Chương 2 Tình Hình Đông Dương Khi Tôi Đến.
Bạn đọc sẽ không hiểu rõ tình hình ở Đông Dương khi tôi đến Việt Nam nếu không có một cái nhìn lướt qua về quá khứ.
SỰ TRỞ LẠI ĐÔNG DƯƠNG CỦA NGUỜl PHÁP
Những đảng phái quốc gia chống Pháp, với các khuynh hướng chính trị khác nhau, đã luôn xuất hiện ngay từ khi Pháp chiếm đóng Việt Nam.
Các đảng này phát triển rất nhiều trong khoảng thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, và nhiều lần gây ra những biến động nghiêm trọng, nhất là vào năm 1930 ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.
Sự thất bại của chúng ta vào năm 1940, và nhất là cuộc chiếm đóng của Nhật Bản tiếp sau đó, đã làm mất đi uy thế của nước Pháp một cách nghiêm trọng. Bên dưới một trật tự bên ngoài mà đô đốc Decoux tạo ra là một sự âm ỉ các cuộc nổi dậy. Hầu hết các đảng phái theo chủ nghĩa quốc gia đều đã giữ một thái độ “chống đối” cả hai “kẻ chiếm đóng” họ đều xem là kẻ thù như nhau: “Những người Pháp Vichy” và những người Nhật. Bị săn đuổi ráo riết, lãnh đạo của họ đều ẩn náu tại các tỉnh của Trung Quốc dọc theo biên giới Bắc Bộ.
Lúc đầu, họ kình chống nhau, nhưng năm 1941 các đảng phái này đoàn kết lại với nhau để tạo thành một mặt trận “nhân dân”, liên minh để giành độc lập cho Việt Nam (Việt Nam Độc lập đồng minh hội, viết tắt là Việt Minh). Cũng như trong tất cả các tổ chức hình thành như thế này, những người cực đoan nhất nắm quyền lãnh đạo: đó là Đảng Cộng sản Đông Dương, mà người lãnh đạo là nhà cách mạng kỳ cựu Nguyễn Ái Quốc, được biết nhiều đến với tên là Hồ Chí Minh, được công bố là Chủ tịch của Liên minh này.
Việt Minh xây dựng một chương trình hành động, nhằm mục đích loại trừ người Pháp, bắt đầu việc “dân chủ hoá” Đông Dương, nhưng vẫn giữ các mối liên hệ tạm thời với Trung Hoa và Mỹ.
Một phái bộ bí mật của Việt Minh đóng ngay trên lãnh thổ Đông Dương, trong vùng Thái Nguyên (cách Hà Nội 100 cây số về phía bắc), chỉ huy nhiều chi bộ để hoạt động trên khắp đất nước và hàng ngàn quân du kích, hoạt động chủ yếu trong vùng Trung du Bắc Bộ.
Người Mỹ và người Anh đã liên hệ với Việt Minh cũng như với tất cả các phong trào kháng chiến khác, thả dù vũ khí và đạn dược cho họ.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính. Họ tước bỏ quyền cai trị của người Pháp ở Đông Dương. Bị quân đội Nhật bắt hoặc phải chạy trốn, những người Pháp trong bộ máy cai trị biến khỏi chính trường. Quân đội chúng ta do bị tràn ngập về quân số, đã phải chịu thất thủ mặc dù có chống trả quyết liệt. Một số bị giam giữ ngay tại chỗ, và nhiều nơi tù binh Pháp còn bị tàn sát. Một nhóm khác (khoảng 5000 quân dưới sự chỉ huy của tướng Alessandri) rút chạy về miền Nam Trung Hoa và ẩn náu tại đấy.
Hoàng đế Bảo Đại, là người được Pháp bảo hộ vào thời điểm nói trên đã tuyên bố độc lập cho Việt Nam, gồm ba kỳ (Bắc, Trung, Nam) và bãi bỏ tất cả những gì tượng trưng cho quá khứ của người Pháp.
Việt Minh có được một địa bàn hoạt động thuận lợi. Mặc dù vẫn hoạt động trong bí mật, nhưng nhờ các cơ sở, họ chiếm được một phần lớn các vị trí trong chính quyền của nhà vua, họ phát triển nhanh chóng trên cả nước Việt Nam, nhất là ở thượng du Bắc Bộ. Mục đích của họ rất rõ: ngay sau sự sụp đổ của Nhật, được nhận định là rất gần kề, sẽ tranh thủ chiếm chính quyền.
Vận dụng các sách lược một cách khéo léo và tài tình, họ không chỉ có được sự giúp đỡ ngày càng gia tăng của người Mỹ, mà còn cả sự ủng hộ của chính phủ lâm thời Pháp. Để có được sự thiện cảm của người Mỹ, họ tự thể hiện mình như là một phong trào quốc gia, vừa là đối thủ của Nhật vừa chống lại Chủ nghĩa Thực dân Pháp. Để tranh thủ những “người Pháp mới” (một danh từ ở Đông Dương để chỉ tất cả những gì không phải thuộc Chính phủ Vichy), họ hứa hẹn một sự hợp tác của Việt Nam với một nước Pháp đổi mới. Họ lừa phỉnh cả hai phía. Sự thù địch người Nhật chỉ thể hiện bằng những cuộc chống đối hời hợt nhưng cũng đã lừa được người Mỹ. Và mối thiện cảm của Việt Minh đối với nước Pháp mới vẫn không ngăn cản họ kích động tinh thần chống Pháp của dân chúng bằng mọi phương tiện có thể có được.
o O o
Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản đầu hàng. Ngay lập tức Chính phủ Hồ Chí Minh nắm quyền ở Hà Nội, vài ngày sau chiếm được chính quyền trên phạm vi cả nước. Hoàng đế Bảo Đại thoái vị, trở thành ông Vĩnh Thụy, cố vấn tối cao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Theo thỏa thuận đạt được giữa các nước Đồng minh nhưng không có ý kiến của nước Pháp, việc tước vũ khí quân đội Nhật và tái lập lại trật tự ở Đông Dương được giao cho quân đội Anh từ phía nam vĩ tuyến thứ 16, quân đội Trung Hoa Tưởng Cliới Thạch ở phía Bắc. Sau đó cả hai sẽ được giao lại cho người Pháp.
Tình hình trong hai vùng diễn biến rất khác nhau.
Ở phía nam vĩ tuyến thứ 16, cuộc tiến quân của quân đội Anh và sau đó của quân Viễn chinh Pháp dưới quyền của tướng Leclerc đã nhanh chóng chiếm lại các vùng lãnh thổ, đẩy các tổ chức và bộ đội Việt Minh vào hoạt động bí mật. Các thành phố lớn đều rơi vào tay chúng ta còn Việt Minh thì rút về các vùng hiểm trở, vùng rừng núi, nơi họ lập ra các căn cứ để hoạt động du kích chống lại ta. Có một sự việc tối quan trọng và có ảnh hưởng nặng nề về sau là, họ vẫn giữ một vùng đất quan trọng, trải dài 300 cây số từ Vũng Rô (Cap Varella) đến sông Hội An (Faifoo), phía nam Đà Nẵng. Do thiếu thốn về phương tiện, chúng ta đã không tái chiếm được.
Ở phía bắc vĩ tuyến 16, người Trung Hoa, vì rất muốn chiếm lại vĩnh viễn vị trí của chúng ta ở Đông Dương, nơi họ đã từng thống trị trong vòng một ngàn năm vẫn để cho Việt Minh duy trì thủ đô ở Hà Nội, và khuyến khích họ đối xử với Pháp trên danh nghĩa một quốc gia độc lập.
Trong nhiều tháng, chúng ta không thể nào tái lập lại sự kiểm soát ở Bắc Bộ, bắc Trung Bộ. Những người lãnh đạo Trung Hoa cũng như Việt Nam đã dùng mọi cách sỉ nhục người Pháp; cả hai đều được sự hỗ trợ của người Mỹ, đang cương quyết phản đối việc tái lập “sự thống trị thực dân” của chúng ta, sự trở lại của Chủ nghĩa Thực dân1. Cao ủy của nước cộng hòa Pháp là Sainteny, dù đã đến Hà Nội vài ngày sau khi Nhật Bản đầu hàng, nhưng không hề được ai công nhận. Quân đội chúng ta, kể cả những đơn vị bị Nhật giam giữ tại chỗ, trên nguyên tắc đã được trả tự do, và những đơn vị từng tạm rút lui về phía nam Trung Hoa, không được phép xuất đầu lộ diện.
Người Nhật, tuy bị bắt buộc phải giao nộp vũ khí, nhưng họ lại muốn chuyển quyền lại cho Việt Minh, những người anh em châu Á của họ, mà chính họ cũng mong muốn các người anh em này tiếp tục cuộc chiến tranh để giành lại châu Á cho người châu Á, hơn là cho người da trắng, dù những người da trắng đó là ai. Rất nhiều người Nhật thậm chí đã đi theo Việt Minh, họ làm việc như là những chuyên gia.
Ý đồ sâu xa của người Trung Hoa đối với Đông Dương, tinh thần ái quốc của Việt Minh, tinh thần sắc tộc của người Nhật, và ý tưởng chống lại Chủ nghĩa Thực dân của Mỹ, tất cả đều chống chúng ta.
Nhưng việc trở lại Đông Dương của chúng ta lại còn vướng phải những bất đồng ở nội bộ bên trong nước Pháp. Những rối ren ở Pháp đi kèm theo cuộc giải phóng đất nước khỏi tay phát xít Đức đã có các ảnh hưởng đến tình hình Việt Nam qua sự đối đầu giữa những nhóm người Pháp thù địch với nhau. Dĩ nhiên không thể để đô đốc Decoux ở lại cương vị cũ vì ông ta có đôi chút tài năng nhưng lại đã “mất mặt” trước người Nhật. Dù vậy, đối xử với ông ta một cách tồi tệ như người kế nhiệm đã làm, thực ra là gây tổn thương cho uy tín nước Pháp. Mặt khác, việc thanh lọc bộ máy cai trị - dưới danh nghĩa thanh lọc những phần tử “theo Vichy” - cũng không đúng lúc vì nó loại mất một số quan chức cai trị am hiểu nước này, thay vào đó bằng quá nhiều “người kháng chiến” - thật có mà giả cũng có - là những người hoàn toàn không am hiểu gì. Sự can dự của nền chính trị Pháp, có một ảnh hưởng rất lớn về sau, bắt đầu được thể hiện.
o O o
Chúng ta đã trả một giá rất đắt để quân đội của Tưởng Giới Thạch rút đi và tiến hành các cuộc thương lượng kéo dài với Việt Minh để quân đội ta tái chiếm lại Bắc Bộ. Một bản Hiệp định được ký ngày 6 tháng 3 năm 1946. Chúng ta công nhận Việt Nam như là “một quốc gia tự do, có quốc hội, Quân đội và Tài chính, nằm trong Liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp”. Để đổi lại chúng ta được phép thay thế toàn bộ 200.000 quân Tưởng Giới Thạch đóng ở phía bắc vĩ tuyến 16 bằng một lực lượng của ta gồm 15.000 quân, kể cả các lực lượng đang có mặt tại chỗ.
Ngày 18 tháng 3, để thực thi hiệp định này, tướng Leclerc tiến quân vào Hà Nội, sau khi phải nổ súng để đổ bộ vào Hải Phòng.
Một thời kỳ mới đã mở ra, khi ta tìm cách thiết lập với Việt Minh một tạm ước.
Chính phủ Hồ Chí Minh trung thực đến mức độ nào trong ý muốn hợp tác? Về phía ta, chúng ta có làm hết sức để đi đến một giải pháp chưa? Nhưng vấn đề tranh cãi không phải là ở đây.
Vấn đề là, trong bất cứ tình huống nào, chúng ta phải có một chính sách rõ ràng về Đông Dương. Có quá nhiều sự kiện đã diễn ra nên rất khó có thể thực hiện mọi chuyện như hồi năm 1939. Nhưng đó lại là chính sách duy nhất mà đô đốc Argenlieu và phái đoàn của ông dự kiến thực hiện. Một số người khác, kể cả tướng Leclerc, nhận thức phải có sự đổi mới. Đứng giữa hai khuynh hướng trên, Chính phủ Pháp không lựa chọn dứt khoát một giải pháp nào cả.
Các cuộc thương thuyết được bắt đầu tại Đà Lạt và kết thúc tại Fontainebleau. Sau hai tháng thương lượng, kết quả đạt được là một sự thất bại mà người ta cố che giấu bằng “Tạm ước” ký ngày 14 tháng 9 năm 1946. Về thực chất, tạm ước này không giải quyết được một vấn đề gì.
Tình hình trở nên căng thẳng hơn từng ngày giữa ta và Chính phủ Hồ Chí Minh, cho đến ngày 19 tháng 12 năm 1946, Việt Minh mở một cuộc tiến công bất ngờ vào chúng ta và cuộc chiến tranh Đông Dương bắt đầu nổ ra.
CUỘC CHIẾN TRANH
Tường thuật lại một cuộc chiến tranh kéo dài bảy năm chỉ trong vòng vài trang là một việc không thể làm được. Tuy nhiên tôi có thể ghi lại một số giai đoạn chủ yếu về diễn biến của cuộc chiến.
o O o
Giai đoạn đầu tiên kéo dài qua các năm 1947, 1948, 1949. Trong thời gian này, chúng ta tìm cách chiếm lại từ Việt Minh các lãnh thổ họ chiếm giữ nhưng họ chưa củng cố được một cách vững chắc. Việc này có thể thành công một cách mỹ mãn nếu như có một chính sách rõ ràng, nếu như có sự kiên định thống nhất trong công tác chỉ huy, và nhất là đảm bảo có đủ các phương tiện chiến tranh khi cuộc chiến bắt đầu.
Không có một điều kiện nào trong các điều kiện nói trên được đáp ứng, vì sự chống đối tuyệt đối của không khí chính trị ở Pháp. Về mặt pháp lý, chúng ta không ở trong tình trạng chiến tranh. Các đảng viên Cộng sản (Pháp) ngay từ lúc này đã tích cực bênh vực Việt Minh. Cuộc chiến tranh Đông Dương, đối với họ là một “cuộc chiến tranh bẩn thỉu”. Còn đối với những người khác, đây là một “cuộc chiến tranh nhục nhã”, “cuộc chiến tranh không dám xưng tên” 1. Sự chi viện ít ỏi về nhân lực và trang thiết bị được đưa lên tàu một cách lén lút. Tổ chức của quân đội Pháp bị xáo trộn vì một cuộc giải ngũ vội vã và không có tổ chức, vì sự cắt giảm hàng loạt về tài chính, sự thanh trừng độc đoán và việc đưa ra khỏi quân đội các khung chỉ huy một cách thiếu suy nghĩ.
Tái chiếm Đông Dương trong hoàn cảnh như thế là một thách thức lớn. Tuy vậy, dần dần ta vẫn chiếm lại phần lớn vùng châu thổ Bắc Bộ, nhưng ta không thể loại trừ được hết những căn cứ hỗ trợ các lực lượng du kích. Ở những vùng Thượng và Trung du, chúng ta tái chiếm các cứ điểm chiến lược chính, nhất là các điểm chặn các ngõ vào Trung Quốc: Móng Cái, Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai, song ngay tại các nơi này, chúng ta cũng không ngăn cản được Việt Minh xâm nhập một cách vững chắc vào các mắt xích của một hệ thống chiếm đóng quá lỏng lẻo, chỉ bao gồm các thành phố và trục giao thông mà ta kiểm soát được.
Cũng trong thời gian này, chúng ta tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam, bằng cách tìm ra một “người đối thoại có thể nói chuyện được”. Thay vì có sự cân nhắc nghiêm túc về tình hình Đông Dương, thì sự tranh cãi trong nội bộ chính trường nước Pháp lại là yếu tố quyết định thái độ của chúng ta đối với các vấn đề ở vùng lãnh thổ này: các đảng cánh tả ủng hộ một cuộc đàm phán với Việt Minh, còn các đảng cánh hữu lại bác bỏ ngay từ đầu.
Sau nhiều lần tìm cách bắt liên lạc với ông Hồ Chí Minh, chúng ta quay trở về cựu hoàng Bảo Đại, đã sang tá túc ở Hồng Kông và mệt mỏi trong vai trò “cố vấn tối cao” của Việt Minh.
Các cuộc đàm phán với ông này cũng rất gay go, vì các đòi hỏi của ông cựu Hoàng này về vấn đề độc lập cũng không kém gì ông Hồ Chí Minh. Tuy nhiên vào tháng tư năm 1949, ông ta đồng ý với một danh hiệu không thật rõ ràng, đứng đầu “Quốc gia Việt Nam”, một chính thể mà chúng ta công nhận chủ quyền về mặt chính trị và quân sự, nhưng không chính thức nói đến từ Độc Lập. Tình hình lúc này hết sức nhập nhằng.
Như thế là trong ba năm nói trên, trong khi Việt Minh chưa củng cố được một cách thật vững chắc cơ sở của họ, thì chúng ta cũng không đạt được một kết quả dứt khoát nào, cả về chính trị lẫn quân sự. Cơ hội đã trôi qua.
o O o
Cuối năm 1949, chiến thắng của quân đội Mao Trạch Đông cùng sự áp sát của nó đến biên giới Bắc Bộ mở ra một giai đoạn mới cho cuộc chiến tranh. Việc tiếp tế vũ khí, phương tiện chiến tranh mà Việt Minh nhận được từ Trung Quốc đặt chúng ta trước một vấn đề mới. Cho đến thời điểm này, do không đủ đạn dược, vũ khí nặng, nên Chính phủ Việt Minh chỉ có thể giao cho quân đội họ tiến hành chiến tranh du kích. Và tất cả sẽ thay đổi nếu viện trợ của Trung Quốc giúp cho họ có đủ hỏa lực họ đang thiếu.
Cuộc chiến đang đi đến một bước ngoặt quyết định và là lúc nước Pháp phải lựa chọn: hoặc chiến thắng trong cuộc chiến, bằng cách đưa vào tất cả mọi phương tiện cần thiết, trước khi viện trợ của Trung Quốc được đưa vào một cách ồ ạt; hoặc là kết thúc cuộc chiến này bằng một giải pháp chính trị. Không thể có một phương cách trung gian.
Thế nhưng một giải pháp dung hoà lại được lựa chọn. Tướng Revers, Tổng Tham mưu quân đội, được Chính phủ phái đến hiện trường để đánh giá tình hình, quyết định bỏ trống vùng biên giới với Trung Quốc, tập trung lực lượng về vùng châu thổ. Chiến dịch này được tiến hành vài tháng sau đó, dẫn đến các trận đánh tồi tệ, trong đó có trận Cao Bằng.
Cho dù có rất nhiều sự tranh cãi1, nhưng phương án rút lui cũng có thể lý giải được, đứng về quan điểm cách tiến hành các cuộc hành quân và nếu chỉ căn cứ vào tương quan lực lượng lúc này tại Đông Dương. Nhưng, nếu xét trên bình diện đường lối chung chỉ đạo chiến tranh - lẽ ra phái viên chính phủ phải xem xét tình hình trên bình diện này - nếu tính đến các phương tiện bổ sung mà nước Pháp có thể gửi sang nếu những người lãnh đạo có can đảm yêu cầu - thì cuộc rút lui này quả thật là hình mẫu của sự xoay sở hòng hoãn trả nợ nhưng lại làm món nợ tăng thêm. Nó mang mầm mống của những thảm họa sẽ xảy đến về sau.
Giải pháp này đã mở toang các cánh cửa “cổng vào Trung Quốc” tạo điều kiện cho đối phương có thể nối liền hệ thống giao thông của họ với Trung Quốc, dễ dàng nhận viện trợ quân sự không ngừng gia tăng và giúp họ xây dựng được một lực lượng chính quy thật sự ngày càng được củng cố, bên cạnh các lực lượng du kích.
Về phía ta, sự phình ra của các vùng cần phải kiểm soát trong vùng châu thổ sông Hồng từng ngày làm cho quân đội ta bị giữ chân tại chỗ và giảm các lực lượng cơ động.
Vì vậy khi lực lượng Việt Minh càng ngày càng đông hơn, mạnh hơn, cơ động hơn, thì lực lượng của ta lại càng bị sa lầy hơn, vì giới lãnh đạo chúng ta tại Chính quốc - mặc dù tình hình tồi tệ hơn - vẫn không cho tăng thêm quân. Do đó, tinh thần của Việt Minh trở nên phấn khởi hơn nhờ các chiến thắng, còn tinh thần chúng ta bị giáng một đòn nặng nề, ngày càng mang nặng tư tưởng bại trận.
Cán cân lực lượng bắt đầu suy sụp với phần lợi nghiêng về phía đối phương.
____________________________________________
2. Tướng Alessandri, Tư lệnh các lực lượng Pháp, chống đối một cách công khai sự rút quân này. Và ông đã phải trả giá bằng cách phải rời khỏi quân đội vì dám can đảm nói lên sự thật.
o O o
Việc thất bại tại Cao Bằng gây ảnh hưởng đến dư luận và các lực lượng Viễn chinh khiến cho Chính phủ phải giao tất cả quyền lực ở Đông Dương vào tay một danh tướng. Tháng 12 năm 1950, tướng De Lattre de Tassigny cùng một lúc nắm giữ chức vụ Cao ủy Pháp và Tổng tư lệnh quân đội tại Đông Dương.
Tình hình chính trị được sáng sủa hơn một chút do việc ký kết tại Paris tháng 6 năm đó, các hiệp ước để ba Quốc gia liên kết được chính thức công nhận độc lập, trong khuôn khổ của khối Liên hiệp Pháp, nhưng thực chất khối này vẫn chưa được xác định một cách rõ ràng.
Trong khi đó tình hình quân sự thì kém đi. Vùng Thượng và Trung du bị sơ tán hoàn toàn. Chỉ có thái Nguyên là còn trong tay chúng ta. Tất cả lực lượng đều rút về đồng bằng,và đa số đều phải cắm chốt. Lực lượng dự bị giới hạn ở con số 12 tiểu đoàn, chỉ có 6 tiểu đoàn là tổ chức thành hai nhóm cơ động. Vùng đồng bằng châu thổ rất sơ hở dễ bị đối phương xâm nhập, không hề có một tổ chức phòng vệ nào.
Về phía Việt Minh, một Binh đoàn Tác chiến đã xuất hiện, gồm 3 sư đoàn, cùng với 2 sư đoàn khác đang ở giai đoạn cuối của việc thành lập. Trên khắp lãnh thổ Đông Dương, các lực lượng địa phương của đối phương xuất hiện, được tổ chức thành đại đội, tiểu đoàn và thậm chí trung đoàn.
Tận dụng tối đa ảnh hưởng tâm lý do sự xuất hiện của mình, tướng De Lattre đã mang lại niềm tin cho quân đội. Cùng lúc ấy, ông có những quyết định đã tạo ra dấu ấn của ông về sau.
Đóng ngay tại Hà Nội, bỏ lại Sài Gòn phía sau, ông nhấn mạnh ngay lập tức tính quan trọng vượt trội của miền châu thổ sông Hồng. Ông nhận định đó là cái chốt cánh cửa mở ra Đông Nam Á. Ở thời điểm đó, đánh giá như vậy là chính xác vì đồng bằng Bắc Bộ là nơi đối phương đang nhắm tới. Không may là sự quan tâm của tướng De Lattre về đồng bằng bắc Bộ, trong thâm tâm ông, chắc chắn là chỉ có tính nhất thời, nhưng về sau nó đã trở thành một sự quan tâm thường trực. Và ngay sau khi ông không còn nữa, sự quan tâm này đã làm mất đi cái nhìn tổng thể đối với các mặt trận khác tại Đông Dương. Sau này, chúng ta sẽ thấy rõ những hậu quả nghiêm trọng của sự sai lầm về cách nhìn nói trên.
Huy động tất cả các phương tiện có được từ tất cả các vùng lãnh thổ thuộc Pháp, nhận được tiếp viện từ chính quốc, tạo thành 4 lực lượng cơ động mới, tướng De Lattre trong vài tuần đã gây dựng lại cho lực lượng Pháp ở Bắc Bộ khả năng đối đầu cân bằng với Binh đoàn Tác chiến của Việt Minh. Hai cuộc tiến công dữ dội, một tiến đánh Hà Nội, một tiến đánh Hải Phòng đã bị đẩy lui1.
Tướng De Lattre quyết định bao quanh vùng châu thổ với một tuyến phòng thủ. Quyết định có một ảnh hưởng nặng nề về sau này, là cách để tướng De Lattre đối phó với hai mối lo trong đầu ông. Trước hết là để chặn đứng một cuộc tấn công tổng lực hoặc của Binh đoàn chiến đấu Việt Minh, hoặc của Trung Quốc. Kế đến là ngăn chặn mọi sự trao đổi giữa đồng bằng và các vùng lân cận2.
Nhưng khi quyết định này được thực hiện thì nó đã không đáp ứng được những ý đồ trên. Xây dựng một “chiến tuyến Maginot” thu nhỏ đã tiêu hao rất nhiều tiền của, song chiến tuyến này không bao giờ thực hiện vai trò như mong đợi. Chiến tuyến “De Lattre” không bao giờ ngăn cản được các cuộc tiến công hàng loạt của đối phương3, cũng không có khả năng ngăn chặn được sự vận chuyển của các đơn vị và đoàn xe Việt Minh4. Trái lại, nó đã giữ chân lực lượng tinh nhuệ của chúng ta - khoảng 20 tiểu đoàn - trong khi các lực lượng trù bị cơ động của ta đều thiếu quân.
Nghĩ rằng đã cô lập được vùng châu thổ, tướng De Lattre tiến hành càn quét các lực lượng Việt Minh. Đó là mục tiêu của một loạt các chiến dịch kéo dài đến tận mùa xuân và mùa hè năm 1951. Kết quả không hoàn toàn như ý, nhưng đã cải thiện tình hình đáng kể.
Tiếp tục những cố gắng của mình, tướng De Lattre quyết định tăng quân số lực lượng Viễn chinh bằng cách thành lập những đơn vị mới. Do bị giới hạn về mặt kinh phí và nhân lực mà Chính quốc rót qua một cách hết sức keo kiệt, ông chỉ có thể tăng được quân số các lực lượng bản xứ. Việc “da vàng hóa” nhanh chóng quân đội này đã cung cấp các phương tiện để đương đầu với tình hình lúc bấy giờ, nhưng lại mang mầm mống cho sự xuống cấp của quân đội Viễn chinh.
Cố gắng của De Lattre cuối cùng nhắm vào việc phát triển các lực lượng Quân đội Liên hiệp, nhất là quân đội Việt Nam, một sự phát triển - thực ra chính thức được bắt đầu từ trước khi ông đến, nhưng ông là người đầu tiên tạo sự thúc đẩy nghiêm túc.
Ngay sau khi cải thiện tình hình, De Lattre quyết định mở cuộc tiến công vào mùa thu 1951, với một ý muốn đầy tham vọng là tiêu diệt Binh đoàn chiến đấu của Việt Minh. Ý thức phải diệt cho được một địch thủ có ưu điểm là khả năng biến hóa nhanh, ông quyết định tiến công một vùng quan trọng mà Việt Minh phải đánh để tái chiếm lại. Ông chọn vùng Hòa Bình.
Một trận đánh khốc liệt diễn ra trong vòng hơn bốn tháng mà tướng De Lattre vì bệnh phải trở về Pháp, đã không thấy được sự kết thúc của chiến dịch này. Sau những diễn biến phức tạp, chiến dịch kết thúc vào tháng 2 năm 1952, bằng sự rút quân của chúng ta về vùng châu thổ. Gây cho đối phương những tổn thật nghiêm trọng nhưng chúng ta cũng phải chịu nhiều thiệt hại nặng nề. Đứng về mặt chiến lược thì cuộc tiến công này không đem lại một kết quả quyết định, có chăng chỉ là ngăn chặn được Việt Minh mở một cuộc tiến công mới vào Hà Nội.
Không may là trận đánh Hòa Bình đã giữ chân các lực lượng cơ động của chúng ta quá xa vùng đồng bằng trong một thời gian dài. Điều này đã giúp đối phương xâm nhập được vào đó với một số lượng lớn về quân số và xây dựng luôn cơ sở tại chỗ. Đây là mở đầu của một sự “mục rữa”, từ đấy không ngừng gia tăng, và dần dần tệ liệt hóa đại bộ phận các lực lượng Viễn chinh. Trước mắt, Việt Minh đạt được một thắng lợi hết sức cơ bản.
Nói chung, thống chế De Lattre đã thực hiện được một sự gượng dậy rất đáng khâm phục. Tuy nhiên, nếu muốn cho nó được tồn tại thì ông ta phải còn sống, tiếp tục tiến hành những cố gắng liên tục và mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực. Nhưng thực tế đã không xảy ra như vậy.
o O o
Cái chết của tướng De Lattre đã mở ra một giai đoạn mới của cuộc chiến, giai đoạn thể hiện tình hình sa sút dần dần trên mọi lĩnh vực. Quyền lực về chính trị - quân sự một lần nữa bị tách rời: ông Letourneau, Tổng trưởng phụ trách các Quốc gia Liên kết, giữ chức Cao ủy; tướng Salan làm Tổng tư lệnh quân đội.
Trong vùng châu thổ, nơi mọi thứ đều phải hy sinh để phục vụ việc phòng thủ, quân đội chúng ta đứng trước một hoàn cảnh ngày càng khó khăn. Họ phải chiến đấu chống lại một lực lượng bộ binh vô cùng linh hoạt, ẩn náu ngay trên lãnh thổ của chúng ta, được trang bị ngày càng tốt hơn, ngày càng tinh nhuệ hơn. Lực lượng cơ động của ta thì ngày một bị thu nhỏ về quân số. Lực lượng “cắm tại chỗ” bị tập trung vào những cứ điểm được xây dựng chỉ đủ để chống lại quân du kích trang bị kém, và khó có khả năng cầm cự lại một địch thủ được trang bị nhiều về súng bazooka và đại bác không giật. Tiếp nữa là sự sa sút ngày càng nghiêm trọng hơn về tinh thần, tư tưởng thụ động lan truyền hằng ngày trong quân lính, do những mặc cảm về sự thua kém làm cho họ ngày càng ít thực hiện những cuộc tuần tiễu hơn vào ban đêm chung quanh nơi đóng quân của họ. Sự việc này đã tạo điều kiện cho đối phương có được một sân trống - nhất là vào ban đêm - họ hoàn toàn làm chủ. Những cuộc hành quân “tảo thanh” liên tục và đầy thất vọng không giải quyết được tình hình xấu đi này.
Trên tất cả những vùng lãnh thổ khác, các diễn biến cho dù không bi thảm như trên, nhưng cũng tương tự như vậy. Khắp nơi Việt Minh đã xâm nhập vào, phát triển theo vết dầu loang. Chỉ có ở Nam Bộ và một vài vùng ở Trung Bộ, là có một sự cải thiện tương đối.
Tuy nhiên, Binh đoàn Tác chiến của Việt Minh đã đạt tới quân số 6 sư đoàn (lúc bấy giờ phía Quân đội Nhân dân Việt Nam gọi là đại đoàn - ND), chưa hề chứng tỏ sức mạnh từ khi kết thúc trận đánh Hòa Bình. Bộ Chỉ huy Pháp luôn luôn nghĩ rằng họ đang chuẩn bị cho một cuộc tiến công về phía vùng châu thổ.
Mùa thu năm 1952, ở vùng Thái Nguyên, Binh đoàn này xuất đầu lộ diện. Bất ngờ vào giữa tháng 10, một cuộc tiến công ồ ạt vào căn cứ Nghĩa Lộ1 (tình báo của ta không kịp phát hiện) mở màn cho các hành động quân sự quyết liệt theo một hướng mới: thượng lưu sông Mê Kông. Sau khi chiếm Nghĩa Lộ, phần lớn lực lượng Việt Minh (sư đoàn 308, 312 và 316) xuyên thủng một chiến tuyến nhỏ mà chúng ta định dựng lên dọc theo sông Đà, chia quân đội chúng ta làm đôi, đẩy lui một nhóm chạy về Lai Châu, nhóm kia chạy về Nà Sản. Lực lượng của chúng ta tổn thất và mệt mỏi, tập trung về quanh các sân bay, để có thể được tiếp tế và nhận thêm viện quân. Các cứ điểm được xây dựng một cách vội vã.
Cuối tháng 11, lực lượng Việt Minh tập trung quanh Nà Sản, mở cuộc tiến công. Sau một trận đánh 4 ngày (29 tháng 11 đến 2 tháng 12), họ chịu nhiều tổn thất, ước tính khoảng 7000 người bị loại khỏi vòng chiến, đã không chiếm được cứ điểm này. Chiến thắng ở thế phòng thủ này đã giúp chúng ta có được ba tháng nghỉ ngơi.
Vào cuối tháng ba, binh đoàn chiến đấu của Việt Minh lại hướng về Luang Prabang. Họ chiếm được Sầm Nưa, và lực lượng trấn giữ, do rút lui quá trễ, một phần lớn đã bị bắt làm tù binh, hoặc bị tiêu diệt khi rút chạy. May mắn là do không chuẩn bị đủ trang thiết bị tiếp tế và mùa mưa gần kề, nên Bộ Chỉ huy Việt Minh không thể đẩy xa cuộc tiến công đến cùng. Họ dừng lại vào cuối tháng tư ngay trước những trận địa vừa được gấp rút dựng lên ở Luang Prabang, cánh đồng Chum. Không mạo hiểm tiến công tiếp nên họ rút Binh đoàn Tác chiến về vùng tập kết tại châu thổ.
Họ không tới được sông Mêkông, nhưng đã tới rất gần, thiết lập được những bàn đạp tạo cho họ những ưu thế chiến lược quyết định cho các chiến dịch sau.
Việc này cũng cho thấy, dù thế nào đi nữa, vùng đồng bằng sông Hồng không còn là “cái chốt cửa của vùng Đông Nam Á”, vì nó có thể bị vặn một cách dễ dàng2.
Vượt ra khỏi khuôn khổ của nước Việt Nam, chiến tranh đã chuyển qua giai đoạn “chiến tranh Đông Dương”. Sự thay đổi này đã làm cho chúng ta hoàn toàn bị bất ngờ.
Chúng ta chưa tiên liệu một cách nghiêm túc, trước tháng 10 năm 1952 (thời điểm khởi đầu của cuộc tiến công vào vùng dân tộc Thái và Thượng Lào), là Việt Minh có thể một ngày nào đó mở những cuộc tiến công lớn như vậy bên ngoài vùng châu thổ sông Hồng. Do đó, đã không có một sự chuẩn bị nào trong tất cả các lĩnh vực để đối phó như các trang thiết bị tiếp hậu cần, hệ thống đường xá và sân bay) cũng như không có bất cứ một biện pháp phòng ngừa nào. Đặc biệt là không có một sự chuẩn bị nào để có thể ngăn chặn bất cứ một hành động lớn của đối phương, trước khi nó trở nên nguy hiểm trong vùng từ Đà Nẵng đến Vũng Rô.
Sự chuyển biến này của cuộc chiến đã có những tác động trên trường quốc tế. Nước Xiêm cảm thấy bị đe dọa trầm trọng và sẵn sàng kêu gọi sự trợ giúp của Liên Hiệp Quốc. Chúng ta đã can ngăn họ làm điều này, có thể đây là một sự sai lầm. Tại vì lời kêu cứu có thể đặt hai phía: một bên là Liên Xô và Trung Quốc, còn bên kia là Mỹ và Anh trước những trách nhiệm của họ, có thể mang lại một giải pháp cho vấn đề Đông Dương, hoặc ít nhất là ngăn cản tái tiếp tục cuộc tiến công của họ vào Lào năm sau.
Trong việc tổ chức các lực lượng, đây là một giai đoạn đình trệ tiếp theo sau những gì mà thống chế De Lattre đã thực hiện. Quân số và số lượng các đơn vị quân Viễn chinh đã giảm sút3. Các lực lượng Quân đội Liên hiệp tăng đáng kể nhưng chỉ ở những quy mô nhỏ. Nếu tổng số quân của chúng ta đã tăng đôi chút kể từ khi thống chế De Lattre ra đi4, thì sự gia tăng đó lại phải trả giá bằng một sự sút giảm về chất lượng, do sự giảm sút tỷ lệ số khung lính Pháp so với tổng thể5.
Cuối cùng và đây là điều nghiêm trọng nhất - các lực lượng cơ động của chúng ta đã không có sự thay đổi6, làm cho Binh đoàn Tác chiến của ta ngày càng yếu kém so với Binh đoàn Tác chiến đối phương.
Chỉ mặt hậu cần, những tiến bộ đáng kể mới được thực hiện. Một sự kiện hàng đầu đã xảy ra, có khả năng tạo được ảnh hưởng rất lớn cho cuộc chiến về sau. Dưới sức ép của những thất bại tại Trung Quốc và nhất là tại Triều Tiên, nước Mỹ sau năm năm chậm trễ đã ý thức được sự bành trướng của Chủ nghĩa Cộng sản trong vùng Đông Nam Á. Nhận thức này khiến họ phải thay đổi quan điểm. Cuộc “chiến tranh thuộc địa” vô đạo được họ biến thành một thánh chiến chống lại Chủ nghĩa Cộng sản. Sau nhiều năm mong muốn chúng ta thua trận, họ đã quyết định giúp chúng ta về mặt tài chính và trang thiết bị, tạo điều kiện cho việc hiện đại hóa quân đội Viễn chinh, nhất là việc tăng cường các lực lượng Quân đội Liên hiệp Pháp.
Bên cạnh những điểm thuận lợi kể trên, viện trợ của Mỹ lại tạo ra rất nhiều điểm yếu rất nghiêm trọng.
Đầu tiên là nó đưa quân đội ta đi vào tình trạng nặng nề. Được nhận miễn phí các trang thiết bị chỉ thích hợp với chiến tranh quy ước, chúng ta đã vin vào cớ đó để tiết kiệm ngân sách và không chịu nghiên cứu để có được những thứ thích hợp với cuộc chiến tranh linh hoạt, nhiều biến dạng ở Đông Dương.
Nhưng mối hiểm họa lớn nhất của viện trợ Mỹ là chính trị. Nếu chúng ta không có được sự cam kết chính thức, thì nguồn viện trợ này sẽ tạo điều kiện cho Mỹ can thiệp ngày càng sâu vào công việc của chúng ta. Ảnh hưởng của Mỹ lên các Quốc gia Liên kết sẽ dần dần thay thế ảnh hưởng của chúng ta. Chúng ta đã phải đối mặt với tình thế ngược đời: chấp nhận viện trợ của Mỹ, chúng ta chắc chắn sẽ mất Đông Dương, cho dù chúng ta có chiến thắng. Đây là bi kịch của đường lối chính trị của chúng ta.
_____________________________________
1. Một cuộc hành quân đánh vào phía sau quân Việt Minh được thực hiện xuất phát từ vùng đồng bằng, hướng về nút giao thông Yên Bái (cuộc hành quân “Lorraine”). Nó phá hủy được một vài kho dự trữ, nhưng không gây được một ảnh hưởng gì đến cục diện tổng thể của chiến trường. Chúng ta cuối cùng bị bắt buộc phải rút lui trong những điều kiện hết sức khó khăn mà không đạt được mục tiêu đề ra.
2. Việt Minh đã có kế hoạch xây dựng một con đường chiến lược đi ngang qua Yên Bái và Sầm Nưa, tiến đến sông Mêkông qua Paksane.
3. Tổng tư lệnh quân đội Pháp đã phải chịu sức ép của Chính phủ giảm quân số lực lượng Viễn chinh từ 190.000 người xuống còn 174.000 người.
4. Sự gia tăng quân số của các đơn vị Liên hiệp và các đơn vị bổ sung tạm thời cao hơn sự cắt giảm của lực lượng Viễn chinh.
5. Hậu quả của việc chuyển các lực lượng Viễn chinh sang các lực lượng quân đội Liên hiệp.
6. Trong khoảng thời gian giữa nhiệm kỳ của thống chế De Lattre và thời điểm tôi đến nhận công tác, số lượng các binh đội cơ động không có gì thay đổi.
BẢN TỔNG KẾT TÌNH HÌNH VÀO THÁNG 5 NĂM 1953
Bản Tổng Kết Tình Hình Vào Tháng 5 Năm 1953
Trên đây là hình ảnh của quá khứ, mà tôi phải nhận lãnh như một di sản hết sức nặng nề. Sau đây là bản tổng kết về tình hình Đông Dương vào thời điểm tôi nhận quyền chỉ huy.
Đây không phải là một việc dễ dàng. Sau bảy năm chiến tranh, rất nhiều vấn đề làm cho bản tổng kết này đen tối, cả quân sự cũng như chính trị. Có những quan điểm đã được khẳng định - dù đúng hay sai - mà người ta tìm cách bênh vực bằng mọi giá, những trách nhiệm mà người ta muốn che giấu, những quyền lợi đủ loại, hợp pháp hay không hợp pháp mà người ta muốn duy trì.
Bầu không khí ở Pháp
Những dữ liệu đầu tiên của bản tổng kết này phải được tìm ở Paris. “Không khí” ở Pháp là một yếu tố rất quan trọng, ít nhất là cũng ngang bằng với những gì tôi thấy được tại chỗ.
Về mặt tinh thần, bầu không khí thật là khủng khiếp: bên cạnh sự chống đối thường xuyên của Đảng Cộng sản Pháp, đã thể hiện công khai từ khi chiến tranh mới bắt đầu, không khí còn bị đầu độc bởi “vụ án tướng lĩnh”, tiếp đó đến vụ “buôn lậu tiền Đông Dương” đang gây ầm ĩ trong dư luận.
Không khí chính trị nói chung là sự thờ ơ. Những thảo luận lớn ở Nghị viện về tình hình Đông Dương chỉ diễn ra với khoảng từ 50 đến 100 dân biểu. Một số ít nhà hoạt động chính trị còn quan tâm đến chiến tranh không phải vì hệ quả của nó đối với các cuộc tuyển cử, thì lại mơ hồ hoàn toàn về mục đích của cuộc chiến tranh đang tiến hành ở Viễn Đông. Không khí bao trùm là một sự bi quan do sự thiếu ý chí, tư tưởng chủ bại có hệ thống, và nhất là do sự quan tâm đến tình hình chính trị ở Chính quốc hơn là sự đánh giá chính xác về các vấn đề ở Đông Dương. Những việc diễn ra ở Đông Dương rất ít được biết đến, thậm chí bị hiểu sai ở Paris. Những bản báo cáo của các đoàn công tác Quốc hội, dù rất nhiều, nhưng cũng chỉ xoay quanh những điểm chung chung hoặc nhắc lại toàn những chuyện xoi mói.
Các vị chỉ huy quân sự hàng đầu biết rõ tình hình thực tế nhưng đối với họ, chiến tranh Đông Dương là một trở ngại cho việc tái tổ chức lại quân đội Pháp ở châu Âu. Đây là một gánh nặng họ mong muốn gạt bỏ càng nhanh càng tốt.
Đối với tất cả “những nhà lãnh đạo” chính trị và quân sự này - những người lãnh đạo đất nước qua bảy năm chiến tranh nhưng vẫn không biết cách huy động toàn lực cho cuộc chiến mà cũng chẳng biết làm cách nào để đưa đất nước thoát ra - đã xem Đông Dương như là một vấn đề cần phải thanh lý. Họ xem nó là một “ngõ cụt”, một “tổ ong”, một “mớ bòng bong”. Họ muốn “đi ra khỏi nó”, nhưng chưa thống nhất với nhau về chính sách, cũng như chiến lược để có thể đi đến sự kết thúc này.
Một số người thống nhất việc kéo dài chiến tranh thêm một thời gian ngắn nữa để thực hiện cố gắng cuối cùng và có giới hạn, nếu sự giải quyết đó không quá tệ hại. Một số người khác nghĩ rằng nên tiến hành ngay lập tức và làm thế nào cũng được.
Khuynh hướng thứ hai này đang còn là một thiểu số - ít nhất là theo bề ngoài - nhưng không lâu sau đó, nó sẽ lại chiếm ưu thế. Vài tuần sau, thất bại trong cuộc bỏ phiếu tín nhiệm ông Mendès France đã thể hiện điều đó. Ông là người được phái “hòa bình bằng bất cứ giá nào” tin cậy1.
Khuynh hướng này tương ứng với một trào lưu tư tưởng ngầm mà không một chính phủ nào tìm cách sửa đổi. Chiến tranh Đông Dương không phải là chiến tranh của quốc gia. Đó là một công việc xa xôi, do một đạo quân nhà nghề tiến hành, trong khi đất nước không hiểu được ý nghĩa, cũng không dự vào.
Tôi phải nhìn nhận như nhiều người đã nói rằng, nếu ở Đông Dương tôi gặp những khó khăn nghiêm trọng, thì tôi sẽ không thể dựa vào, trong mọi trường hợp, một hậu phương vững chắc ở Pháp.
______________________________________
1. Số lượng đại biểu quốc hội được xem như ủng hộ một nền hoà bình với bất cứ giá nào là 301/627.
Tình hình chính trị ở Đông Dương
Đây là tình hình tôi nhận thấy khi đến Đông Dương. Tôi chỉ phân ra hai mặt chính trị và quân sự để đễ trình bày, còn trên thực tế chúng có quan hệ mật thiết với nhau.
o O o
Về mặt chính trị, Việt Minh là một Nhà nước có thực lực. Quyền lực trực tiếp của họ, trên thực tế trải rộng hơn một nửa nước Việt Nam. Họ còn có thêm một loại quyền hành trong bóng tối đối với những vùng do ta kiểm soát, vô hiệu hóa quyền lực của chúng ta, tạo điều kiện cho họ có được nguồn hậu cần bổ sung rất là quan trọng. Họ thu thuế, chiêu mộ quân lính, rút được một phần lớn gạo, muối, vải vóc mà họ cần; họ tìm mua được những chiếc xe đạp sẽ giúp họ rất nhiều trong hệ thống tiếp tế, hậu cần, các loại dược phẩm cần thiết cho công tác y tế, pin điện họ dùng để khởi động ngòi nổ mìn giết chết quân lính của chúng ta.
Tại Lào và Campuchia, các lực lượng ủng hộ Việt Minh kiểm soát những vùng lãnh thổ rộng lớn, ảnh hưởng trong nước của họ đủ mạnh để gây khó khăn cho các chính phủ ủng hộ chúng ta.
Sức mạnh to lớn của Việt Minh nằm trong sức mạnh huyền thoại của dòng giống người Việt, lòng yêu nước và nhất là ý thức xã hội mà họ đã xây dựng được. Họ vừa dựa vào công tác tư tưởng - một kiểu “nhồi sọ” rất hiệu quả của cộng sản, vừa biết cách làm một số người phải khiếp sợ họ1.
Áp đụng nguyên lý của Lénine: “Khi chiến tranh không thể tránh được, thì phải huy động tất cả sức mạnh của quốc gia”, chính phủ Việt Minh đưa cuộc chiến vào tất cả các lĩnh. vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội và quân sự - tạo ra một động lực hết sức mạnh mẽ. Trung thành với lý thuyết của Mao Trạch Đông, đã nói ngay từ năm 1934: “Không có nhân dân thì chúng ta sẽ không là gì cả”. Họ đã tiến hành chiến tranh tổng lực, chiến tranh của toàn dân, không chỉ là của riêng quân đội. Quân đội ở trong nhân dân, như một câu ngạn ngữ đã nói: “Quân với dân như cá với nước” hay “Chỗ nào có một người lính chiến đấu, thì nơi đó phải có mười người dân ủng hộ”.
o O o
Bức tranh về phía chúng ta hoàn toàn khác. Chưa bao giờ chúng ta có được một sự liên tục về mặt nhân sự. Từ 17 năm qua, đối đầu với một nhà lãnh đạo chính trị duy nhất là ông Hồ Chí Minh và một nhà lãnh đạo quân sự duy nhất - Đại tướng Giáp là 19 chính phủ kế tiếp, cùng với 5 nhà lãnh đạo chính trị ở Đông Dương2 (ông Dejean là người thứ 6) và sáu tư lệnh quân đội3 (tôi là người thứ 7).
Chúng ta cũng chưa bao giờ có được một đường lối chính trị nhất quán. Nói cho chính xác, chúng ta chẳng hề có đường lối nào. Trở lại Đông Dương, sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, mà không ý thức được những thay đổi đã xảy ra trong thời gian chúng ta vắng mặt, lúc ban đầu ta đã tìm cách tái lập nếu không muốn nói là chế độ thuộc địa, thì ít nhất cũng là một cái gì đó gần như vậy mà chúng ta chưa xác định rõ ràng. Ý đồ đó, không đếm xỉa gì đến thực tế, đã sớm bị phá vỡ trước những khó khăn về chính trị và quân sự, và trước thái độ “chống chế độ thực dân” của người Mỹ.
Vì thế chúng ta đã chuyển sang một khái niệm với một công thức quyến rũ: “Độc lập của các Quốc gia Liên kết trong khuôn khổ khối Liên hiệp Pháp”. Nhưng đây mới chỉ là một công thức thôi. Nó bao gồm những khái niệm rất mơ hồ và khác nhau hoàn toàn, tùy theo mức độ nhấn mạnh của các Quốc gia Liên kết vào nền độc lập của họ hoặc là vào sự liên hệ của họ trong khối Liên hiệp Pháp.
Đối với một số người, sự thật duy nhất được chấp nhận phải là nền độc lập. Liên hiệp Pháp chỉ là một cái nhãn để che dậy sự ra đi của chúng ta, tạo điều kiện cho sự ra đi trong danh dự nước Pháp. Đây là quan điểm của tất cả những người Việt Nam quốc gia đã không đi theo Việt Minh vì họ không phải là cộng sản, nhưng họ cũng không chịu về với phe ta, hoặc ít nhất là họ chỉ về với phe ta nếu quân đội chúng ta có cơ may giành thắng lợi. Và cũng là quan điểm của rất nhiều người Việt Nam, về mặt chính thức họ đứng về phía chúng ta, nhưng lại mong rằng khi chiến tranh chấm dứt, chúng ta phải ra đi. Đó cũng còn là quan điểm của những người lãnh đạo Lào và Campuchia lúc bấy giờ. Và cuối cùng đó là quan điểm của người Mỹ. Người Mỹ cũng không từ bỏ một dịp nào để biểu lộ sự đồng tình của họ đối với các Quốc gia Liên kết và làm cho những quốc gia này tin rằng một khi đòi hỏi vượt quá sự nhượng bộ của người Pháp thì họ sẽ có sự hỗ trợ từ người Mỹ.
Quan điểm còn lại tập hợp tất cả nhưng người muốn Pháp phải ở lại Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp là một thực thể vững chắc. Quan điểm này đưa đến việc giới hạn nền độc lập của các Quốc gia Liên kết. Những người ủng hộ nó, trước hết là những người Pháp, cho rằng mọi cố gắng, hy sinh của chúng ta không thể dẫn đến một sự ra đi hoàn toàn. Ngoài ra còn một số người của các Quốc gia Liên kết được đào tạo ở các trường học và quen với thực tế về quyền lực, quản lý của ta. Theo những người này thì quốc gia của họ không có khả năng tồn tại một mình, nếu không có sự giúp đỡ của một cường quốc; họ mong muốn rằng cường quốc đó vẫn là nước Pháp, nước đã có mối quan hệ với họ từ một thế kỷ nay, qua đó đã hình thành một nền văn hóa chung.
Giữa hai quan điểm nói trên, nước Pháp chưa bao giờ chọn lựa cho mình một quan điểm nào. Xuất phát từ khái niệm quyền lực độc đoán và tập trung của khối Liên hiệp Pháp, rất gần với quan điểm “thực dân” xa xưa. Quan điểm này, dưới sức ép của các diễn biến, chỉ được biến đổi sang một quan điểm linh hoạt hơn mà bản tuyên ngôn ngày 3 tháng 7 năm 19534 đã thể hiện. Thực ra bản tuyên ngôn này mang tính lý thuyết nhiều hơn là thực tế, vì nó chỉ nêu lên những nguyên tắc, khi đi vào thực tế còn rất nhiều khó khăn phải giải quyết.
o O o
Một điểm yếu khác về thế đứng chính trị của chúng ta xuất phát từ sự chia rẽ ngay trong phe chúng ta, trên mọi lĩnh vực.
Chia rẽ ngay trong nội bộ từng Quốc gia Liên kết. Nước Việt Nam là một tập hợp những vùng đất, những đảng phái, những dân tộc, những đạo giáo và bè phái, không gắn chặt với nhau bởi một tinh thần thật sự quốc gia. Nước Lào chỉ là một thực thể chính trị mới, không thật đoàn kết với nhau, và bên trong những phe nhóm chống lại Việt Minh lại có những nhóm thù địch nhau. Ở Campuchia, những lãnh chúa phong kiến - thực chất là tướng cướp hơn là lãnh chúa - đã vô hiệu hóa quyền lực hoàng gia.
Tiếp đến là sự bất đồng giữa quyền lợi của những người Pháp, muốn đặt một số giới hạn cho sự độc lập của các Quốc gia Liên kết, với nguyện vọng của những nhà nước này muốn được độc lập hoàn toàn.
Cuối cùng là khác nhau về quan điểm giữa chúng ta với những nhà bảo trợ người Mỹ; họ hỗ trợ chúng ta vì ta đang nắm một khu vực chủ yếu trong kế hoạch của họ: hòng ngăn chặn Chủ nghĩa Cộng sản ở vùng Đông Nam Á, nhưng họ lại không ủng hộ việc duy trì các nước Việt Nam, Lào và Campuchia trong khối Liên hiệp Pháp, mà họ xem đây vừa là một tàn dư của “chế độ thực dân” vừa là một trở ngại cho ý đồ của họ.
Đối đầu với một đối thủ hoàn toàn thống nhất về mặt chính trị, năng động và kiên quyết bằng mọi cách đạt những mục đích rõ ràng, là một mặt trận không thống nhất của chúng ta cùng những hướng đi không rõ ràng, thậm chí còn mâu thuẫn lẫn nhau, hoàn toàn không có một sự kiên định nào cả. Như một sĩ quan đã viết trong bản báo cáo: “Chúng ta dựa vào tất cả những gì đang chết dần đi: tập quán cũ, người già yếu, trong khi Việt Minh hoạt động dựa trên cơ sở những gì đang được sản sinh và lớn mạnh: khát vọng, đam mê với những con người ở tuổi thanh xuân”.
o O o
Lối sống khác nhau của giới lãnh đạo của hai phe đã thể hiện rất rõ tình trạng này.
Về phía Việt Minh, một thủ đô bí mật ở một nơi nào đó trong rừng rậm vùng Tây Bắc Hà Nội, gần với biên giới Trung Quốc, chỉ là vài cái chòi lá được canh giữ hết sức cẩn mật, được di chuyển liên tục để tránh bị phát hiện và không quân ta ném bom. Trong cái “thủ đô” ấy, một bộ máy nhà nước chỉ gồm có vài chục người, sống một cuộc sống khắc khổ của những tu sĩ, cuộc sống năng động và bí mật của một Tổng hành dinh trong chiến tranh.
Còn về phía chúng ta, là một thành phố to lớn, đông đúc khách thập phương qua lại, với những sòng bạc, công việc kinh doanh, hối lộ và những thủ đoạn chính trị lộ liễu; những cuộc tiếp tân xa hoa, những buổi tiệc với rượu xâm banh, với phụ nữ mặc quần áo dạ hội; một ngoại giao đoàn rực rỡ nhưng rảnh rỗi; những chuyến tham quan liên tục, du lịch có, làm ăn tư lợi có của những nhà ngoại giao, những ngài Bộ trưởng, đại biểu Quốc hội từ các nước, có phu nhân đi kèm; cùng một giới báo chí thảo luận rôm rả tất cả mọi vấn đề và làm lộ tất cả các bí mật.
Một bên là Việt Minh đang thực sự tiến hành chiến tranh. Còn một bên là quân đội của chúng ta đang đơn độc trong những trận đánh đẫm máu và khốc liệt, trong khi đó chung quanh nó lại diễn ra một cuộc sống nhàn hạ, vô lo của thời bình.
Sau một cuộc viếng thăm Đông Dương, vào tháng 5 năm 1953, đối thủ đã từng thất cử chức Tổng thống Mỹ của đại tướng Eisenhower, ông Adlai Stevenson, mô tả sự hỗn tạp trong hàng ngũ của chúng ta như sau: “Tôi có nghe nói một vài nhà kinh doanh Pháp cho rằng họ có được những món lợi nhuận kếch sù đến nỗi họ chỉ mong chiến tranh kéo dài; sự lo ngại về một cuộc can thiệp của Trung Quốc đã làm đóng băng ước muốn đi đến thắng lợi cho cuộc chiến tranh này; ở Paris cũng như ở Sài Gòn nhiều người Việt Nam đang rất lo lắng về việc duy trì tàn tích của chủ nghĩa Thực dân Pháp hơn là về mối hiểm nguy của đế quốc Cộng sản; vấn đề uy tín quốc gia và quyền lợi thương mại cho tương lai đã ngăn cản giới cầm quyền Pháp tiến hành những biện pháp để trấn an Việt Nam; căn bệnh không hoàn toàn nằm tại Sài Gòn, nơi tiếng nói của vùng châu Á được kêu gào một cách mạnh mẽ và khẩn thiết, mà là tại Paris xa xôi, với các chính phủ thiếu kiên định và đang quan tâm nhiều đến Châu Phi”.
Bức tranh trên chưa thật đầy đủ vì chưa ám chỉ tới mớ lý sự “bát nháo” do các đồng hương ông Stevenson đưa ra cho các nước liên kết bằng giọng lưỡi mị dân “chống đế quốc”, với thái độ ngạo mạn muốn áp đặt quan điểm của họ về những vấn đề họ gần như chẳng hiểu chút gì, cộng với thói vô liêm sỉ quen thuộc của họ: “Hãy biến khỏi đó để bọn tao nhảy vào”.
Ông Stevenson kết thúc bằng một câu đầy sâu sắc: “Có lúc tôi tự hỏi, liệu người Mỹ có thể chấp nhận chiến đấu và chết trong những điều kiện như thế được bao lâu”.
Tình hình quân sự
Tình hình quân sự sau bảy năm chiến tranh đã chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện địa lý, sắc tộc ở chiến trường Đông Dương và những diễn biến chính trị tôi vừa mô tả ở trên.
o O o
Hình thái qua đó cuộc chiến tranh đã diễn ra có các đặc tính mà những người không tham dự không thể tưởng tượng nổi. Nó không giống với bất cứ một cuộc chiến tranh nào khác, chắc chắn là không giống với những cuộc chiến tranh ở châu Phi và Triều Tiên mà các sĩ quan trong những Bộ Tham mưu lớn của Pháp và Mỹ đã nghiên cứu. Quá nhiều người trong số họ đã có những nhận định về Đông Dương trong khi trên thực tế họ không hiểu gì cả, họ đã góp phần tạo ra các chính sách về quân sự không chính xác của Paris và Washington. Cho nên cũng không phải là vô ích nếu chúng ta nhắc lại ở đây.
“Chiến tranh không giới tuyến”, hoàn toàn khác những cuộc chiến tranh cổ điển, chiến tranh Đông Dương là một cuộc chiến tranh mà không một trường quân sự nào, theo sự hiểu biết của tôi, đã nghiên cứu nghiêm túc. Cuộc chiến tranh này chỉ có đôi nét giống một cuộc chiến tranh có sự phối hợp giữa quân du kích được sự hỗ trợ của quần chúng nhân dân với những chiến dịch do quân đội chính quy tiến hành: chiến tranh Tây Ban Nha, chiến tranh Mêhicô, chiến tranh của những người Nam Tư nổi dậy chống những kẻ chiếm đóng Đức và Ý trong chiến tranh thế giới lần thứ hai1.
Trong những vùng núi của Việt Nam, Lào và Campuchia thưa thớt dân cư, rừng rậm che kín, một hệ thống giao thông rất nhỏ, tồi tàn, đã chứng kiến một dạng chiến tranh quy mô nhỏ. Các trận đánh được thực hiện bởi các nhóm nhỏ được trang bị đơn giản, dưới hình thức những trận đột kích vào những điểm đóng quân nhạy cảm của ta, hoặc dưới hình thức phục kích chống lại các đơn vị của ta. Những đơn vị này tác chiến giống như các lực lượng cảnh sát hơn là các lực lượng chính quy. Dân chúng ở đấy ít có ý thức về khái niệm quốc gia, thường là không thân thiện với Việt Minh, sẵn sàng ngả theo chúng ta nếu họ thấy được bảo vệ. Trong những vùng này, phải nói là mọi chuyện đã xảy ra có thể được gọi là công tác bình định, chứ không phải là những chiến dịch quân sự, các hoạt động chính trị thường đi trước hành động quân sự.
Trái lại, trong các vùng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long, cũng như trong các vùng đồng bằng Duyên hải Trung Bộ, một cuộc chiến tranh thật sự đang diễn ra. Dân cư sống chen chúc trong những điều kiện khốn khổ, rất dễ tiếp thu ý thức hệ của Chủ nghĩa Cộng sản. Nơi đây tạo điều kiện cho hai địch thủ có được những mục tiêu khác nhau. Việt Minh cần nhu cầu về gạo, nhân lực và tiền bạc rất lớn mà chỉ có đồng bằng mới cung cấp được. Về phía chúng ta, cần phải đảm bảo an toàn cho các cảng và căn cứ của mình, và duy trì quyền lực của những chính phủ quốc gia liên kết với chúng ta đối với những vùng rất có lợi này cho họ.
Nhưng ngay cả trong những vùng này, nơi xảy ra các chiến dịch quân sự thật sự, cũng không phải là những trận đánh theo kiểu chiến tranh cổ điển. Ta đã muốn áp đặt cho Việt Minh cách đánh này, mà chúng ta nghĩ là mình có ưu thế h