Chương 55
Trong khi hội nghị ở Trại David đang diễn ra, thì bên lề đã có khá nhiều dấu hiệu tích cực: Charlene Barshefsky hoàn tất hiệp định thương mại với Việt Nam, còn hạ viện thì thông qua đề xuất sửa đổi bổ sung của Maxine Waters - người luôn ủng hộ các chính sách của tôi - đề nghị dành thêm một khoản tiền nữa cho chương trình Xóa nợ Thiên niên kỉ. Tính đến thời điểm này, chương trình đã thu hút được sự ủng hộ rất to lớn, đáng kể nhất là của Bono.
Trước đó, Bono đã là một nhân vật nổi tiếng trong đời sống chính trị Washington - anh ấy hoá ra lại là một chính trị siêu hạng, một phần nhờ yếu tố bất ngờ. Larry Summers, người rất rành kinh tế nhưng lại không biết gì về văn hoá đại chúng, một hôm vào Phòng Bầu dục và bảo rằng anh ấy vừa mới họp về xoá nợ với "một gã nào đấy tên là Bono, tên có mỗi một chữ, mặc quần jean áo pull, đeo kính đen to. Anh ta đến gặp tôi về chuyện xoá nợ, và anh ta biết rõ chuyện ấy lắm".
Chuyến đi tới Okinawa là một thành công lớn, vì nhóm G-8 đã đồng tình với những cam kết của chúng tôi về việc phổ cập tiểu học cho trẻ em trên toàn thế giới vào năm 2015. Để khởi động, tôi đưa ra chương trình 300 triệu đôla cung cấp một bữa ăn ngon mỗi ngày cho 9 triệu trẻ em, với điều kiện chúng phải đi học. Sáng kiến này được đưa ra bởi George McGovern, đại sứ Mỹ tại Chương trình Lương thực của Liên hiệp quốc ở Rome, Bob Dole, bạn cũ của McGovern trong chương trình cung cấp tem thực phẩm và Nghị sĩ Jim McGovern thuộc bang Massachusetts. Tôi cũng đã đi thăm lực lượng quân đội Mỹ ở Okinawa, cám ơn Thủ tướng Nhật Bản Yoshiro Mori đã cho phép họ đóng quân ở đó, và cam kết sẽ cố giảm bớt tình trạng căng thẳng gây ra bởi sự hiện diện của quân đội. Đó là cuộc họp thượng đỉnh cuối cùng của G-8 mà tôi tham dự, nhưng đáng tiếc là tôi đã phải cáo lỗi để trở về ngay Trại David. Trong tám năm qua, các nhà lãnh đạo G- 8 đã rất ủng hộ sáng kiến của tôi, và chúng tôi đã cùng nhau đat được rất nhiều thành quả.
Chelsea cùng tôi tới Okinawa. Một trong những điều tuyệt vời nhất trong năm đó đối với cả tôi và Hillary là Chelsea được ở nhà trong nửa năm còn lại. Con bé đã học dồn nhiều tín chỉ hơn và tốt nghiệp sớm sau ba năm học ở Stanford để có thể dành ra sáu tháng sống với bố mẹ ở Nhà Trắng. Hiện giờ con bé sẽ chia quỹ thời gian làm đôi, vừa vận động tranh cử giúp mẹ vừa giúp tôi tổ chức các sự kiện ở Nhà Trắng và đi cùng tôi trong các chuyến công du nước ngoài. Con bé thực hiện tốt công việc ở cả hai việc, và sự có mặt của nó đã giúp cuộc sống của chúng tôi trở nên suôn sẻ hơn rất nhiều.
Cuối tháng tôi khởi động lại cuộc tranh đấu với đảng Cộng hòa về vấn đề cắt giảm thuế. Họ vẫn muốn dành khoản thặng dư dự tính trong vòng 10 năm để bù vào khoản giảm thuế vì cho rằng khoản tiền đó thuộc về những người đóng thuế và chúng tôi phải trả lại cho họ. Đó quả là một lý luận thuyết phục ngoại trừ một điểm: thặng dư này mới chỉ là dự tính trong khi việc cắt giảm thuế sẽ có hiệu lực bất chấp chính phủ có thực sự thu được thặng dư hay không. Tôi đã cố gắng minh họa luận điểm này bằng cách đề nghị mọi người thử hình dung rằng họ nhận được một trong những bức thư đầy thông tin quảng cáo từ Ed McMahon, một nhân vật nổi tiếng trên truyền hình với lời mở đầu là "Bạn có lẽ đã trúng thưởng 10 triệu đôla". Tôi nói có lẽ những ai tiêu ngay 10 triệu đôla khi nhận được bức thư ấy sẽ lập tức ủng hộ cho kế hoạch của đảng Cộng hòa; số còn lại sẽ "đồng ý với chúng tôi và tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế".
Tháng 8 là một tháng đầy bận rộn, bắt đầu là việc đề cử Georger W. Bush và Dick Cheney ở Philadelphia. Hillary và tôi tới Vườn nho Martha để gây quỹ tranh cử cho Hillary, sau đó tôi bay tới Idaho thăm những người lính cứu hỏa đang phải chống chọi với vụ cháy rừng trên diện rộng đầy nguy hiểm. Ngày 9 tháng 8, tôi trao tặng huân chương vì tự do cho 15 người Mỹ, trong đó có cố Thượng nghị sĩ John Chafee, Thượng nghị sĩ Pat Moynihan, Marian Edelman người sáng lập ra quỹ bảo trợ trẻ em, tiến sĩ Mathilde Krim nhà hoạt động phòng chống AIDS, Jesse Jackson, luật sư về dân quyền, thẩm phán Cruz Reynoso, và tướng Wes Clark người đã kết thúc binh nghiệp xán lạn của mình bằng việc nhận chỉ huy một chiến dịch đầy cam go chống lại Milosevic và hành động thanh trừng sắc tộc của ông ta ở Kosovo.
Trong khi hàng loạt những sự kiện chính trị đang diễn ra, tôi đã làm một việc hoàn toàn không mang tính chính trị: tới Nhà thờ Willow Creek Community của bạn tôi là Bill Hybels ở Nam Barrington, Illinois, gần Chicago, và có một buổi nói chuyện trước vài trăm người tại hội nghị mục sư của Bill. Chúng tôi chuyện trò về thời điểm tôi quyết định tham gia chính trị, nơi gia đình tôi đi nhà thờ và điều đó có ý nghĩa với tôi thế nào, tại sao rất nhiều người vẫn tin rằng tôi chưa bao giờ xin lỗi về những hành vi không đúng của mình, tôi đã sử dụng trưng cầu dân ý ra sao, yếu tố gì là quan trọng nhất đối với lãnh đạo, và tôi muốn được lưu danh như thế nào. Hybels có một cách thức rất lạ khi đơn giản hóa các vấn đề và buộc tôi phải nói về những điều mà thông thường tôi sẽ không bao giờ đề cập tới. Tôi muốn có vài giờ đồng hồ gác chính trị và công việc sang một bên để suy ngẫm về đời sống nội tâm mà việc chính trị thường lấn át.
Ngày 14 tháng 8, trong đêm khai mạc đại hội đảng Dân chủ, Hillary bày tỏ lời cảm ơn đầy xúc động đối với sự ủng hộ của các thành viên đảng Dân Chủ, sau đó đọc một bản công bố về những điểm yếu của đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử năm nay. Sau khi bộ phim chiếu trong đại hội thứ ba của tôi, do Harry và Linda Thomason thực hiện nói về các thành tựu trong tám năm qua, kết thúc, tôi được đưa lên sân khấu trong tiếng vỗ tay như sấm giữa những giai điệu nhạc hết sức truyền cảm. Khi tiếng ồn lắng xuống, tôi nói lần bầu cứ này xoay quanh một câu hỏi đơn giản: "Liệu chúng ta có tiếp tục tiến bộ và phát triển thịnh vượng được không?".
Tôi đề nghị các thành viên đảng Dân chủ đảm bảo chắc chắn rằng chúng tôi áp dụng tiêu chuẩn cựu Tổng thống Reagan năm 1980 nhằm xác định liệu một đảng có còn xứng đáng nắm quyền hay không: "Cuộc sống hôm nay của chúng ta có tốt đẹp hơn tám năm về trước hay không?". Phản ứng vỗ tay rầm rộ của đám đông đã chứng tỏ cưu Tổng thống Harry Truman hoàn toàn đúng khi ông nói: "Nếu anh muốn sống như những thành viên đảng Cộng hòa, thì anh nên bỏ phiếu cho đảng Dân chủ". Đời sống của người dân đã được cải thiện rất nhiều, không chỉ về mặt kinh tế. Số lượng công ăn việc làm nhiều hơn, số trường hợp nhận con nuôi cũng nhiều hơn. Nợ giảm, và tỉ lệ mang thai ở tuổi vị thành niên cũng giảm xuống. Đất nước chúng ta đang trở nên đa dạng hơn mà cũng đoàn kết hơn. Chúng tôi đã xây dựng và bắc được chiếc cầu bước sang thế kỉ 21, "và chúng ta sẽ không quay trở lại".
Tôi đề cập đến một quốc hội của đảng Dân chủ, nói rằng thành quả của chúng tôi chính là minh chứng cho danh tiếng và cho những giá trị của nước Mỹ đồng thời thể hiện chúng tôi đã giải quyết được những vướng mắc trong quá khứ như thế nào. Nếu chúng tôi có một quốc hội thuộc đảng Dân chủ, nước Mỹ sẽ có đạo luật về quyền bệnh nhân, sẽ tăng mức lương tối thiểu, có luật thu nhập bình đẳng cho nữ giới và giảm thuế cho tầng lớp trung lưu để trợ giúp học đại học và chăm sóc lâu dài.
Tôi ca ngợi Hillary vì 30 năm hoạt động cộng đồng, đặc biệt là công việc của cô ấy tại Nhà Trắng - phụ trách các vấn đề gia đình và trẻ em, đồng thời nói thêm rằng cũng như cô ấy vẫn luôn sát cánh bên gia đình chúng tôi, cô ấy cũng sẽ sát cánh giúp đỡ tất cả các gia đình ở New York nói riêng và cả nước Mỹ nói chung.
Sau đó tôi cũng đưa ra những lý lẽ ủng hộ Al Gore, nhấn mạnh niềm tin mãnh liệt, ý tưởng sáng tạo và sự hiểu biết về tương lai cũng như sự chính trực của anh ấy. Tôi cảm ơn Tipper vì cô ấy đã hoạt động vì sức khỏe tâm thần, ủng hộ việc Al lựa chọn Joe Lieberman, nói về tình bạn của chúng tôi trong suốt 30 năm qua và công việc của Joe về dân quyền ở miền Nam những năm 60. Joe, một người Mỹ gốc Do Thái đầu tiên đứng trong liên danh tranh cử của một đảng lớn, chính là bằng chứng rõ ràng về cam kết xây dựng một nước Mỹ thống nhất của Al Gore.
Tôi kết thúc bài nói của mình bằng lời cảm ơn chân thành và lời kêu gọi tha thiết:
"Thưa các bạn, 54 năm trước, tôi được mẹ tôi, một phụ nữ trẻ góa chồng, sinh ra giữa một cơn bão mùa hè mịt mùng tại một thị trấn nhỏ ở miền nam. Nước Mỹ đã cho tôi cơ hội để biến giấc mơ thành hiện thực. Còn tôi vẫn luôn cố gắng hết sức để có thể giúp các bạn thực hiện được mơ ước của mình. Giờ đây, tóc đã nhuốm màu, những nếp nhăn đã hằn sâu hơn, nhưng với một tinh thần lạc quan và niềm hi vọng trong công việc y như tám năm về trước, tôi muốn các bạn hiểu rằng trong trái tim tôi lúc nào cũng tràn đầy lòng biết ơn.
Hỡi đồng bào Mỹ, tương lai của đất nước chúng ta đang nằm trong tay các bạn. Các bạn phải suy nghĩ thật kỹ, phải cảm nhận thật sâu sắc, và lựa chọn thật sáng suốt. Và hãy nhớ... đặt nền tảng con người lên hàng đầu, tiếp tục bắc những chiếc cầu, và không ngừng hướng tới tương lai".
Ngày hôm sau Hillary, Chelsea và tôi bay tới Monroe, Michigan, để dự buổi lễ điều hành "chuyển giao ngọn đuốc" cùng với vợ chồng Al và Tipper Gore. Khá đông người ở tiểu bang thường phải giành giật ác liệt này đã đến tiễn Al tới Los Angeles nhận sự đề cử và trở thành người lãnh đạo đảng của chúng tôi, và tiễn tôi tới nhà hàng McDonald's địa phương, nơi tôi đã không lui tới trong nhiều năm rồi.
Liên danh Bush và Cheney đưa ra một thông diệp kép. Một mặt, đó là chủ nghĩa bảo thủ đồng cảm, hứa hẹn đem lại cho nước Mỹ những điều tốt đẹp như đảng Dân chủ của chúng tôi đã từng làm, nhưng sẽ duy trì một bộ máy quản lý nhà nước gọn nhẹ hơn và giảm thuế nhiều hơn. Mặt khác, đảng Cộng hòa sẽ nâng cao chuẩn mực đạo đức và chấm dứt tư tưởng phe phái tiêu cực ở Washington. Nói nhẹ nhất thì điều này cũng không thành thật chút nào. Trước đây, tôi đã từng tìm mọi cách hợp tác những người của đảng Cộng hòa ở Washington, nhưng ngay từ đầu họ đã cố tình gây khó dễ cho tôi. Thế mà nay họ lại nói: "Chúng tôi sẽ ngừng ngay những hành vi không đẹp nếu các anh giao lại Nhà Trắng cho chúng tôi".
Lập luận về đạo đức lẽ ra không có âm vang gì, trừ khi người ta nghĩ rằng Gore đã làm điều gì sai trái, và lại càng không âm vang khi người đứng chung liên danh là một Lieberman cực kỳ thẳng thắn. Tên tôi không có trên phiếu bầu, vì vậy sẽ là không công bằng và thậm chí là có hại nếu các cử tri đổ lỗi cho họ vì những sai lầm của cá nhân tôi Tôi biết chiến lược của họ sẽ không thể có hiệu quả trừ phi đảng Dân chủ chấp nhận tính đúng đắn của những lý lẽ mà đảng Cộng hòa đưa ra và không thể nhắc cử tri nhớ tới vụ truất phế tôi và phe cánh tả còn có thể gây thêm tổn hại gì nữa nếu họ lên nắm quyền ở cả Nhà Trắng lẫn quốc hội. Một Phó chủ tịch NRA đã dương dương tự đắc rằng nếu Bush trúng cử thì NRA sẽ có hẳn một văn phòng trong Nhà Trắng.
Sau đại hội, các cuộc thăm dò dư luận cho thấv Al Gore đã lật ngược được thế cờ và đang giành thắng lợi sít sao. Còn tôi và Hillary tới khu vực Finger Lakes thuộc ngoại ô New York để cắm trại và nghỉ ngơi trong hai ngày. Hillary đang tranh cử một cách khác hẳn so với lúc đầu. Thị trưởng Giuliani đã rút lui, nhưng đối thủ mới, Rick Lazio - nghị sĩ của bang Long Island - lại là một thách thức mới: ông ta là một nhân vật rất lôi cuốn và thông minh, có điều là bảo thủ hơn cả Giuliani.
Tôi kết thúc tháng đó bằng hai chuyến công du ngắn. Sau cuộc họp ở Washington với Vicente Fox, Tổng thống tân cử của Mexico, tôi đáp máy bay tới Nigeria để gặp Tổng thống Olusegun Obasanjo. Tôi muốn hỗ trợ cho những nỗ lực của ông nhằm ngăn chặn nạn dịch AIDS trước khi tỉ lệ nhiễm HIV của Nigeria tăng lên mức ngang bằng với các quốc gia ở Nam Phi, đồng thời củng cố việc thực thi một dự luật thương mại mới đây của châu Phi, với hi vọng giúp Nigeria vượt qua được những thách thức trong phát triển kinh tế. Obasanjo và tôi đã dự một hội thảo về AIDS. Tại đây, một cô gái trẻ đã kể lại những nỗ lực của cô nhằm giúp các bạn học sinh trong trường hiểu biết về căn bệnh này, và một người đàn ông tên John Ibekwe bộc bạch câu chuyện của đời mình. Anh đã cưới một người phụ nữ nhiễm HIV dương tính, anh bị nhiễm, và anh đã xoay xở mọi cách tìm kiếm thuốc chữa trị cho vợ để có thể sinh ra những đứa con không nhiễm virus. Cuối cùng John đã thành công, và bé Maria ra đời không hề bị HIV. Tổng thống Obasanjo đề nghị vợ của Ibekwe bước lên sân khấu và ông đã ôm lấy chị. Đó là một cử chỉ khiến người xem vô cùng xúc dộng và qua đó gửi đi một thông điệp rõ ràng rằng Nigeria sẽ không xa lánh, phủ nhận các bệnh nhân HIV bởi việc đó chỉ khiến cho nạn dịch AIDS lan rộng hơn mà thôi.
Từ Nigeria, tôi bay tới Arusha, Tanzania, tham dự hội nghị hòa bình Burundi do Nelson Mandela làm chủ tọa. Mandela muốn tôi cùng ông và một vài lãnh đạo châu Phi khác tham gia phiên họp bế mạc để khuyến khích các lãnh đạo nhiều phe phái của Burundi đạt được một thỏa thuận và tránh lặp lại bế tắc như ở Rwanda. Mandela đã hướng dẫn tôi rất rõ ràng: chúng tôi sẽ phải hợp tác ăn ý. Tôi sẽ đọc diễn văn hối thúc họ hãy làm những gì cần thiết, sau đó Mandela sẽ yêu cầu các bên kí vào bản đề xuất của ông. Và chúng tôi đã thành công: Tổng thống Pierre Buyoya và 13 trên 19 phe phái tham chiến đã kí vào bản hiệp định. Sau đó toàn bộ họ đều ký chỉ trừ hai người. Mặc dù đó là một cuộc hành trình khá vất vả, nhưng việc tham dự hội thảo hòa bình Burundi lại là một cách quan trọng giúp tôi chứng minh cho châu Phi và toàn thế giới thấy, Mỹ đúng là một nhà kiến tạo hòa bình. Như tôi từng tự nhủ trước khi bắt đầu hội nghị ở Trại David: "Nếu không thành công thì vẫn cố gắng hết mình".
Ngày 30 tháng 8, tôi bay tới Cartagena, Colombia, cùng với Chủ tịch hạ viện Dennis Hastert, sáu hạ nghị sĩ, thượng nghị sĩ Joe Biden và ba thượng nghị sĩ khác, và một vài thành viên nội các. Chúng tôi muốn củng cố cam kết của Mỹ đối với kế hoạch Columbia của Tổng thống Andrés Pastrana, nhằm truy quét hết những kẻ buôn bán ma túy và bọn khủng bố hiện đang kiểm soát khoảng 1/3 lãnh thổ nước này. Pastrana đã từng mạo hiểm cả tính mạng của mình trong nỗ lực tạo lập hòa bình khi tự mình tới gặp bọn phiến quân ngay tại sào hu,yệt của chúng. Sau khi thất bại, ông đã nhờ đến sự giúp đỡ của Mỹ trong kế hoạch Columbia và với sự ủng hộ mạnh mẽ của Hastert, Quốc hội Mỹ đã dành 1 tỉ đôla cho nhiệm vụ này.
Cartagena là một thành phố xinh đẹp có tường bao quanh. Pastrana đưa chúng tôi dạo qua các con phố, gặp gỡ những nhân viên an ninh đang đấu tranh chống lại bọn buôn lậu ma túy và một số nạn nhân của tình trạng bạo lực, trong đó có người vợ góa của một sĩ quan cảnh sát hi sinh khi làm nhiệm vụ. Anh là một trong hàng trăm con người đã chết cho sự trung thực và quả cảm. Andrés cũng giới thiệu với tôi và Chelsea một nhóm nhạc rất thú vị gồm toàn các nghệ sĩ trẻ tự gọi mình là "Những đứa trẻ của Vallenato", đó là tên ngôi làng ở quê hương họ hiện vẫn đang nằm trong khu vực bạo lực hoành hành Trong trang phục truyền thống, họ hát và khiêu vũ ca ngợi hòa bình và trong buổi tối ấy trên các con phố của Cartagena, Pastrana, Chelsea và tôi đã nhảy với họ.
Vào cuối tuần đầu tháng 9, sau khi phủ quyết dự luật bãi bỏ thuế bất động sản, tuyên bố tôi sẽ nhường quyền quyết định việc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa cho người kế nhiệm, và thực hiện xong một chiến dịch với Hillary tại Hội chợ Tiểu bang New York, tôi tới trụ sở Liên hiệp quốc tham dự Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ. Đây là cuộc nhóm họp lớn nhất từ trước đến nay của các nhà lãnh đạo thế giới. Bài diễn văn cuối cùng của tôi tại Liên hiệp quốc tuy ngắn nhưng tràn đầy cảm xúc kêu gọi sự hợp tác toàn cầu về các vấn đề an ninh, hòa bình và thịnh vượng chung, nhằm xây dựng một thế giới vận hành theo các quy luật đơn giản: "Mỗi cá nhân đều quan trọng, đều có vai trò riêng của mình, và chúng ta sẽ làm được mọi thứ tốt hơn nếu chúng ta giúp đỡ lẫn nhau".
Sau bài diễn văn, tôi đi xuống khán phòng ngồi với Madeleine Albright và Dick Holbrooke để nghe diễn giả tiếp theo là Tổng thống Iran Mohammed Khatami phát biểu. Trong những năm gần đây, Iran đã tiến hành một vài cuộc bầu cử tổng thống, bầu cử quốc hội và bầu cử ở địa phương. Trong mỗi lần ấy phe cải cách luôn thắng từ 2/3 đến 70% số phiếu. Vấn đề ở đây là theo Hiến pháp Iran, có một hội đồng gồm các phần tử hồi giáo chính thống do Ayatollah Sayyed All Khamenei đứng đầu hiện đang nắm quyền lực rất lớn. Họ có quyền bãi bỏ một số đạo luật nào đó và cấm các ứng cử viên ra tranh cử. Họ còn kiểm soát các hoạt động tình báo của Iran và hậu thuẫn cho chủ nghĩa khủng bố. Chúng tôi đã cố gắng tiếp cận Khatami và đẩy mạnh nhiều hơn nữa các mối liên hệ nhân dân với nhân dân. Tôi cũng tuyên bố rõ việc Mỹ ủng hộ lật đổ chính phủ dân cử ở Iran trong những năm 50 là sai trai. Tôi hi vọng thiện chí của tôi sẽ giúp đạt được nhiều tiến bộ hơn dưới thời tổng thống mới.
Kofi Annan và tôi thiết đãi khách một bữa tiệc trưa truyền thống. Sau khi kết thúc, theo lệ thường, tôi đứng ở cạnh bàn của mình, bắt tay với các vị lãnh đạo đi ngang qua bàn tôi. Khi bắt tay với một quan chức của Namibia có khổ người cao lớn, tôi cứ tưởng đã hết khách rồi vì ông ấy che khuất tầm nhìn của tôi. Nhưng khi vị này đi qua, mới lộ ra vị khách cuối cùng đứng phía sau ông ấy là Fidel Castro. Castro đưa tay ra và tôi bắt tay ông. Tôi là tổng thống Mỹ đầu tiên làm như vậy trong hơn 40 năm qua. Ông nói ông không muốn gây phiền phức cho tôi mà chỉ muốn bày tỏ lòng kính trọng trước khi tôi mãn nhiệm. Tôi trả lời rằng tôi hi vọng một ngày nào đó hai nước sẽ hòa giải thực sự.
Sau các cuộc họp của Liên hiệp quốc là một loạt các sự kiện: tổ chức OPEC công bố tăng sản lượng dầu thêm 800.000 thùng một ngày; Thủ tướng Ấn Độ Vajpayee có chuyến thăm chính thức đến Washington; và vào ngày 19 tháng 9, tiếp theo hạ viện, thượng viện đã thông qua dự luật trao quy chế thương mại bình thường cho Trung Quốc, mở đường cho quốc gia này gia nhập WTO. Tôi tin tưởng đây sẽ là chính sách ngoại giao quan trọng nhất trong suốt hai nhiệm kỳ tổng thống kéo dài tám năm của tôi.
Hillary đã có một tháng 9 khá thành công. Cô ấy chiến thắng ở vòng tuyển chọn ứng cử viên vào ngày 20 và nhanh chóng đánh bại Lazio trong cuộc tranh luận tại Buffalo do Tim Russert điều hành. Lazio vấp phải ba vấn đề: thứ nhất, ông tuyên bố tình trạng kinh tế vốn vẫn đang đình đốn của New York đã được cải thiện; thứ hai, ông thực hiện một chương trình quảng cáo tranh cử khiến người xem hiểu lầm thượng nghị sĩ Moynihan ủng hộ ông chứ không ủng hộ Hillary (chính vì điều này mà ông đã phải bị yêu cầu phải đưa ra lời giải thích), và cuối cùng, ông đã làm khó cho Hillary, cố buộc cô ấy phải kí vào một cam kết bất hợp lý về tài chính cho chiến dịch tranh cử. Tất cả những gì Hillary phải làm là giữ bình tĩnh và ứng phó với các câu hỏi, và cô ấy đã làm rất tốt. Một tuần sau, một cuộc trứng cầu dân ý mới cho thấy Hillary dẫn trước Lazio với tỉ lệ 48/39% do giành được thêm sự ủng hộ từ những người phụ nữ ở khu vực ngoại ô.
Ngày 16 tháng 9, trong bữa tối của Nhóm họp kín Nghị sĩ Da đen, trước đông đảo những người Mỹ gốc Phi, tôi có bài phát biểu từ biệt xúc động, nhìn lại các thành tích đã đạt được, ủng hộ Gore và Lieberman, đồng thời kêu gọi họ ủng hộ các vị thẩm phán da màu, mặc dù có năng lực nhưng vẫn chưa được công nhận. Sau đó tôi bỏ bài phát biểu sang một bên và kết thúc bằng những lời sau đây:
Từ đáy lòng tôi cảm ơn các bạn. Toni Morrison đã từng nói tôi là vị tổng thống ủng hộ người da đen đầu tiên mà nước Mỹ có được. Và tôi thà nhận lời khen đó còn hơn nhận giải Nobel và tôi sẽ nói cho các bạn vì sao. Bởi vì ở đâu đó, trong chuỗi kí ức già nua và có phần đã mai một của tôi ẩn náu nguyên nhân của điều các bạn đã biết. Ở đâu đó vẫn lẩn khuất nỗi khát khao mong mỏi được sẻ chia với số phận của những con người khổ đau, bị đẩy ra ngoài cuộc đời, bị đánh đập tàn ác và thường bị hắt hủi hay quên lãng.
Tôi không biết chính xác được tất cả những người mà tôi phải nói lời cám ơn. Nhưng tôi chắc rằng tôi không đáng để nhận lời khen ấy, bởi mỗi việc tôi làm tôi thực sự cảm thấy mình không thể làm khác.
Vài ngày sau, ngày 20 tháng 9 tôi lại có một bài phát biểu tương tự tại bữa tối của Nhóm họp kín Nghị sĩ gốc nói tiếng Tây Ban Nha, và tại Đại hội của Hội thánh Đức Chúa Trời. Tại đây, tôi nhấn mạnh rằng tôi chỉ còn 120 ngày tại nhiệm, và rằng trong 120 ngày ấy tôi sẽ làm việc hết mình với quốc hội và cô" gắng tái thiết hòa bình ở Trung Đông. Tôi biết tôi sẽ có một cơ hội giành được thêm vài thắng lợi vì lúc này quốc hội đã có phần dễ dãi hơn, nhưng tôi không chắc lắm về vấn đề Trung Đông.
Vài ngày sau, cùng với nhóm cố vấn kinh tế của mình, tôi eông bố rằng năm ngoái thu nhập bình quân của người dân trong nước đã tăng hơn 1.000 đô la, lần đầu tiên trong lịch sử lên tới hơn 40.000 đôla, và rằng số người Mỹ không có bảo hiểm y tế đã giảm 1,7 triệu người, mức giảm đáng kể đầu tiên trong vòng 12 năm qua.
Ngày 25 tháng 9, sau nhiều tuần chúng tôi nỗ lực nối lại vòng đàm phán hòa bình, Barak đã mời Arafat tới nhà ông ăn tối. Gần cuối bữa ăn, tôi gọi điện và có cuộc nói chuyện vui vẻ với cả hai người. Ngày hôm sau, cả hai phía đều phái các nhà thương thuyết tới Washington để tiếp tục bàn thảo những vấn đề họ bỏ dở ở Trại David. Sang đến ngày 28, mọi thứ đã thay đổi khi Ariel Sharon trở thành nhà lãnh đạo Israel đầu tiên đến Núi Đền kể từ khi nơi này bị Israel chiếm đóng trong cuộc chiến năm 1967. Hồi ấy, Moshe Dayan đã nói rằng cần phải tôn trọng các vùng đất thiêng liêng của Hồi giáo và từ đó trở đi, ngọn núi này đã nằm trong tầm kiểm soát của người Hồi giáo.
Arafat cho biết ông đã yêu cầu Barak ngăn cản chuyến đi của Sharon vì rõ ràng mục đích của ông ta là muốn khẳng định chủ quyền của Israel đối với khu vực này, đồng thời củng cố quyền lực của mình trước thách thức từ phía đảng Likud của cựu thủ tướng Netanyahu, khi mà ông này hiện có vẻ còn hiếu chiến hơn cả Sharon. Tôi cũng từng hi vọng Barak sẽ ngăn cản được hành động khiêu khích này của Sharon, nhưng Barak nói với tôi ông không làm được. Thay vào đó, Sharon không được bước vào thánh đường Đá, còn gọi là Thánh đường Al-Aqsa, và được số đống cảnh sát vũ trang hộ tống tới Núi Đền.
Tôi và các thành viên khác trong nhóm chúng tôi hối thúc Arafat ngăn chặn bạo lực xảy ra. Đó là cơ hội ngàn năm có một giúp người Palestine tránh bị khiêu khích. Tôi nghĩ lẽ ra Sharon phải được trẻ em Palestine chào đón bằng hoa và nói với ông ta rằng khi nào Núi Đền nằm trong quyền kiểm soát của Palestine thì ông ấy sẽ chào đón bất cứ lúc nào. Nhưng như nhận xét của Abba Eban từ lâu, người Palestine không bao giờ bỏ lỡ một dịp bỏ lỡ cơ hội. Ngày hôm sau người Palestine biểu tình lớn gần Bức tường phía Tây và cảnh sát Israel bắn đạn cao su vào những người ném đá và những người khác. ít nhất năm người đã thiệt mạng và hàng trăm người khác bị thương. Trong tình trạng bạo lực kéo dài, qua màn ảnh tivi, người ta nhìn thấy hai cảnh tượng về nỗi đau và sự vô nghĩa của chiến tranh: đó là hình ảnh một cậu bé 12 tuổi người Palestine bị kẹt trong làn đạn và chết trên tay cha mình, và hai lính Israel được lôi ra từ một tòa nhà, bị đánh đập cho đến chết, thi thể bị kéo lê trên các ngả đường, còn một trong những kẻ đã tấn công họ giơ bàn tay nhuốm máu ra trước ống kính truyền hình cho cả thế giới xem.
Trong khi Trung Đông bùng nổ, ở Balkan tình hình lại có tiến triển. Trong tuần cuối cùng của tháng 9, Slobodan Milosevic bị Vojislav Kostunica đánh bại trong cuộc bầu cử tổng thống ở Serbia. Trong chiến dịch tranh cử ấy, chúng tôi giúp đảm bảo cuộc bầu cử diễn ra công bằng, và Kostunica có thể truyền đi thông điệp của mình. Milosevic đã cố gắng thắng cử bằng mọi thủ đoạn nhưng những cuộc biểu tình rầm rộ đã buộc ông ta phải tin rằng ông ta không thể đạt được mục đích và cuối cùng, vào ngày 6 tháng 10, kẻ khởi xướng cho các vụ tàn sát ở Balkan đã phải thừa nhận thất bại.
Đầu tháng 10, tôi tổ chức một cuộc họp ở Phòng Nội các dành cho những người ủng hộ sáng kiến xóa nợ. Mục sư Pat Robertson cũng có mặt. Sự ủng hộ mạnh mẽ của ông và của cộng đồng Tin Lành cho thấy sự ủng hộ chương trình xóa nợ này đã ngày càng trở nên sâu rộng như thế nào. Tại hạ viện, nỗ lực này còn được thúc đẩy bởi Maxine Waters một trong những thành viên cấp tiến nhất của chúng tôi, và John Kasich - Chủ tịch ủy ban Ngân sách theo phe bảo thủ. Ngay cả Jesse Helms cũng ủng hộ sáng kiến này, phần lớn là nhờ công thuyết phục của Bono. Kết quả ban đầu là rất đáng khích lệ: Bolivia đã chi 77 triệu đôla cho giáo dục và y tế; Uganda thì tăng gấp đôi tỉ lệ trẻ em học tiểu học, còn Honduras thì nâng được số năm học bắt buộc từ sáu năm lên chín năm. Tôi muốn được đóng góp nốt thông qua bản thỏa thuận ngân sách cuối cùng.
Vào tuần thứ hai trong tháng, Hillary lại giành được thắng lợi trong cuộc tranh luận thứ hai với Rick Lazio. Tôi kí phê chuẩn dự luật thương mại với Trung Quốc và gửi lời cảm ơn đến Charlene Barshefsky và Gene Sperling vì chuyến công du vất vả của họ tới Trung Quốc nhằm đạt được thỏa thuận của chúng tôi vào giờ đàm phán thứ mười một. Tôi cũng ký thành luật Sáng kiến Di sản Đất và các khoản đầu tư mới cho cộng đồng người da đỏ. Và vào ngày 11 tháng 10, tôi gặp Hillary ở Chappaqua để tổ chức lễ kỉ niệm 25 năm ngày cưới. Tôi có cảm giác mọi chuyện như vừa mới hôm qua khi chúng tôi còn trẻ và đang ở thuở ban đầu. Giờ thì con gái chúng tôi đã sắp ra trường và nhiệm kì tổng thống cũng sắp hết. Tôi tin rằng Hillary sẽ giành thắng lợi trong cuộc đua vào thượng viện, và tôi cũng rất lạc quan về tương lai của chúng tôi.
Những hồi tưởng trong thoáng chốc của tôi chấm dứt vào ngày hôm sau, khi một chiếc thuyền nhỏ chất đầy thuốc nổ tung cạnh tàu USS Cole ở cảng Aden, Yemen. 17 thủy thủ đã thiệt mạng trong cuộc tấn công mà rõ ràng là do bọn khủng bố tiến hành. Tất cả chúng tôi đều nghĩ đó là do Bin Laden và Al Qaeda, nhưng cũng chưa chắc lắm.
CIA đã vào cuộc, còn tôi thì cử các quan chức từ Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao và FBI tới Yemen. Tổng thống Yemen Ali Saleh đã hứa sẽ hợp tác toàn diện với chúng tôi trong cuộc điều tra đưa những kẻ giết người ra ánh sáng.
Trong khi đó, tôi tiếp tục hối thúc Lầu năm góc và bộ phận an ninh quốc gia của tôi phải có nhiều giải pháp hơn nhằm truy bắt Bin Laden. Chúng tôi suýt nữa mở một cuộc tấn công bằng tên lửa trong tháng 10 nhắm vào hắn ta, nhưng đến phút chót CIA lại khuyên chúng tôi hủy bỏ vì tin rằng những chứng cứ chứng minh sự hiện diện của Bin Laden trong vụ này là không đủ xác thực. Lầu năm góc góp ý kiến không nên đưa lực lượng đặc nhiệm tới Afghanistan do e ngại những khó khăn về mặt hậu cần trừ phi chúng tôi có thêm được thông tin tình báo đáng tin cậy về nơi ẩn náu của Bin Laden. Thế là lại xuất hiện những phương án quân sự quan trọng hơn: tung ra chiến dịch đánh bom trên quy mô lớn vào tất cả các điểm cắm trại tình nghi hoặc tiến hành các cuộc tấn công lớn. Tôi nghĩ cả hai phương án này đều không khả thi nếu như không tìm được chứng cứ về trách nhiệm của Al Qaeda trong vụ nổ tàu Cole. Tôi rất ấm ức và hi vọng rằng trước khi tôi mãn nhiệm, chúng tôi có thể tìm ra nơi ẩn náu của Bin Laden để có thể tiến hành cuộc tấn công bằng tên lửa.
Sau khi đi vận động ở Colorado và Washington, tôi bay đến Sharmel- Sheikh ở Ai Cập để dự Hội nghị thượng đỉnh về vấn đề bạo lực ở Trung Đông với Tổng thống Mubarak, Vua Abdullah, Kofi Annan và Javier Solana, lúc đó đã là Tổng thư kí của Liên minh châu Âu. Tất cả đều mong muốn chấm dứt tình trạng bạo lực. Thái tử Ảrập Xêút Abdullah không đến dự hội nghị nhưng cũng rất quan tâm đến vấn đề này và hoàn toàn đồng tình với quan điểm đó. Barak và Arafat thì có mặt, nhưng có lẽ hai vị có lập trường đối lập nhau. Barak muốn chấm dứt tình trạng bạo lực, còn Arafat thì yêu cầu cần phải tiến hành một cuộc điều tra đối với việc lạm dụng bạo lực của quân đội và cảnh sát Israel. George Tenet vạch ra một kế hoạch an ninh cho cả hai bên. Tôi phải thuyết phục cả Barak và Arafat về bản kế hoạch này cùng với một bản tuyên bố mà tôi sẽ đọc trong lễ bế mạc hội nghị.
Tôi nói với Arafat rằng tôi muốn đưa ra một kiến nghị để giải quyết các khúc mắc trong tiến trình đàm phán hòa bình, nhưng trước hết ông ấy phải chấp nhận kế hoạch an ninh. Hòa bình sẽ không thể được thiết lập chừng nào mà bạo lực vẫn chưa bị dập tắt. Và Arafat đã đồng ý. Chúng tôi cùng bàn bạc đến tận sáng sớm hôm sau để thảo ra một thông cáo chung mà tôi sẽ công bố với tư cách là đại diện của tất cả các bên. Bản thông cáo này bao gồm ba phần: một là cam kết nhằm chấm dứt bạo lực, hai là thành lập một ủy ban tìm kiếm sự thật nhằm điều tra về nguyên nhân dẫn tới bùng nổ chiến sự cũng như trách nhiệm của các bên, ủy ban này sẽ do Mỹ, Israel và Palestine chỉ định với sự tham vấn của ông Kofi Annan, và cuối cùng là một cam kết về việc đẩy mạnh tiến trình đàm phán hòa bình. Điều này nghe có vẻ thật đơn giản, nhưng thực tế thì không phải như vậy. Arafat muốn ủy ban này phải do Liên hiệp quốc lập ra, và tiến trình đàm phán hòa bình phải được nối lại ngay, trong khi Barak lại đòi một ủy ban của Mỹ và cần thêm thời gian để xem liệu bạo lực có thể lắng xuống hay không. Cuối cùng Mubarak và tôi phải có một cuộc gặp mặt riêng với Arafat để thuyết phục ông ta chấp nhận bản thông cáo. Có lẽ tôi không thể nào làm được như vậy nếu không có Mubarak. Tôi tưởng ông ta không muốn dính líu quá sâu vào tiến trình hòa bình, nhưng tối hôm đó, ông ấy mạnh mẽ rõ ràng và rất hiệu quả.
Khi trở về Mỹ, Hillary, Chelsea và tôi đến Norfolk, Viginia để tham dự lễ tưởng niệm những nạn nhân trong vụ đánh bom tàu USS Cole và gặp riêng các gia đình nạn nhân. Cũng giống như các binh sĩ không quân ở Khobar Towers, những người lính thủy của chúng tôi đã bị thiệt mạng trong một kiểu xung đột mà họ chưa hề được rèn luyện để có thể đối đầu. Trong trận chiến này, kẻ thù của chúng tôi thoắt ẩn thoắt hiện, và tất cả mọi người đều có thể trở thành mục tiêu. Kho khí tài khổng lồ của chúng tôi không ngăn chặn được, và sự cởi mở cũng như công nghệ thông tin của thế giới hiện đại được sử dụng chống lại chúng tôi. Dù biết rằng thế nào chúng tôi cũng giành chiến thắng trong cuộc chiến với Osama Bin Laden, nhưng tôi không biết sẽ có bao nhiêu người vô tội phải bỏ mạng trước khi chúng tôi có thể tìm ra biện pháp giải quyết.
Sau đó hai ngày, Hillary, tôi cùng với vợ chồng Al Gore đến thành phố Jefferson, bang Missouri để tham dự lễ tưởng niệm thống đốc bang Mel Carnahan, con trai ông và một sĩ quan phụ tá đã thiệt mạng trong một tai nạn máy bay. Carnahan và tôi trở nên thân thiết kể từ khi ông ủng hộ tôi trong chiến dịch tranh cử hồi năm 1992. Ông là một thống đốc tài năng, luôn đi đầu trong cuộc cải cách phúc lợi xã hội. Ông qua đời vào đúng lúc mà cuộc chạy đua vào thượng viện đang đến hồi căng thẳng. Đối thủ của ông chính là thượng nghị sĩ đương nhiệm lúc bây giờ là John Ashcroft. Nhưng vì lúc đó đã quá muộn để có thể đề cử thêm người khác nên mấy ngày sau, phu nhân của Mel Carnahan là bà Jean Carnahan đã phát biểu, bà sẽ gánh vác trọng trách thay chồng mình nếu như người dân Missouri bầu cho ông. Người dân đã chọn Mel và Jean đã làm vĩệc xuất sắc.
Vào những ngày cuối tháng 10 khi cuộc bầu cử tổng thống tới gần, tôi ký hiệp định thương mại với Quốc vương Abdullah của Jordan, và vẫn tiếp tục ký thông qua hoặc phủ quyết các dự luật, đồng thời vận động tranh cử ở các bang Indiana, Kentucky, Massachusetts và New York, là những nơi mà tôi tham dự nhiều sự kiện cho Hillary. Nhưng thú vị nhất vẫn là ngày sinh nhật của tôi. Hôm đó, Robert De Niro hướng dẫn tôi cách nói thế nào cho giống một người New York chính cống.
Kể từ sau đại hội, Al Gore đưa ra khẩu hiệu cho chiến dịch tranh cử của mình là "cuộc chiến giữa dân thường và những kẻ có thế lực". Quả đúng như vậy bởi tất cả các nhóm lợi ích của phe bảo thủ như ngành bảo hiểm y tế, các công ty thuốc lá, các ngành gây ô nhiễm trầm trọng, NRA... đều ủng hộ Thống đốc Bush. Điểm hạn chế của khẩu hiệu trên là nó không nhấn mạnh hết những đột phá về mặt kinh tế cũng như phúc lợi xã hội đã đạt được trong thời gian qua và nêu bật việc ông Bush rất có thể xóa bỏ hết những thành tựu đó. Đối với các cử tri vẫn còn lưỡng lự thì có vẻ như Al Gore sẽ thay đổi đường lối phát triển kinh tế tương lai. Chính vì thế mà đến cuối tháng đó, Al Gore đã chuyển khẩu hiệu thành "Đừng đặt sự thịnh vượng vào vòng nguy hiểm". Và tính tới ngày 1 tháng 11, dù vẫn còn thua bốn điểm nhưng vị trí của Al Gore đã được cải thiện trong các cuộc trưng cầu.
Vào tuần cuối cùng của chiến dịch tranh cử, theo đề nghị của Thông đốc Gray Davis, tôi đến California hai ngày để vận động cho liên danh đảng chúng tôi và các ứng cử viên của chúng tôi vào quốc hội, sau đó tham dự sự kiện lớn cho Hillary ở Harlem và về ArkansJ hôm chủ nhật để vận động cho Mike Ross. Anh ấy đã từng làm tài xế cho tôi trong lần vận động tranh cử chức thống đốc vào năm 1982 và hiện đang chạy đua với nghị sĩ đảng Cộng hòa là Jay Dickey.
Trong suốt ngày hôm trước và ngày bầu cử, tôi tham gia hơn 6 cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh trên toàn quốc để kêu gọi người dân bỏ phiếu cho Al Gore và Joe cũng như các thành viên đảng Dân chủ khác. Tôi thậm chí đã thu 170 đoạn quảng cáo trên đài và tin nhắn điện thoại để gửi đến các gia đình theo đảng Dân chủ và những người thuộc thiểu số để thúc giục họ bầu cho các ứng viên của chúng tôi.
Vào ngày bầu cử, Hillary, Chelsea và tôi đi bỏ phiếu tại điểm bỏ phiếu ở Chappaqua là trường Tiểu học Douglas Grafflin. Đó là kỷ niệm vừa vui vừa lạ. Lạ bởi vì đây là nơi duy nhất ngoài Arkansas tôi từng đến bỏ phiếu và sau 26 năm tham gia chính trường tôi không có tên trên phiếu bầu. Và đó cũng là kỷ niệm rất vui vì tôi đã bầu cho Hillary. Chelsea và tôi bỏ phiếu đầu tiên rồi sau đó ôm nhau trong khi nhìn Hillary kéo tấm rèm và bỏ phiếu cho chính mình.
Đêm bầu cử đầy kịch tính. Hillary giành chiến thắng với tỉ lệ phiếil bầu 55-43, cao hơn rất nhiều so với kết quả thăm dò ý kiến trước. Tôi rất tự hào về cô ấy. New York thử thách cô ấy cũng giống như đã làm với tôi hồi năm 1992. Tỉ lệ ủng hộ cô ấy cứ tăng, giảm, rồi lại tăng lên nhưng cô ấy vẫn kiên cường tiến lên phía trước.
Trong khi chúng tôi ăn mừng chiến thắng của Hillary tại khách sạn Grant Hyatt ở New York thì Bush và Gore đang cạnh tranh nhau với kết quả sát nút. Mọi người đều biết từ trước rằng cuộc bầu cử này sẽ rất sít sao, và nhiều nhà bình luận cho rằng Gore có thể thua phiếu phổ thông nhưng vẫn có thể thắng nhờ phiếu đại cử tri. Hai ngày trước cuộc bầu cử, khi tôi nhìn lên bản đồ, theo dõi các cuộc thăm dò ý kiến mới nhất và đã nói với Steve Ricchetti là tôi sợ tình hình sẽ ngược lại. Các cử tri chủ chốt của chúng tôi sẽ tích cực tham gia cuộc bầu cử không kém gì các cử tri theo đảng Cộng hòa - những người đang muốn giành lại Nhà Trắng. Al Gore sẽ giành chiến thắng ở các bang lớn với số phiếu rất nhưng Bush sẽ chiếm ưu thế ở các bang nhỏ ở khu vực nông thôn và họ có lợi thế về cử tri đoàn vì mỗi tiểu bang được một phiếu đại cử tri cho mỗi thành viên hạ viện, cộng thêm hai phiếu nữa cho thượng viện. Đến ngày đi bầu tôi vẫn cho rằng Al Gore sẽ giành chiến thắng cuối cùng vì anh ấy đang có đà và đúng về các vấn đề đặt ra khi tranh cử.
Đúng là Gore thắng với chênh lệch hơn 500.000 phiếu phổ thông, nhưng phiếu đại cử tri thì vẫn chưa chắc chắn. Cuộc chạy đua cuối cùng gút lại ở Florida, sau khi Gore giành chiến thắng sít sao với chênh lệch 366 phiếu ở bang New Mexico - một trong những bang mà kết quả lẽ ra còn sít sao hơn nếu như Ralph Nader không tham gia cuộc đua. Tôi đề nghị Bill Richarson ở lại Mexico trong tuần cuối cùng trước ngày bầu cử và có lẽ chính ông ấy đã đem lại chiến thắng này.