy tổ chức Nhà Trắng tương tự như vậy, nhưng nhân viên của ông ấy đều cắt tóc ngắn, mặc những bộ áo vest trông chán ngấy, sơ mi trắng, đeo cà vạt hẹp và màu tối. Rudy, Steve và John đều để râu và không quá cứng nhắc trong chuyên ăn mặc. Những người bảo thủ hay chỉ trích tôi trong quốc hội bang tha hồ mà công kích họ. Dần dà, các mâu thuẫn nội bộ nổ ra. Tôi quyết định bổ nhiệm Rudy làm chánh văn phòng, giao cho Steve coi mảng sáng kiến chính sách, và miễn nhiệm John và vợ anh là Nancy. Trong một sự ngại ngần không thể tha thứ được, tôi đề nghị Rudy thông báo cho họ. Anh ấy làm theo và họ nghỉ việc. Mặc dù sau này tôi đã cố gắng giải thích, nhưng quan hệ của chúng tôi không bao giờ còn được như trước. Tôi cũng ngờ rằng chắc họ không bao giờ tha thứ cho việc tôi đã không trực tiếp nói với họ. Họ là những người tốt, làm việc tận tụy và có những ý tưởng hay; vì thiếu kinh nghiệm nên tôi đã đặt họ vào những tình huống tiến thoái lưỡng nan. Đó hoàn toàn là lỗi của tôi.
Tôi còn gặp rắc rối khi bố trí những người từ bang khác vào các vị trí lãnh đạo của Bộ Y tế, Bộ Dịch vụ Con người và các bộ phận trực thuộc của bộ này là Dịch vụ Xã hội và Sức khỏe Tâm thần, Bộ Giáo dục và Bộ Năng lượng mới thành lập. Họ là những người có khả năng và hảo ý, nhưng họ cần có thêm những mối quan hệ và kinh nghiệm ứng xử trước những cử tri của mình mới có thể tạo ra được bước đột phá cần thiết.
Sự thiếu kinh nghiệm cũng như tuổi đời còn trẻ của tôi càng làm vấn đề nghiêm trọng hơn. Tôi trông trẻ hơn tuổi 32 của mình nhiều. Khi tôi trở thành bộ trưởng tư pháp, George Fisher, một nghệ sỹ biếm họa tài năng của tờ Arkansas Gazette, đã vẽ tôi nằm trong một chiếc xe nôi. Khi tôi trở thành thống đốc bang, ông "nâng cấp" tôi lên cho đi xe đạp ba bánh. Mãi đến khi tôi trở thành tổng thống, George mới thôi cho tôi đi xe ba bánh và đặt tôi lên xe tải pick-up. Ông ấy là người ủng hộ tôi đấy nhé. Lẽ ra những việc ấy đã phải rung lên hồi chuông báo động, nhưng nó đã không rung lên.
Sau khi thực hiện một cuộc săn tìm trên toàn quốc, tôi quyết định bổ nhiệm tiến sỹ Robert Young, người điều hành thành công một phòng khám y tế nông thôn ở Tây Virginia, làm Bộ trưởng Y tế. Tôi muốn ông ấy giải quyết các vấn đề nghiêm trọng về chất lượng cũng như độ lan tỏa của dịch vụ y tế ở các vùng nông thôn Arkansas. Tiến sĩ Young và Orson Berry, giám đốc Văn phòng Y tế Nông thôn, đề xuất một kế hoạch đầy sáng tạo, buộc bác sĩ phải có mặt ít nhất một lần trong hai tuần, còn các y tá và hộ lý phải luôn túc trực tại bệnh viện để cung cấp dịch vụ khám và chữa bệnh mà họ được đào tạo để làm. Mặc dù số lượng các bác sĩ muốn làm việc ở nông thôn còn thiếu, các cuộc nghiên cứu cho thấy phần lớn bệnh nhân thích y tá hoặc hộ lý chăm sóc vì họ dành nhiều thời gian cho bệnh nhân hơn; và một chương trình y tá đỡ đẻ tại hạt Mississippi đã giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh xuống còn một nửa.
Các bác sĩ Arkansas kịch liệt phản đối kế hoạch này. Bác sĩ Jim Webber, người đại diện cho các bác sĩ tư, nói, "Chúng tôi không tin rằng được chăm sóc ít thì tốt hơn không được chăm sóc chút nào". Bất chấp sự phản đối của các bác sĩ, chính quyền Tổng thống Carter vẫn thông qua một khoản viện trợ để dùng cho chương trình của chúng tôi. Chúng tôi thành lập thêm bốn bệnh viện ở nông thôn, bắt tay xây dựng ba bệnh viện khác nữa, và mở rộng chương trình Y tá đỡ đẻ ở hạt Mississippi với sự tham gia của những người hành nghề y tá. Và việc chúng tôi làm nhận được khen ngợi từ khắp cả nước.
Chúng tôi cố gắng thuyết phục các bác sĩ bằng tất cả những gì có thể. Tôi ủng hộ các khoản thu thuế nhằm xây dựng một trung tâm chăm sóc đặc biệt tại Bệnh viện Nhi Arkansas để chăm sóc trẻ sinh thiếu tháng và các trẻ mắc chứng hiểm nghèo khác; và thành lập một viện xạ trị tại Trung tâm Y tế Đại học nhằm điều trị bệnh nhân ung thư chu đáo hơn. Tôi bổ nhiệm Hillary làm chủ tịch ủy ban Cố vấn Y tế Nông thôn để đề xuất các cải thiện xa hơn nữa và giúp ưu tiên hóa số lượng lớn những nhu cầu trợ giúp của các cộng đồng nông thôn. Chúng tôi còn cố gắng tích cực hơn nữa nhằm tuyển dụng bác sĩ cho vùng nông thôn, lập một quỹ vay vốn 150.000 đôla tiền của tiểu bang cho bất cứ bác sĩ nào mở phòng khám ở một thị trấn có 6.000 dân hoặc ít hơn, và cho phép các bác sĩ gia đình ở các thị trấn nhỏ được đăng ký xin hỗ trợ 6.000 đôla/năm. Các bác sĩ nhiệt liệt ủng hộ tất cả những sáng kiến này, vốn rất đáng kể khi mà suy thoái kinh tế năm 1980 gây ra những cắt giảm nghiêm trọng trong ngân sách của Bộ Y tế. Dù thế, các bác sĩ không bao giờ tha thứ cho Tiến sĩ Young hay tôi về chuyện đã không tham vấn họ thêm nữa và vì đã không tiến hành chậm hơn một chút đối với các bệnh viện ở nông thôn. Đến tháng 8 năm 1980, Hiệp hội Y tế Arkansas yêu cầu ông từ chức. Khi tôi rời nhiệm sở năm 1981, một số sáng kiến của tôi đã bị ngưng hoạt động, cho thấy rõ ràng là bạn có thể có những chính sách đúng đắn nhưng điều đó không nhất thiết là có lợi về mặt chính trị, nhưng bạn không thể tạo ra cho mọi người một chính quyền tốt nếu thiếu cả hai thứ ấy.
Năng lượng cũng là vấn đề rất lớn vì OPEC (Tổ chức các quốc gia xuất khẩu dầu - ND) tăng giá dầu, kéo theo giá cả của mọi thứ khác đều nhích lên theo. Trong lĩnh vực này, chúng tôi có chính sách tốt và cũng thuận lợi hơn về mặt chính trị, dù tôi vẫn tạo ra thêm vài kẻ thù đầy quyền lực. Tôi thuyết phục quốc hội bang nâng cấp Văn phòng Năng lượng Arkansas lên tương đương cấp bộ và cố tạo ra một liên minh rộng rãi người sử dụng năng lượng, các công ty năng lượng, thương nhân và chính phủ nhằm tiết kiệm tiền cho người sử dụng năng lượng; tạo các ưu đãi cho các công ty năng lượng, các doanh nghiệp và dân chúng nhằm khuyến khích dự trữ năng lượng; và giúp tạo ra các nguồn năng lượng sạch mới. Tôi nghĩ chúng tôi có thể đảm bảo tự cung ứng đủ năng lượng và trở thành nơi dẫn đầu trong cả nước cả về dữ trữ năng lượng lẫn sử dụng nhiên liệu thay thế. Chúng tôi thông qua đạo luật cho phép giảm thuế nếu thực hiện bảo tồn năng lượng hoặc đầu tư vào nguồn năng lượng tái sinh sử dụng trong dân dụng, thương mại và công nghiệp, đồng thời miễn thuế xăng của tiểu bang cho các loại nhiên liệu hỗn hợp có ít hơn 10% cồn. Chúng tôi tiến hành kiểrn toán năng lượng cho các doanh nghiệp thương mại và công nghiệp và cấp 50% tiền trợ cấp cho trường học, bệnh viện và các tổ chức công cộng khác để sắm và lắp đặt các chương trình bảo tồn năng lượng. Chính phủ liên bang cấp tiền cho các sáng kiến như vậy, và chúng tôi là tiểu bang đầu tiên trong toàn quốc nhận được khoản này. Khi tôi mới đảm nhận chức vụ, theo số liệu thống kê của chính phủ liên bang thì chương trình dự trữ năng lượng của chúng tôi kém nhât cả nước. Sau một năm, chúng tôi đứng thứ chín trên toàn diện các mặt và thứ ba trong lĩnh vực bảo tồn năng lượng trong công nghiệp.
Các nỗ lực của chúng tôi trong việc kiểm soát các công ty năng lượng phần lớn là thành công nhưng cũng gây nhiều tranh cãi hơn. Tôi muốn Bộ Năng lượng có đủ quyền can thiệp vào các buổi điều trần về giá năng lượng của úy ban Dịch vụ Công cộng, tập hợp thông tin và thanh tra các cơ sở năng lượng hạt nhân. Quốc hội tiểu bang, do Max Howell - một người rất hào phóng trong những vấn đề liên quan đến thuế khóa hay giáo dục nhưng lại thân với các cơ sở năng lượng - là thành viên cấp cao, đã lạnh nhạt với đề xuất thứ nhất của tôi và từ chối cấp tiền thực hiện đề xuất thứ hai. Khi tôi thuyết phục được Công ty Năng lượng và Chiếu sáng Arkansas (AP&L) cho khách hàng của họ được nợ không lãi suất, còn bắt người sử dụng năng lượng chịu chi phí thì tất cả những ai hiểu vấn đề này đều hoan nghênh vì biết rằng đó là cách bớt tốn kém hơn nhiều nhằm có thêm điện năng so với việc xây thêm các nhà máy điện mới. Thật không may, một số thành viên quốc hội tiểu bang, những người cho rằng kế hoạch dự trữ năng lượng của tôi sẽ phá vỡ cơ chế doanh nghiệp được tự chủ trong kinh doanh, làm ầm ĩ đến mức AP&L thấy buộc phải bỏ chương trình này. Dù vậy, công ty này vẫn tiếp tục ủng hộ các nỗ lực rộng rãi của chúng tôi nhằm làm nhà của người thu nhập thấp thích nghi hơn với thời tiết, tức là mát hơn vào mùa hè và ấm hơn vào mùa đông để giảm đáng kể tiền điện.
Thậm chí nỗ lực bảo tồn năng lượng của chúng tôi cũng không tránh khỏi chuyên gây ồn ào dư luận. Một phóng viên điều tra phát hiện ra rằng một trong các dự án nhận tiền của chúng tôi là một dự án dỏm. Dự án này được lập ra nhằm đào tạo những người thu nhập thấp chặt gỗ và phân phối số gỗ đó cho những người cũng có thu nhập thấp khác để đun bếp. Dự án "Nguồn năng lượng gỗ thay thế đặc biệt" này có một cái tên tắt đầy tính mô tả là SAWER (sawer trong tiếng Anh nghĩa là cái cưa - ND) nhưng hiệu quả thì đáng thất vọng. Nó tốn đến 62.000 đôla chỉ để đào tạo ra sáu người chặt gỗ và chỉ chặt được có ba súc gỗ. Tôi sa thải giám đốc dự án và bổ nhiệm một người khác để chỉnh đốn dự án, nhưng khoản lãng phí kia vẫn in sâu vào tâm trí của công chúng. Đối với hầu hết người Arkansas, 62.000 đôla là một số tiền lớn.
Ở góc độ quản lý, chúng tôi thua to ở hai vấn đề lớn Trước hết, chúng tôi đã làm hết sức mình để xóa bỏ hiện tượng "đổ bánh xèo" của những công ty năng lượng. Nếu họ xin tăng giá thêm 10% nhưng chỉ được phép 5%, họ vẫn có thể vẫn thu theo giá đã tăng 10% trong khi có thể kháng nghị ra tòa và thu lại được cả 10%. Trong lúc đó, họ lại tiếp tục đề nghị tăng giá nữa và cứ thế thu tiếp, y như "đổ bánh xèo" lớp sau chồng lên lớp trước, vẫn tiếp tục thu mức tăng thêm chưa được phê chuẩn. Cho dù các công ty năng lượng kháng nghị thất bại, mà thường là như vậy, thì hậu quả của trò "đổ bánh xèo" này vẫn buộc người sử dụng năng lượng, trong đó có nhiều người nghèo, vô hình chung phải cấp cho họ những khoản vay lãi suất thấp khổng lồ. Điều này là sai trái, nhưng một lần nữa các công ty năng lượng có quan hệ tốt trong giới quốc hội tiểu bang hơn tôi nên đã dẹp được một đạo luật chống "đổ bánh xèo" từ ngay khi luật này được đưa ra xem xét ở cấp ủy ban.
Thứ hai, tôi tiếp tục tranh đấu với công ty AP&L và công ty mẹ của nó, Middle South Utilities, về kế hoạch bắt người sử dụng năng lượng Arkansas phải trả 35% chi phí xây dựng các nhà máy năng lượng hạt nhân Grand Gulf ở Mississippi, trong khi AP&L đề xuất xây thêm năm nhà máy nhiệt điện ở Arkansas, và vì nhu cầu điện ở bang chúng tôi giảm đi nhiều đến mức AP&L có kế hoạch bán điện từ một trong các nhà máy hiện có của mình cho người tiêu dùng ở ngoài tiểu bang. Theo luật, các công ty năng lượng được phép có lợi nhuận, được gọi một cách mỹ miều là "tỷ lệ bồi hoàn", trên tất cả các khoản chi ra. Và theo kế hoạch Grand Gulf, người sử dụng năng lượng Arkansas sẽ phải chi trả hơn 1/3 chi phí xây dựng cộng thêm khoản tỷ lệ bồi hoàn ngay cả khi họ không hề sử dụng nguồn năng lượng ấy. AP&L không nắm quyền sở hữu nhà máy; nó thuộc sở hữu một chi nhánh độc lập khác không bán trực tiếp cho người sử dụng điện, và chỉ có chính quyền liên bang mới có quyền thông qua việc xây dựng cũng như tìm nguồn tài chính cho kế hoạch - điều này làm cho dự án lại càng không được kiểm tra kỹ càng. Khi những chuyên này được công bố trên tờ Arkansas Gazette, dư luận phản đối dữ dội. Chủ tịch ủy ban Dịch vụ Công cộng yêu cầu công ty AP&L không được tham gia vào kế hoạch này nữa. Chúng tôi đã tổ chức một chiến dịch rầm rộ gửi thư đến ủy ban Quản lý Năng lượng Liên bang đề nghị đảo ngược quyết định thông qua dự án Grand Gulf và làm nhẹ gánh cho Arkansas. Thế nhưng tất cả những nỗ lực ấy đều không thành công.
Sau đó dự án Grand Gulf được giữ nguyên bởi một quyết định của Tòa phúc thẩm quận Columbia, nơi có quyền xét xử các vụ kiện liên quan đến các cơ quan quản lý cấp liên bang. Thẩm phán Robert Bork, giáo sư môn Luật Hiến pháp của tôi trước đây, là người đưa ra phán quyết. Cũng như khi còn giảng dạy ở Yale, ông là người ủng hộ quyền của tiểu bang trong việc giới hạn tự do cá nhân. Mặt khác, khi có dính dáng đến các doanh nghiệp ông lại cho rằng chính quyền liên bang nên có tiếng nói cuối cùng và bảo vệ các doanh nghiệp khỏi các nỗ lực bầy hầy của tiểu bang nhằm chăm sóc cho dân thường. Năm 1987, trong phần điều trần tôi đã nghiên cứu và tự viết ra cho ủy ban Tư pháp thượng viện, quyết định của ông Bork trong vụ Grand Gulf là một trong những cơ sở tôi đưa ra để chống lại việc đề cử ông ta vào Tòa án tối cao Hoa Kỳ.
Tôi đã làm việc cật lực cho một chương trình năng lượng bất chấp sự phản đối mạnh mẽ, nhưng tôi cũng đã tạo cho mình một kẻ thù đáng gờm là AP&L, vốn có văn phòng ở hầu hết các hạt. Thế vẫn chưa hết. Tôi thấy bực bội trước việc mà tôi cho là sự đốn cây quá đáng của các công ty khai thác gỗ và bổ nhiệm Steve Smith đứng đầu một nhóm đặc biệt điều tra sự việc. Steve vẫn còn trong giai đoạn nóng tính. Steve đã dọa dẫm công ty này, làm họ phát khùng. Tất cả những gì tôi muốn chỉ là giảm phạm vi khai thác và duy trì vùng rừng đệm ở mức độ an toàn dọc đường giao thông và các con suối nhằm tránh xói mòn đất. Những người phê phán to mồm nhất của tôi nói rằng tôi muốn làm cho tất cả những người kéo gỗ và công nhân xưởng gỗ thất nghiệp. Chúng tôi chẳng đi đến đâu cả, và Steve cảm thấy quá phẫn nộ nên không lâu sau đã bỏ về nhà ở vùng núi.