← Quay lại trang sách

Chương 27

Trong chính trị, chẳng có gì giống với cuộc bầu cử ở New York. Trước hết, có tới ba khu vực hoàn toàn khác nhau về địa lý và tâm lý trong bang: thành phố New York với năm quận rất khác biệt; Long Island và các quận vùng ven khác; và phía bắc bang New York. Có rất đông người da đen và người nói tiếng Tây Ban Nha, lượng người Mỹ gốc Do Thái đông nhất nước, cộng với các nhóm được tổ chức rất tốt những người Ân Độ, Pakistan, Albania và bất cứ nhóm người thiểu số nào mà bạn có thể hình dung được. Nhóm dân cư da đen và nói tiếng Tây Ban Nha ở New York cũng rất đa dạng - người New York nói tiếng Tây Ban Nha gồm người gốc Puerto Rico và tất cả các nước vùng Caribe, chỉ riêng Cộng hòa Dominica đã hơn 500.000 người.

Công việc tiếp cận với các cộng đồng sắc dân do Chris Hyland phụ trách. Chris là bạn học Georgetown sống ở hạ Manhattan, một trong những khu vực đa sắc tộc đa dạng nhất nước Mỹ. Khi tôi và Hillary đến thăm nhóm học sinh của một trường tiểu học phải dời chỗ học do vụ tấn công vào tòa nhà Trung tâm Thương mại Thế giới tháng 9 năm 2001, chúng tôi gặp trẻ em từ 80 nhóm sắc tộc và quốc gia khác nhau. Chris bắt đầu bằng việc mua khoảng 30 loại báo của các sắc dân và tìm ra các lãnh đạo cộng đồng được báo nhắc đến. Sau giai đoạn bầu sơ bộ, anh tổ chức các nhóm quyên góp tiền ở New York với 950 lãnh đạo sắc dân, sau đó chuyển đến Little Rock để tổ chức nhóm đa sắc tộc cho toàn quốc, góp phần đáng kể vào chiến thắng của cuộc tổng tuyển cử, và thiết lập nền móng cho những mối liên hệ liên tục chưa từng thấy với các cộng đồng sắc tộc ngay khi chúng tôi đặt chân vào Nhà Trắng.

Các nghiệp đoàn lao động - đặc biệt là các nghiệp đoàn công chức nhà nước, hiện diện khắp nơi và rất nhạy bén cũng như hiệu quả về chính trị. Ở thành phố New York, tình hình chính trị của các cuộc bầu cử sơ bộ thường phức tạp hơn rất nhiều vì lẽ các thành viên thường xuyên của cả hai đảng và các nhà cải cách tự do đều rất tích cực và thường bất đồng với nhau. Các nhóm ủng hộ quyền đồng tính được tổ chức tốt và có tiếng nói về nhu cầu hơn nữa trước iại dịch AIDS - thời điểm năm 1992, nước Mỹ có nhiều nạn nhân của AIDS hơn ở bất cứ quốc gia nào. Báo chí hổ lốn chưa từng có, từ các tờ báo truyền thông mà đứng đầu là tờ New York Times, các tờ báo lá cải, các đài truyền hình địa phương hăng hái, và các chương trình giao lưu qua radio - tất cả đều hừng hực cạnh tranh tìm tin tức mới nhất.

Trong khi cuộc chạy đua ở New York chỉ thực sự bắt đầu sau cuộc bầu cử sơ bộ ở Connecticut thì tôi đã làm cho bang được vài tháng với sự giúp đỡ vô giá và sự cố vấn chuyên nghiệp của Harold Ickes, người trùng tên và là con trai của cựu bộ trưởng nội vụ của FDR. Đến năm 1992, chúng tôi đã là bạn của nhau được hơn 20 năm. Harold gầy gò, quyết liệt, thông minh, nồng nhiệt, và đôi khi còn hơi quá trớn - một sự pha trộn giữa chủ nghĩa lý tưởng cấp tiến với kỹ năng chính trị thực tế. Hồi trẻ, anh là cao bồi ở miền tây và từng bị dập tơi bời trong khi đang đấu tranh cho dân quyền ở miền Nam. Trong cuộc vận động, anh là người bạn trung thành và cũng là đối thủ dữ dội, anh tin tưởng vào quyền lực chính trị có thể thay đổi cuộc sống. Anh biết rõ về các nhân vật, các vấn đề và các cuộc tranh giành quyền lực của New York như lòng bàn tay mình. Nếu tôi đang đâm đầu vào địa ngục thì ít ra tôi cũng đang đồng hành với một người có thể cứu tôi sống sót ra khỏi nơi đó.

Tháng 12 năm 1991, Harold đã giúp tổ chức được sự ủng hộ quan trọng ở Manhattan, Brooklyn và Bronx và thu xếp cho tôi nói chuyện với ủy ban Dân chủ Queens. Anh đề nghị cả hai cùng đi tàu điện ngầm từ Manhattan đến buổi họp. Hình ảnh người quê mùa như tôi đi tàu điện ngầm được báo chí viết đến nhiều hơn bài nói chuyện, nhưng lần xuất hiện đó rất quan trọng. Ngay sau đó chủ tịch ủy ban Dân chủ Queens là Hạ nghị sĩ Tom Manton đã ủng hộ tôi. Dân biểu khu Queens là Floyd Flake cũng thế, ông cũng là mục sư của Nhà thờ Giám lý Allen African Episcopal.

Tháng giêng, tôi đến một trường trung học ở Brooklyn để tham dự buổi kỷ niệm sinh nhật Martin Luther King Jr., cùng đi có Nghị sĩ Mỹ - Phi Ed Town và chủ tịch phái Dân chủ Brooklyn là Clarence Norman. Lũ trẻ nói rất nhiều về rắc rối với súng và dao trong trường. Chúng muốn có một tổng thống giúp cuộc sống của chúng an toàn hơn. Tôi tham gia một cuộc tranh luận ở Bronx do chủ tịch quận Fernando Ferrer chủ trì, người sau này có thể là người ủng hộ. Tôi đi phà đến đảo Staten để vận động. Ở Manhattan, chủ tịch quận Ruth Messinger làm việc giúp tôi rất tích cực, và Marty Rouse, trợ lý trẻ của bà, cũng vậy. Marty giúp tôi tạo được ảnh hưởng với cộng đồng đồng tính. Victor và Sara Kovner đã thuyết phục được một sô nhà cải cách cấp tiến ủng hộ tôi và trở thành những người bạn tốt. Guillermo Linares, một trong những người Dominica đầu tiên được bầu vào hội đồng thành phố, đã trở thành một trong những người gốc Latinh nổi bật ủng hộ tôi. Tôi còn vận động tranh cử ở Long Island và ở hạt Westchester, nơi tôi đang sống hiện giờ.

Các nghiệp đoàn lao động ở New York tạo ra sự khác biệt lớn hơn so với bất cứ cuộc bầu cử sơ bộ nào trước đó. Trong số lớn nhất và tích cực nhất có chi nhánh ở New York của AFSCME, Liên đoàn nhân viên của bang, quận và thành phố Mỹ (American Federation of State, Country and Municipal Employees). Sau khi tôi xuất hiện trước hội đồng điều hành, AFSCME là nghiệp đoàn lớn đầu tiên ủng hộ tôi. Tôi từng làm việc gần gũi với AFSCME hồi còn làm thống đốc, và trở thành thành viên đóng phí. Nhưng lý do chính của sự ủng hộ chính là vì chủ tịch liên đoàn, Gerrald McEntee, thấy thích tôi và cho rằng tôi có thể thắng. McEntee là người tốt mà bạn luôn muốn có về phe mình, rất tích cực, đặc biệt trung thành và không nề hà những cuộc tranh đấu dữ dội. Tôi cũng được sự ủng hộ của Công đoàn Giao thông Liên bang và, đến cuối tháng 3, của Hiệp hội Công nhân Truyền thông Mỹ và Hiệp hội Công nhân Nữ ngành May Quốc tế. Giới giáo viên giúp đỡ rất nhiều mặc dù tôi chưa nhận được sự ủng hộ chính thức của họ. Ngoài các nghiệp đoàn, tôi còn được ủng hộ mạnh mẽ bởi nhóm các doanh nhân do Alan Patricof và Stan Shuman huy động.

Cuộc đụng độ quan trọng và lầu dài nhất của tôi với một nhóm sắc dân là với người gốc Ireland. Một tối muộn, tôi tham dự diễn đàn Các vấn đề người gốc Ireland do đại diện vùng Bronx là John Dearie tổ chức. Harold Ickes và ủy viên Thuế vụ của thành phố’ New York Carol O'Cleireacain đã giúp tôi chuẩn bị. Paul O'Dwyer huyền thoại, lúc đó đã khoảng 85 tuổi, và con trai ông cũng có mặt. Ngoài ra còn có Niall O'Dowd, chủ bút báo Irish Voice, phóng viên Jimmy Breslin, Peter King phụ trách tài chính của Queens, một người đảng Cộng hòa và khoảng 100 nhà hoạt động Ireland khác. Họ muốn tôi hứa sẽ chỉ định một đặc phái viên để kết thúc bạo lực ở Bắc Ireland với các điều khoản công bằng cho thiểu số người Thiên Chúa giáo ở đó. Tôi cũng được Thị trưởng Boston Ray Flynn khuyến khích trong việc này. Ray Flynn là người gốc Ireland theo Thiên Chúa giáo và rất ủng hộ tôi. Tôi bắt đầu quan tâm đến vấn đề Ireland từ khi các "rắc rối" bắt đầu năm 1968, lúc còn học ở Oxford. Sau cuộc tranh luận dài, tôi nói tôi sẽ làm và rằng tôi sẽ chấm dứt nạn phân biệt đối với người theo đạo Thiên Chúa ở Bắc Ireland trong kinh tế và các lĩnh vực khác. Mặc dù tôi biết như vậy có thể làm người Anh nổi giận và gây căng thẳng với đồng minh quan trọng nhất bên kia bờ Đại Tây Dương, nhưng tôi tin rằng với số lượng người Ireland nhập cư khổng lồ, kể cả những người rót tiền về cho quân đội Cộng hòa Ireland (IRA), nước Mỹ có thể tạo ra bước đột phá.

Ngay sau đó tôi đưa ra một tuyên bố mạnh mẽ tái khẳng định cam kết của mình, được thảo bởi phụ tá chính sách ngoại giao Nancy Soderberg. Bạn học trường luật của tôi, cựu nghị sĩ của Connecticut Bruce Morrison, đã tổ chức hội những người Mỹ gốc Ireland ủng hộ Clinton. Nhóm này đóng vai trò quan trọng trong cuộc vận động và công việc của tôi về sau. Chelsea đã ghi trong luận văn của mình ở trường Stanford về tiến trình hòa bình ở Ireland rằng thoạt đầu tôi chỉ quan tâm đến vấn đề Ireland vì lý do chính trị ở New York, nhưng về sau đề tài này trở thành niềm đam mê lớn trong suốt nhiệm kỳ tổng thống của tôi.

Trong bầu cử sơ bộ bình thường của đảng Dân chủ, vận động với những người ủng hộ như thế này thường bảo đảm chiến thắng dễ dàng. Nhưng đây không phải là cuộc bầu cử bình thường. Trước hết, có nhiều đối thủ. Jerry Brown làm việc như điên, quyết định tập hợp những cử tri cấp tiến trong cơ hội cuối cùng và tốt nhất để ngăn chặn cuộc vận động của tôi. Paul Tsongas, được khuyến khích bởi thành tích ở Connecticut, đã để cho mọi người thấy rằng ông không thấy phiền nếu những người ủng hộ bỏ phiếu cho ông thêm lần nữa. Ứng cử viên tổng thống của đảng Liên minh Mới, một phụ nữ hùng biện và quyết liệt tên Lenora Fulani đã làm tất cả những gì có thể để giúp họ, đưa những người ủng hộ bà ta đến nơi tổ chức sự kiện về y tế mà tôi tổ chức ở một bệnh viện trong khu Harlem và la ó không cho tôi phát biểu.

Jesse Jackson gần như đã chuyển đến ở hẳn New York để giúp Brown. Đóng góp quan trọng nhất của ông ta chính là đã thuyết thúc được Dennis Rivera, người đứng đầu một trong những nghiệp đoàn lớn nhất và tích cực nhất của thành phố là Nghiệp đoàn Quốc tế Công nhân Dịch vụ Địa phương 1199, không ủng hộ cho tôi mà quay qua giúp cho Jerry. Brown đáp trả thịnh tình bằng cách nói rằng nếu được đề cử, ông ta sẽ chỉ định Jesse đứng chung liên danh tranh cử. Tôi nghĩ tuyên bố của Brown sẽ giúp cho ông ta giữa những cử tri da đen ở New York nhưng cũng kích động rất nhiều người trong cộng đồng Do Thái ủng hộ cho tôi. Người ta tin rằng Jackson rất thân thiết với lãnh tụ Hồi giáo da đen Louis Farrakhan, người từng nổi đình đám với những phát biểu về Do Thái. Tuy nhiên, sự ủng hộ của Jesse cũng có thể phụ giúp thêm cho Brown ở New York.

Rồi còn các phương tiện truyền thông nữa. Các tờ báo lớn đóng trại hàng tuần ở Arkansas để tìm kiếm bất cứ thứ gì có thể trong quá trình làm việc và đời tư của tôi. Báo New York Times bắt đầư khai pháo vào đầu tháng 3 bằng những bài báo về vụ Whitewater đầu tiên của họ. Năm 1978, tôi và Hillary, cùng với Jim và Susan McDougal vay ngân hàng hơn 200.000 đôla để đầu tư vào đất đai dọc sông White ở phía tây bắc Arkansas. Jim là người buôn bán đất mà tôi đã gặp khi anh điều hành văn phòng của Thượng nghị sĩ Fullbright ở Little Rock. Chúng tôi hy vọng sẽ chia nhỏ khoảnh đất này và bán lấy lời cho những người về hưu, những người đang ngày càng đổ về vùng Ozarks càng nhiều trong những năm 60 và 70. McDougal đã từng thành công trong tất cả các dự án đầu tư đất đai trước đó, kể cả lần tôi đầu tư vài ngàn đôla và kiếm được một khoản lời nhỏ. Thật không may, trong thập niên 70, mức lãi suất cao kịch trần, nền kinh tế chựng lại, buôn bán đất đai thất bát và chúng tôi đã mất tiền trong vụ đầu tư.

Khi tôi tái đắc cử thống đốc năm 1983, McDougal đã mua lại một công ty chuyên tiết kiệm và cho vay và đặt tên là Công ty Bảo trợ Tiết kiệm và Cho vay Madison. Vài năm sau, anh thuê Công ty luật Rose làm đại diện. Khi cơn khủng hoảng tiết kiệm và cho vay làm rúng động nước Mỹ, Madison phải đối diện với nguy cơ vỡ nợ và tìm nguồn tiền mặt mới để duy trì hoạt động bằng cách bán ra cổ phiếu ưu tiên và tổ chức một chi nhánh cung cấp dịch vụ môi giới. Để làm được như vậy, McDougal phải được phép của ủy viên chứng khoán bang Beverly Bassett Schaffer, người mà tôi đã bổ nhiệm. Beverly là luật sư bậc nhất, là chị gái của bạn tôi, Woody Basset, là vợ của Archie Schaffer, cháu của Thượng nghị sĩ Dale Bumpers.

Bài báo của tờ Times là một trong một loạt các bài báo về vụ Whitewater. Tác giả bài báo đặt vấn đề có hay không sự mâu thuẫn về lợi ích trong việc Hillary làm luật sư đại diện cho một tổ chức mà tiểu bang có quyền kiểm soát, quản lý. Cô ấy đã tự tay ký một lá thư gửi cho ủy viên Schaffer giải thích về đề xuất bán cổ phiếu ưu tiên. Nhà báo này cũng ngụ ý rằng công ty Madison được ưu đãi đặc biệt trong khi thu xếp để những đề xuất tài chính "viễn tưởng" đó được chấp thuận và rằng Schaffer đã không xem xét thích đáng đối với một công ty đang sụp đổ.

Các sự kiện không ủng hộ những lời buộc tội và ám chỉ này. Trước hết, đề xuất tài chính mà bà ủy viên đã chấp thuận là bình thường ở thời điểm đó, không phải "viễn tưởng". Thứ hai, ngay khi kiểm toán độc lập công bố Madison sắp vỡ nợ năm 1987, Schaffer đã yêu cầu các cơ quan quản lý của tiểu bang đóng cửa công ty này trước khi chính cơ quan quản lý muốn làm như vậy. Thứ ba, Hillary đã tính tiền công ty Madison cho tổng số 20 giờ tư vấn luật tại Công ty luật Rose trong thời gian hai năm. Thứ tư, chúng tôi chưa bao giờ mượn khoản tiền nào của Madison, nhưng chúng tôi đã mất tiền trong vụ đầu tư vào Whitewater. Toàn cảnh vụ Whitewater là như vậy. Rõ ràng phóng viên của tờ New York Times đã nói chuyên với Sheffield Nelson và những kình địch khác của tôi ở Arkansas, những người rất vui sướng tạo ra "vấn đề phẩm chất" mới cho tôi ngoài vụ quân dịch và vụ Flowers. Trong trường hợp này, làm như vậy đòi hỏi phải lờ đi những sự kiện không thuận lợi và cố ý xuyên tạc quá trình công tác của một công chức tận tụy như Schaffer.

Tờ Washington Post vào trận bằng các bài báo được viết sao cho thấy rằng tôi rất thân cận với ngành công nghiệp chăn nuôi gia cầm và đã thất bại trong việc ngăn ngừa rác thải từ các trang trại nuôi gà và heo đổ vào đất canh tác. Chất thải chăn nuôi với số lượng ít Jcó thể làm phân bón rất tốt, nhưng với số lượng nhiều thì đất đai sẽ không hấp thụ được, và mưa sẽ cuốn loại chất thải này vào sông suối, làm ô nhiễm đến mức không an toàn cho đánh bắt cá và bơi lội. Năm 1990, Văn phòng Kiểm soát Ô nhiễm và Sinh thái của bang báo cáo rằng hơn 90% các con suối ở tây bắc Arkansas - nơi tập trung ngành công nghiệp chăn nuôi - đã bị ô nhiễm. Chúng tôi đã bỏ ra vài triệu đôla để giải quyết vấn đề này, và hai năm sau Văn phòng Kiểm soát Ô nhiễm nói rằng trên 50% các con suối đã đạt tiêu chuẩn để dân chúng có thể đến giải trí tại đây. Tôi đã thuyết phục được ngành chăn nuôi đồng ý thiết lập "tiêu chuẩn quản lý tốt nhất" để làm sạch những con suôi còn lại. Tôi bị chỉ trích là đã không buộc ngành này phải làm sạch môi trường - một việc nói dễ hơn làm. Quốc hội do phe Dân chủ kiểm soát còn không làm được điều đó; các nhóm quyền lợi nông nghiệp có đủ ảnh hưởng để được hoàn toàn miễn trừ đôi với các qui định liên bang khi quốc hội thông qua Đạo luật Nước sạch. Chăn nuôi gia cầm là ngành kinh doanh lớn nhất và tạo nhiều việc làm nhất ở Arkansas, rất có ảnh hưởng trong cơ quan lập pháp tiểu bang. Trong hoàn cảnh đó, tôi nghĩ chúng tôi đã làm khá tốt mặc dù đó là điểm yếu nhất trong một quá trình chính sách rất ấn tượng về môi trường. Cả hai tờ Washington Post và New York Times đều cố ý đăng bài về đề tài này, và cuối tháng 3 tờ Post cho rằng Công ty luật Rose đã bằng cách nào đó yêu cầu được bang nhẹ tay đối với ngành chăn nuôi gia cầm.

Tôi cố gắng điều chỉnh cách nhìn đúng đắn về mọi thứ. Báo chí có nghĩa vụ kiểm tra quá trình của người có thể trở thành tổng thống. Hầu hết các nhà báo ban đầu đều không biết gì về Arkansas hay về tôi. Một số người có những thành kiến tiêu cực về một tiểu bang nông thôn, nghèo và người dân sống ở đó. Tôi cũng đã bị coi là ứng viên có "vấn đề về tính cách" hồi năm 1992; điều này làm cho báo chí dễ tin vào những chuyện rác rưởi được trao vào tay họ nhằm khẳng định thêm những thành kiến sẵn có.

Về lý trí, tôi hiểu tất cả những chuyện này, và tôi vẫn nhớ và đánh giá cao những bài báo tích cực dành cho tôi trong thời gian đầu cuộc vận động. Tuy nhiên, càng lúc càng có cảm giác rằng các phóng sự điều tra đang được viết theo kiểu "tiền trảm, hậu tấu". Đọc chúng, tôi có cảm tưởng không còn là mình nữa. Báo chí dường như muốn quả quyết những ai nghĩ rằng tôi rất thích hợp làm tổng thống đều là lũ ngốc: những người Arkansas đã bầu cho tôi năm lần; các bạn thống đốc của tôi, những người đã bầu tôi là thống đốc hiệu quả nhất quốc gia; những chuyên gia giáo dục, những người đã khen ngợi thành tích và quá trình học tập của chúng tôi; những người bạn suốt đời đã cùng tôi đi vận động khắp đất nước. Ở Arkansas, ngay cả những kình địch của tôi cùng biết tôi làm việc cật lực và không đỡi nào tơ hào chút gì. Bây giờ mọi việc cứ như thể tôi đã bịp hết tất cả những người này từ hồi 6 tuổi. Một lần, khi mọi việc be bét ở New York, Craig Smith bảo tôi rằng anh không đọc báo nữa, "bởi vì tôi không nhận ra người mà họ đang nói đến".

Cuối tháng 3, Bestey Wright, người ở Harvard đang làm việc tại trường Kennedy, đã đến cứu tôi. Cô ấy đã làm việc căng thẳng trong nhiều năm để tạo ra một quá trình làm việc tiến bộ và điều hành hoạt động chặt chẽ về mặt đạo đức chức nghiệp. Cô có trí nhớ phi thường, biết rõ các quá trình và vụ việc và sẵn sàng chiến đấu với báo giới để mọi người hiểu đúng về quá trình làm việc của tôi. Khi cô ây đến tổng hành dinh để làm lãnh đạo nhóm kiểm soát mọi rắc rối thì tôi cảm thấy nhẹ cả người. Betsey đã ngăn chặn được nhiều câu chuyên không đúng sự thật, nhưng cô ấy không thể ngăn cản hết tất cả.

Ngày 26 tháng 3, mọi việc như sáng sủa hơn khi Thượng nghị sĩ Tom Harkin, Hội Công nhân Mỹ và Liên đoàn Phụ nữ công nhân Ngành may tuyên bố ủng hộ tôi. Tôi cũng được lợi thêm khi Thống đốc Cuomo và Nghị sĩ New York Pat Moynihan chỉ trích đề nghị 13% thuế đổ đồng của Jerry Brown và nói rằng như vậy có thể ảnh hưởng xấu đến New York. Đó là ngày hiếm hoi trong cuộc vận động; tin tức báo chí chủ yếu là về việc dân chúng quan tâm đến các vấn đề và tác động của chúng đến cuộc sống của họ.

Ngày 29 tháng 3, tôi lại rơi vào chảo lửa với rắc rối do tôi tự gây ra. Tôi và Jerry Brown đang tham dự diễn đàn các ứng viên trên truyền hình WCBS ở New York, lúc đó phóng viên hỏi tôi có phải đã từng thử cần sa lúc còn ở Oxford không. Đây là lần đầu tiên tôi bị hỏi cụ thể và trực tiếp như vậy. Ở Arkansas, khi được hỏi chung chung tôi đã từng thử ma túy chưa, tôi chỉ trả lời thoái thác rằng tôi chưa bao giờ vi phạm luật về ma túy của Mỹ. Lần này tôi trả lời trực tiếp hơn: "Khi ở Anh, tôi đã thử hút cần sa một hay hai lần và tôi không thích. Tôi không thực sự rít vào và tôi chưa bao giờ thử lại".

Ngay Jerry Brown cũng nói báo chí nên ngưng vấn đề này vì không liên quan đến bầu cử.

Nhưng báo chí coi như đã moi được ra một "vấn đề tính cách". Khi nói "không rít", tôi chỉ nhắc đến sự kiện, không phải đang cố gắng giảm thiểu những gì đã làm, trong khi tôi cố giải thích hết sức mình. Lẽ ra tôi nên nói tôi không rít vào được. Tôi không bao giờ hút thuốc lá, không bao giờ thực sự rít tẩu mà ở Oxford thỉnh thoảng tôi có hút, và đã thử rít cần sa nhưng không được. Tôi không biết vì sao lại nhắc đến chuyện này; có thể tôi đã nghĩ như vậy là khôi hài, hoặc có thể đó chỉ là phản ứng lo lắng đối với đề tài mà tôi không muôn bàn đến. Ý kiến của tôi còn được tái khẳng định bởi một nhà báo người Anh đáng kính Martin Walker, người sau này đã viết một cuốn sách hay và không phải lúc nào cũng nói tốt về nhiệm kỳ thổng thông của tôi có tên: The President They Deserve - Clinton, Tồng thống mà họ đáng có. Martin nói công khai rằng ông đã từng ở Oxford với tôi và đã thấy tôi thử nhưng thất bại khi rít cần sa trong một bữa tiệc. Đến lúc đó thì đã quá muộn. Lời thú nhận không may về việc thử cần sa bị các nhà phê bình và phe Cộng hòa dẫn đi dẫn lại trong suốt năm 1992 và coi đó là bằng chứng cho thấy cá tính có vấn đề của tôi. Và chắc là tôi đã trở thành đề tài đàm tiếu trong các chương trình tấu hài trên truyền hình trong nhiều năm.

Như trong một bài hát đồng quê xưa từng viết, tôi không biết "nên tự tử hay đi chơi bowling". New York phải chịu các vấn đề nghiêm trọng về kinh tế và xã hội. Các chính sách của Bush làm cho mọi việc tồi tệ hơn. Thế nhưng ngày nào cũng có báo chí và truyền hình gào thét về các vấn đề "cá tính" của tôi. Xướng ngôn viên trên đài phát thanh Don Imus gọi tôi là "dân chơi miền Nam". Khi tôi đến chương trình của Phil Donahue trên tivi, anh ta dành 20 phút chỉ để hỏi về chuyện ngoại tinh. Sau khi tôi trả lời rõ ràng, anh ta vẫn hỏi nữa. Tôi cự tuyệt, thế là khán giả vỗ tay reo hò. Anh ta vẫn tiếp tục hỏi.

Tôi có vấn đề về tính cách hay không thì chưa rõ, nhưng chắc chắn tôi bị rắc rối với danh tiếng của mình, một chuyện mà Nhà Trắng đã hứa là sẽ đổ vào đầu tôi hơn sáu tháng trước. Vì tổng thống vừa là người đứng đầu quốc gia vừa là người điều hành chính phủ nên danh tiếng rất quan trọng. Các tổng thống đời trước từ George Washington và Thomas Jefferson đã bảo vệ danh tiếng của họ một cách dữ dội: Washington, trước lời phê phán về tài khoản chi phí của ông trong cuộc Chiến tranh Cách mạng; Jefferson, trước những câu chuyện về thói mềm lòng của ông trước phụ nữ. Trước khi trở thành tổng thống, Abraham Lincoln phải chịu một thời kỳ trầm cảm. Có khi ông không thể ra khỏi nhà trong vòng một tháng. Nếu ông tranh cử vào thời hiện đại của chúng ta thì có lẽ chúng ta đã bị tước đi vị tổng thống vĩ đại nhất này.

Thậm chí, Jefferson còn viết về trách nhiệm của các phụ tá tổng thống phải bảo vệ danh tiếng của tổng thông với bất cứ giá nào: "Nếu một tai nạn của hoàn cảnh đưa chúng ta đến một tình cảnh trong lịch sử mà chúng ta chưa kịp chuẩn bị, thì trách nhiệm của những người quanh ta là phải thận trọng phủ một lớp màn che đi những yếu điểm trước đôi mắt của công chúng, kể cả những thói hư tật xấu của tính cách chúng ta". Bức màn đã vén lên để lộ những yếu điểm và thói hư tật xấu của tôi, kể cả có thực lẫn bịa đặt. Công chúng biết nhiều về chúng hơn, về quá trình làm việc, thông điệp của tôi hay bất cứ đức tính nào tôi có. Nếu danh tiếng của tôi bị tàn lụi thì tôi có thể không được bầu bất kể có bao nhiêu người đồng ý với những việc tôi muốn làm, hoặc bất kể họ tin chắc tôi có thể làm tốt đến mức nào.

Đối đầu với những cuộc tấn công về tính cách như vậy, tôi phản ứng lại như vẫn thường làm mỗi khi bị dồn vào chân tường - cứ lẳng lặng mà tiếp tục. Tuần cuối cùng của kì vận động, mây đen bắt đầu tan. Ngày 1 tháng 4, trong cuộc gặp với Tổng thống Bush tại Nhà Trắng, Tổng thống Carter đã bình luận rằng ông ủng hộ tôi, và lời bình luận này được đăng tải rộng rãi. Đúng là không gì đúng lúc hơn thế. Không ai thắc mắc gì về tính cách của Carter, và thanh danh của ông vẫn tiếp tục tăng dần sau khi ông thôi không làm tổng thống nhờ những việc tốt ông đã làm ở trong nước và khắp thế giới. Chỉ bằng một lời bình luận, ông đã đền bù hết mức cho rắc rối mà ông đã từng gây ra cho tôi trong cuộc khủng khoảng dân tị nạn Cuba năm 1980.

Ngày 2 tháng 4, Jerry Brown bị la ó trong khi phát biểu trước Hội đồng Quan hệ Cộng đồng Do Thái ở New York vì đề nghị Jesse Jackson đứng chung liên danh tranh cử. Đồng thời, tôi và Hillary nói chuyện với một đám đông lớn tại cuộc tập hợp giữa ngày ở Phố Wall. Tôi cũng bị vài người la ó khi gọi thập niên 80 là thập kỷ tham lam và chống lại ý kiến cắt giảm thuế lợi nhuận thu được từ vốn. Sau bài nói chuyện, tôi vận động đám đông, bắt tay mọi người và cố gắng thuyết phục những người bất đồng ý kiến.

Cùng lúc đó, chúng tôi dốc toàn lực lượng của chiến dịch vào tiểu bang. Bên cạnh Harold Ickes và Susan Thomases, Mickey Kantor đến cắm trại trong một phòng khách sạn cùng với Carville, Stephanopoulos, Stan Greeberg và Frank Greer và đồng sự là Mandy Grunwald. Như mọi khi, Bruce Lindsey ở bên tôi. Vợ của anh, Bev, cũng đến để đảm bảo các sự kiện trước công chúng được lên kế hoạch và thi hành đâu ra đấy. Carol Willis tổ chức một xe buýt chở đầy người da đen ở Arkansas đến thành phố New York để nói về những gì tôi đã làm cho và cùng với người da đen lúc còn là thống đốc. Các mục sư da đen từ quê nhà gọi điện cho các đồng sự ở New York để xin cho người của chúng tôi lên phát biểu vào các lễ ngày chủ nhật trước cuộc bầu cử. Lottie Shackleford, Giám đốc ủy ban đảng Dân chủ thành phố Little Rock và Phó chủ tịch ủy ban Quốc gia đảng Dân chủ, đã phát biểu ở năm nhà thờ vào chủ nhật đó. Những người biết tôi đã cố gắng làm giảm nỗ lực của Mục sư Jackson nhằm đem lại đa số cử tri da đen ở New York cho Brown.

Một số người trong báo giới bắt đầu quay lại. Có lẽ gió đã đổi chiều; thậm chí tôi còn được đón tiếp thân mật trong chương trình radio của Don Imus. Cây viết của Neivsdaỵ, Jimmy Breslin, người rất quan tâm đến các vấn đề của người gốc Ireland, viết: "Bạn hãy nói bất cứ điều gì bạn muốn, nhưng đừng nói là ông ấy sẽ bỏ cuộc". Pete Hamill, phóng viên của tờ Daily News ở New York, sách của anh ta tôi đã đọc và rất thích, thì viết: "Tôi bắt đầu thấy kính trọng Bill Clinton. Đã đến những hiệp cuối mà ông ấy vẫn trụ được". Tờ New York Times và Daily News tuyên bố ủng hộ tôi. Thật thú vị, tờ New York Post cũng thế, báo này đã từng không mệt mỏi tấn công tôi hơn bất cứ tờ báo nào khác. Phần bình luận của tòa soạn viết: "Rõ ràng là sức mạnh trong tính cách của ông đã cho thấy ông có thể chịu đựng cuộc tấn công dữ dội của báo chí về các vấn đề cá nhân chưa từng có trong lịch sử của nền chính trị nước Mỹ... Ông ấy vẫn tiếp tục vận động một cách dữ dội... Theo quan điểm của chúng tôi, ông ấy đã chứng tỏ mình có được sự dẻo dai khác thường trước sức ép".

Ngày 5 tháng 4, tôi nhận được tin tốt lành từ Puerto Rico, nơi có 96% cử tri ủng hộ cho tôi. Sau đó, ngày 7 tháng 4, với số cử tri khoảng một triệu người, tôi thắng cử ở New York với 41%. Tsongas đứng thứ hai với 29%, dẫn trước Brown với 26%. Đa số người Mỹ gốc Phi đã bỏ phiếu cho tôi. Cho tới đêm đó, tôi dù bị đánh đập tả tơi nhưng lại đầy hoan hỉ. Nếu phải nhận xét về chiến dịch trong một câu, tôi chọn một dòng trong bài thánh ca tôi đã từng nghe trong nhà thờ của Anthony Mangun: "Trận đánh càng khốc liệt, chiến thắng càng vinh quang".

Khi thu thập tài liệu viết cuốn sách này, tôi đọc được bình luận về cuộc bầu cử sơ bộ ở New York của Charles Alien và Ionathan Fortis trong cuốn The ComebacK Kia - Cậu bé nơi sinh. Trong sách, các tác giả nhắc đến lời mà Levon Helm, tay trống người Arkansas của ban nhạc The Band, đã nói trong cuốn phim tài liệu về nhạc rock nổi tiếng The Last Waltz - Điệu Valse cuối cùng về một cậu trai miền Nam đến New York với hy vọng làm được điều gì đó to tát: "Bạn đến đó lần đầu, bị đá đít, và bạn ra đi. Ngay khi hồi phục vết thương, bạn lại quay lại và thử một lần nữa. Và cuốl cùng bạn say mê nơi đây luôn".

Tôi không có được sự xa xỉ là thời gian để hồi phục, nhưng tôi biết rõ cảm xúc của tay trống đó. Giống như New Hampshire, New York đã thử thách và dạy cho tôi. Và cũng giống như Levon Helm, tôi cũng bắt đầu thấy yêu thích nó. Sau sự khởi đầu đầy chông gai, New York trở thành một trong những bang mạnh nhất của tôi trong tám năm kế tiếp.

Ngày 7 tháng 4, chúng tôi cũng thắng ở Kansas, Minnesota và Wisconson. Ngày 9 tháng 4, Paul Tsongas tuyên bố không tái tham gia cuộc đua. Cuộc chiến tranh vị trí ứng viên đề cử đã kết thúc. Tôi đã có hơn nửa trong số 2.145 đại biểu cần thiết để trở thành ứng cử viên, và chỉ còn phải cạnh tranh với Jerry Brown trên chặng đường còn lại. Nhưng tôi biết rõ mình đã bị bầm dập đến mức nào và những gì có thể làm được ít ỏi đến mức nào trước Đại hội đảng Dân chủ vào tháng 7. Tôi cũng cảm thấy kiệt sức. Tôi đã bị mất giọng và lên cân đáng kể, khoảng 13kg. Tôi đã lên cân lúc ở New Hampshire, chủ yếu là vào tháng cuối cùng của cuộc vận động, lúc đó tôi bị sốt siêu vi, ngực như đầy nước nên đến đêm cứ ngủ được khoảng một tiếng đồng hồ là tôi lại thức dậy ho liên tục. Tôi tiêu thụ quá nhiều chất kích thích và bánh vòng Dunkin' Donuts, vòng eo to ra của tôi đã chứng minh điều đó. Harry Thomason phải mua cho tôi mấy bộ đồ vest mới để trông tôi không giống như quả bóng sắp nổ tung.

Sau New York, tôi về nhà một tuần để lấy lại giọng nói, tập thể dục giảm cân và suy nghĩ cách thoát ra khỏi hố sâu mà tôi đang vướng phải. Khi đang ở Little Rock, tôi đã thắng cuộc họp kín của Virginia và nhận được ủng hộ của các lãnh đạo nghiệp đoàn AFL- CIO. Ngày 24 tháng 7, Liên đoàn Các công nhân ngành ôtô tuyên bố ủng hộ tôi, và ngày 28 tháng 7, tôi giành được đa số trong kỳ bầu cử sơ bộ ở Pennsylvania. Pennsylvania vốn rất khó nuốt. Thống đốc Bob Casey, người tôi rất ngưỡng mộ vì từng kiên trì tranh cử ba lần trước khi thắng cử, lại phê phán tôi kịch liệt. Ông phản đối việc phá thai. Trong khi ông phải vật lộn với vấn đề sức khỏe đe dọa tính mạng chính mình thì vấn đề này càng trở nên quan trọng hơn đối với ông, và ông rất khó ủng hộ cho những ứng viên nghiêng về quyền chọn lựa phá thai. Nhiều đảng viên Dân chủ chống phá thai trong tiểu bang cũng gặp vấn đề tương tự. Tôi vẫn nghĩ tốt về Pennsylvania. Phía tây của bang này gợi nhớ cho tôi về miền bắc của Arkansas. Tôi khá thân thiết với nhiều người ở Pittsburgh và ở các thị trấn nhỏ hơn vùng giữa bang. Và tôi yêu Philadelphia. Tôi giành thắng lợi với 57% phiếu ở bang này. Quan trọng hơn thế, cuộc thăm dò ngay sau khi bầu cử cho thây có tới 60% những người phe dân chủ đi bỏ phiếu cho rằng tôi có đủ danh dự làm tổng thống, tăng so với 49% ở New York. Chỉ số này tăng vì tôi đã dành ba tuần để tổ chức một cuộc vận động hướng đến các vấn đề tích cực ở nơi các cử tri đang nóng lòng muốn nghe.