← Quay lại trang sách

Thay Lời Kết.

Qua tập hồi ức nhỏ này, chúng tôi hy vọng đã cung cấp được cho quý độc giả một số dữ kiện, tuy nhỏ nhoi, nhưng hoàn toàn trung thực, liên quan đến những biến cố dẫn đến sự sụp đổ của Chế Độ Đệ I Cộng Hòa Việt Nam. Làm sụp đổ hoàn toàn một sách lược đang phục vụ dân tộc hữu hiệu, phù hợp với tình trạng đất nước. Và tiếp theo đó là hàng chuỗi biến động kéo dài nhiều năm, tạo ra tình trạng bỏ ngõ miền Nam, trong lúc cuộc chiến Quốc-Cộng đang ở trong giai đoạn gay go có tính cách quyết định.

Đón bắt ngay thời cơ. Bắc Việt núp dưới bóng cờ ‘’mặt trận giải phóng miền nam’’, với sự trợ giúp của khối cộng, đưa lực lượng võ trang xâm nhập chiếm cứ nhiều vùng thôn quê, truy diệt các thành phần quốc gia chống cộng ở hạ tầng cơ sở xã ấp. Họ mở nhiều cuộc tấn công tàn bạo gây nhiều tổn thất vật chất và tinh thần cho Quân Đội và nhân dân miền Nam. Trong khi đó, tại Thành Thị cảnh xáo trộn xảy ra mỗi ngày. Tình hình an ninh chung suy đồi đến mức nguy ngập.

Tình trạng chín mất một còn của miền Nam đem đến cho Đồng Minh Hoa Kỳ cơ hội đưa quân vào ‘’cứu gỡ’’ và điều khiển cuộc chiến. Đất nước Việt Nam biến thành võ đài của cuộc đọ sức Tư Bản-Cộng Sản kéo dài gần 12 năm, vì sự tranh giành quyền lợi và ưu thế chiến lược của các siêu cường. Một cuộc đọ sức tàn khốc đã cướp đi sinh mạng của 58000 thanh niên Hoa Kỳ, gần 5000 thanh niên các nước Đồng Minh Thái Lan, Úc, Tân Tây Lan, Đại Hàn, chưa kể số bị thương tật, Việt Nam Cộng Hòa hơn 220000 Chiến Sĩ hy sinh chưa kể số bị thương tật, gần 1. 500000 thường dân bị chết và bị thương nặng, nhẹ. Tại miền Bắc, theo sự tiết lộ của tướng Võ nguyên Giáp, tính đến sau trận Tết Mậu Thân (1968) quân đội miền Bắc đã bị thiệt hại 800000 người, chưa tính đến số bộ đội bị thương và số thường dân bị tử vong và thương tật, số này có tài liệu nói đến con số trên 3000000 người. Riêng Hoa Kỳ còn phải gánh chịu 300000 người thương tật, và chỉ tiêu trung bình mỗi ngày 1. 500000 đô la cho chiến trường Việt Nam vào thời điểm 1972.

Và cuộc đọ sức kinh hoàng này chỉ được chấm dứt, sau khi đất nước Việt Nam nhỏ bé đã phải hứng chịu một số bom đạn nhiều gấp 3 lần rưỡi số bom đạn Hoa Kỳ đã sử dụng trong trận Đệ Nhị Thế Chiến, và sự thống trị của chủ nghĩa Cộng Sản trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

Sau khi đọc Bản Phúc Trình của Phái Đoàn Tìm Hiểu Sự Việc của Liên Hiệp Quốc về lời tố cáo vi phạm nhân quyền tại Việt Nam của chế độ Ngô Đình Diệm, Thượng Nghị Sĩ Thomas J. Dodd Chủ Tịch Ủy Ban Tư Pháp Thượng Viện Hoa Kỳ, đã viết thơ yêu cầu Thượng Nghị Sĩ Chủ Tịch Ủy Ban Nội Vụ cho phổ biến Phúc Trình này. Trong thơ có đoạn viết: ‘’Giờ đây chúng ta lại là nạn nhân của một sự lừa dối khác... ’’.

Chính sự lừa dối này và số người nhiều tham vọng nhưng ít lòng yêu nước, tự biến mình thành công cụ của các thế lực ngoại bang, đã đổ xuống trên đầu nhân dân Hoa Kỳ và nhất là nhân dân Việt Nam bất kể tôn giáo, đảng phái, Cộng Sản hay chống cộng, những thảm họa khủng khiếp kể trên.

Người Việt Nam luôn mang trong mình niềm Tự Hào là một Dân Tộc đã có hơn bốn ngàn năm Văn Hiến, một Dân Tộc có một kho tàng tinh thần vô giá: Luôn tôn trọng Lễ Giáo, Hiền Hòa, yêu chuộng Hòa Bình và lẽ Công Bằng.

Đặt trên nền tảng Tự Hào và Tinh Thần ấy, chúng tôi hy vọng những dữ kiện được ghi lại trong tập sách nhỏ này sẽ được quý độc giả, đặc biệt là quý sử gia, các nhà nghiên cứu đón nhận như những đốm sáng. Đốm sáng tuy rất nhỏ, nhưng chúng tôi tin rằng nó có thể giúp cho công trình tìm kiếm, khám phá những Sự Thật còn bị ẩn giấu, che đậy mà quý vị đang tiến hành, được dễ dàng hơn, bớt được phần nào khổ nhọc. Và từ khám phá ấy quý vị sẽ có những nhận xét, phê phán công bằng, chính xác về:

- Thực chất những biến động được diễn biến dưới nhiều hình thức, được khởi sự từ những ngày tháng cuối cùng của chế độ Đệ I Cộng Hòa và cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975...

- Hậu quả của những biến động ấy.

- Thủ phạm đã gây ra các biến động mở đầu những trang sử Việt Nam được viết bằng máu và nước mắt của hàng triệu con dân Việt Nam, của hàng trăm ngàn thanh niên, cô nhi quả phụ Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh. Và nó còn đem lại cho Hoa Kỳ mối nhục lịch sử: Lần đầu tiên bại trận kể từ khi lập quốc.

Theo thiển ý của chúng tôi, vì chỉ có những nhận xét, phê phán công minh của quý vị, mới có đủ sức mạnh:

- Xua tan màn khói ‘’lừa dối’’ đã che phủ Sự Thật từ bao nhiêu năm qua.

- Hóa giải nỗi oan khiên của bao oan hồn mà hình hài đã bị vùi lấp rải rác khắp nơi, từ thành thị, thôn quê đến núi rừng, sông biển Việt Nam.

- Tái tạo tình đoàn kết ruột thịt giữa mọi người Việt Nam bất kể tôn giáo, tín ngưỡng đảng phái, giai cấp từ Nam chí Bắc.

- Giúp cho các thế hệ mai sau thấy được Sự Thật, tránh được những sai lầm của cha ông, xóa bỏ được những hận thù vô bằng do một âm mưu thâm độc được cả bạn lẫn thù hợp lực tạo ra. Nhờ đó, các thế hệ này có thêm vô tư, sáng suốt, không biến mình thành công cụ cho bất cứ thế lực nào trong khi gánh vác trách nhiệm phục vụ Quê Hương, Dân Tộc hay Tập Thể.

Được như vậy, Dân Tộc Việt Nam mới có được nguồn sức mạnh có khả năng triệt tiêu thủ phạm tạo ra cuộc sống tối tăm, tù hãm, bất công triền miên cho Dân, cho Nước. Tình trạng Nghèo đói, Lạc hậu, Chậm tiến.

Nhờ đó, tương lai Đất Nước mới mong thoát khỏi vòng lệ thuộc, và đồng bào mới được bảo đảm không bị vướng mắc vào những hệ lụy bi thảm một cách oan uổng.

Ước gì con dân Việt Nam ở khắp nơi sớm được thấy ngày Đại Phúc ấy.

PHỤ BẢN

Phụ Bản 1

Tổ Chức, Hoạt Động

‘’Đoàn Công Tác Đặc Biệt’’

và Hiệu quả của

‘’Chính Sách Cải Tạo và Sử Dụng Những Người Kháng Chiến Cũ’’.

TỔ CHỨC: Đoàn Công Tác Đặc Biệt gồm 10 nhân viên, kể cả Trưởng Đoàn, chưa kể số cán bộ việt cộng đã chuyển hướng, được tổ chức thành 4 Ban:

- Ban Nghiên Cứu.

- Ban Tuyên Huấn.

- Ban Cải Tạo.

- Ban Quản Trị.

HOẠT ĐỘNG: Đoàn hoạt động theo một phương thức đặc biệt. Kỹ thuật khai thác, chế độ giam giữ cũng đặc biệt. Không giam giữ trong các nhà lao, không cùm, không còng. Không có chế độ sinh hoạt khác biệt giữa cán bộ của Đoàn với cán bộ cộng sản đã chuyển hướng.

Do phương pháp khai thác độc đáo, chế độ nhà tù đặc biệt chưa từng có, chính sách Cải Tạo và Sử Dụng Những Người Kháng Chiến Cũ đã thâu đạt kết quả gây ngạc nhiên cho mọi người.

Các cơ sở việt cộng tại các Tỉnh sau đây lần lượt bị phá vỡ trong một thời gian kỷ lục. (một năm)

Tỉnh đảng bộ Quảng Trị:

- Trần Quang (Quan): Thường vụ tỉnh đảng bộ Quảng Trị.

Đặc biệt, Quang được đảng bộ liên khu ủy 5 điều động phụ trách các lưới điệp báo hoạt động tại các thành phố thuộc liên khu ủy 5. Gồm các Tỉnh, Thành Phố từ Quảng Trị đến Phan Thiết và Cao Nguyên Trung Phần.

Các cán bộ cấp Huyện, Xã, bị phát hiện được giao cho Tỉnh Quảng Trị bắt và xử trí.

Tỉnh đảng bộ Quảng Nam:

- Nguyễn Tấn: Tỉnh ủy viên

- Nguyễn Ngạn: Bí thư huyện ủy miền núi.

- Nguyễn Thuấn: Huyện ủy viên

Danh sách một số cán bộ cấp huyện và xã được giao cho Ty Công An Tỉnh Quảng Nam bắt và xử trí.

Đảng bộ thành ủy Đà Nẵng:

- Hoàng minh Đức: Thành ủy viên

- Một số cán bộ nghiệp đoàn và học sinh vận.

Tỉnh đảng bộ Phú Yên:

- Trần (?)Độc: Bí thư tỉnh ủy Phú Yên.

Tỉnh đảng bộ Long An

- Thường vụ tỉnh ủy Long An, bị bắt trong lúc gặp cán bộ giao liên trong rạp chiếu bóng Đại Nam ở Đường Trần Hưng Đạo.

Tỉnh đảng bộ Thủ Biên:

- Nguyễn văn Lạc: Huyện ủy viên Thủ Biên.

- Nguyễn Năm, tự Năm Hồng: Huyện ủy viên Thủ Đức.

Tỉnh đảng bộ Phước Long:

- Chín Thinh: Bí thư tỉnh ủy Phước Long.

Tỉnh đảng bộ Cần Thơ:

Riêng tại Tỉnh Cần Thơ, Đoàn Công Tác Đặc Biệt đã đặt trụ sở tại đây một thời gian để truy bắt và hệ thống hóa tổ chức đảng bộ việt cộng Tỉnh này, sau đó giao cho Tỉnh Trưởng, Thiếu Tá Trần Cửu Thiên, tự xử trí. Tổ chức các khóa cải tạo tư tưởng.

Vì Đoàn Công Tác Đặc Biệt với số nhân viên chỉ có 10 người, kể cả Trưởng Đoàn, không đủ khả năng canh giữ, khai thác số cán bộ việt cộng bị phát hiện quá đông, nên tất cả danh sách cán bộ từ cấp huyện trở xuống, nhất là cấp xã phải giao cho các Tỉnh tự xử trí. Số cán bộ cấp Tỉnh bị bắt nhiều hơn số kể trên đây, vì quá nhiều và quá lâu ngày tôi (Dương Văn Hiếu) không nhớ hết.

Đặc khu ủy Sài Gòn-Chợ Lớn:

1.- Nguyễn vĩnh Nghiệp tức Sáu Tường: Cán bộ đặc khu ủy Sài Gòn.

Sau 1975 Sáu Tường là ủy viên thường vụ thành ủy thành phố Hồ chí Minh (Sài Gòn), trưởng ban tổ chức phụ trách chính sách đảng, nhưng ít lâu sau bị thất sủng, vì đảng bộ thành ủy cho rằng y đã được Mười Hương cài vào để phá hoại vì y đã cùng ở tù ‘’Mật Vụ Ngô Đình Cẩn-Dương Văn Hiếu’’ với Mười Hương. Mấy năm sau Sáu Tường mới được xác minh ‘’không có vấn đề’’, được phục hồi.

2.- Hàn tường Vũ tức Hai Vũ: Cán bộ đặc khu Sài Gòn. Sau khi việt cộng chiếm miền Nam. Hai Vũ được chọn và đắc cử vào Quốc Hội khóa 8, được phát thẻ 40 năm tuổi đảng, nhưng rồi cũng bị thất sủng. Hai ngày trước khi lên máy bay đi Hà Nội họp phiên đầu tiên của Quốc Hội, y được ban tổ chức gọi lên bảo làm đơn xin rút tên vì khi ở tù Mật Vụ có vấn đề nghi vấn.

3.- Tư Hùng: Cán bộ đặc khu Sài Gòn. Sau vụ đảo chánh 1963, được trả tự do, y tái hoạt động. Trong trận Tết Mậu Thân, y đã lái chiếc xe chở toán biệt động tấn công Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn.

4. - Chi ủy đảng bộ việt cộng trong Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam.

Toàn bộ chi ủy việt cộng hoạt động trong Tổng Liên Đoàn Lao Công của ông Trần Quốc Bửu, đã bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt. Số cán bộ thuộc chi ủy này nắm giữ hầu hết các chức vụ điều hành hoạt động của Tổng Liên Đoàn, vì vậy đã bị ông Trần Quốc Bửu phản ứng rất mãnh liệt.

Sau khi chi ủy cộng sản tại Tổng Liên Đoàn Lao Công bị bắt, ông Trần Quốc Bửu đã gởi thơ cho ông Ngô Đình Nhu. Bức thơ có nội dung đại ý như sau:

Bác Sĩ Trần Kim Tuyến đã ra lệnh cho Dương Văn Hiếu đến Tổng Liên Đoàn Lao Công ở Đường Lê Văn Duyệt Sài Gòn, lấy danh nghĩa bắt việt cộng để khủng bố Tổng Liên Đoàn Lao Công. Tuyến có mục đích nói Tổng Liên Đoàn Lao Công dung chứa việt cộng nằm vùng để sách động đình công bãi thị chống Chính Phủ. Vậy giữa Tôi và Tuyến ông Cố Vấn chọn lấy một người mà thôi. Trong thơ ông còn quả quyết, số cán bộ của Tổng Liên Đoàn Lao Công bị bắt đã bị đánh đập tàn nhẫn, máu me đầy cả mặt và ướt cả áo, dân chúng bu quanh xem rất bất mãn.

Sau khi đọc thơ của ông Trần Quốc Bửu, ông Ngô Đình Nhu đã phê: ‘’Bảo Dương Văn Hiếu đừng nghe Trần Kim Tuyến lấy danh nghĩa bắt việt cộng để khủng bố Trần Quốc Bửu. Phải làm bản kiểm thảo sự việc đã xảy ra và phúc trình ngay’’. Bút phê trên đã được văn phòng ông Nhu trích gửi cho Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung.

Nhận được văn thư của văn phòng ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu với trích dẫn bút phê ghi trên, tôi (Hiếu) đã làm một phúc trình dài ghi rõ mọi chi tiết sự việc, liệt kê danh sách 11 nhân viên Tổng Liên Đoàn Lao Công bị bắt đang giữ nhiệm vụ điều hành các Ban thuộc Tổng Liên Đoàn như: Văn phòng, Kiểm tra, Tổ chức, Giám thị v.v... Tất cả số nhân viên này đều nằm trong tổ chức chi ủy đảng bộ việt cộng tại Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam của ông Trần Quốc Bửu. Kèm theo bản tự khai của họ, họ đã công nhận đã hoạt động trong hệ thống tổ chức đảng ủy khu ủy việt cộng Sài Gòn-Chợ Lớn.

Một điểm rắc rối làm cho Bác Sĩ Trần Kim Tuyến bị ông Trần Quốc Bửu tố oan, và ông Ngô Đình Nhu thì lại nghĩ rằng tôi (Hiếu) đã nghe Bác Sĩ Tuyến, lấy cớ bắt việt cộng dằn mặt ông Bửu.

Sự thể xảy ra như vậy là vì trên mặt pháp lý, Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung không phải là một cơ quan chính thức giữ phần an ninh của Sài Gòn, nên khi công tác, phải dùng Sự Vụ Lệnh và giấy mời của Sở Nghiên Cứu Chính Trị và Xã Hội của Bác Sĩ Trần Kim Tuyến để mời hoặc bắt giữ các nghi can.

Để giải tỏa sự hiểu lầm giữa Bác Sĩ Tuyến và ông Bửu với Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung, ông Cố Vấn Nhu đã chấp thuận đề nghị của tôi (Hiếu), cho lập một Tiểu Ban điều tra nội vụ gồm thành phần như sau:

a.- Đại diện ông Trần Quốc Bửu.

b.- Đại diện Sở Liên Lạc. (Đại Tá Lê Quang Tung)

c.- Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung.

Đến làm việc tại Trại Lê Văn Duyệt. Mười một nhân viên Tổng Liên Đoàn Lao Công được gọi lên đối chất trước Ban Điều Tra và để Đại Diện ông Bửu trực tiếp hỏi các bị can. Kết quả cả 11 can phạm đều thú nhận họ là đảng viên cộng sản của chi ủy đảng bộ hoạt động trong Tổng Liên Đoàn Lao Công. Họ cũng xác nhận không hề bị tra tấn đánh đập gì như ông Bửu đã viết trong thư gửi cho ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu.

Biên bản buổi làm việc của Tiểu Ban điều tra được trình cho ông Cố Vấn Nhu và các giới chức liên hệ, đã giải tỏa được sự hiểu lầm của nhiều phía.

5.- Chi ủy việt cộng phụ trách Chợ Bến Thành.

6.- Chi ủy việt cộng phụ trách Bến Tàu Khánh Hội.

7.- Các cơ sở sinh viên hoạt động trong tổ chức hội sinh viên yêu nước, hội ký giả yêu nước. Phần lớn số sinh viên và ký giả chỉ phải dự một khóa cải tạo rồi được trả tự do theo lệnh của Tổng Thống và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu.

Lần đầu tiên Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung mời một số Giáo Sư và anh chị em sinh viên các liên quan đến hoạt động trí vận vào Trung Tâm Lê Văn Duyệt. Chúng tôi giới thiệu Chính Sách Chiêu Mời Và Sử Dụng Những Người Kháng Chiến Cũ về hợp tác xây dựng chế độ Dân Chủ, Tự Do ở miền Nam của ông Ngô Đình Cẩn.

Thoạt tiên nghe chúng tôi giới thiệu như vậy, phần đông các anh chị em sinh viên có cử chỉ và thái độ ngạc nhiên, đối phó, tránh né, hỏi lại chúng tôi: Xin cho biết anh chị em bị mời về đây vì tội gì?

Tôi (Hiếu) đã giải thích và mạn đàm với họ, sau đó đưa họ đi tham quan sinh hoạt của Trung Tâm và trò chuyện đến hết giờ hành chánh thì cho tất cả các Giáo Sư và anh chị em sinh viên ra về, sau khi đã ấn định ngày gặp nhau lại tại Trung Tâm.

Điều làm cho họ ngạc nhiên nhất là tại sao đã bị bắt về tội hoạt động cho cộng sản mà không bị giam giữ, lại cho về nhà, rồi lại quy định ngày giờ đến sinh hoạt tại Trung Tâm?

Trong buổi sinh hoạt đầu tiên tôi (Hiếu) yêu cầu một Nữ Giáo Sư hai Trường Gia Long và Đức Trí là chị Bình Minh và một nữ sinh viên tên Hòa, con ông Nguyễn Xuân Quyền, Tổng Giám Đốc Điền Địa Việt Nam Cộng Hòa, cho biết lý do nào đã thúc đẩy các chị hoạt động cho cộng sản? Đề nghị cho biết động cơ chính xuất phát từ tư tưởng, để cùng tranh luận.

Tôi (Hiếu) cũng cho họ biết phương thức sinh hoạt của Trung Tâm là hai bên được tự do đưa ra những đề tài, những vấn đề mà mình thấy cần trao đổi, cần tranh luận.

Thỉnh thoảng để cổ súy cho cuộc tranh luận được sôi nổi, hào hứng, tôi (Hiếu) nói: Các anh chị có lối tranh luận và lý luận một chiều giống hệt như cán bộ, công chức của Mỹ Ngụy, hễ ai ý kiến khác mình thì quy kết tư tưởng người ta là phản động, là cộng sản ngay. Thế là họ cười ầm cả lên và từ đó các Giáo Sư và anh chị em sinh viên rất có cảm tình với Đoàn Công Tác. Các lần trao đổi, thảo luận tiếp theo, tư tưởng các Giáo Sư và anh chị em sinh viên rất cởi mở. Họ rất ngạc nhiên về phương cách làm việc của Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung và câu trả lời của tôi là: Đó là chính sách mới của ông Ngô Đình Cẩn, ‘’Chiêu Mời Và Sử Dụng Những Người Kháng Chiến Cũ’’ về hợp tác xây dựng chế độ dân chủ, tự do ở miền Nam.

Mỗi tháng, các Giáo Sư và anh em sinh viên tập hợp tại Trung Tâm Lê Văn Duyệt một lần để sinh hoạt chính trị và tổ chức sinh hoạt văn nghệ hết sức vui vẻ.

Riêng một số gồm 7 Giáo Sư, tôi (Hiếu) đã xin Tổng Thống tiếp kiến họ vào buổi chiều một ngày (tôi không còn nhớ chính xác ngày nào) trong tháng 2.1962. Sau một giờ chuyện vãn rất thân mật, Tổng Thống tiễn họ ra đến sân cỏ trước Dinh còn đứng nói chuyện với họ thêm 30 phút nữa.

Đảng bộ việt cộng liên khu ủy 5.

(gồn các Tỉnh từ Quảng Trị đến Phan Thiết và Cao Nguyên Trung Phần)

1.- Tư Lung: Thường vụ liên khu ủy 5 việt cộng bị bắt năm 1958 tại Đường Cống Quỳnh Sài Gòn. Y là cán bộ cao cấp nhất của việt cộng tại miền Nam bị bắt. Nhiệm vụ của y là chỉ đạo và điều hành các tỉnh đảng bộ thuộc liên khu 5. Mỗi lần đi công tác, y thường đi với một cơ sở tên là Đỗ Hải, cùng với vợ và 2 con nhỏ của Đỗ Hải, dưới hình thức gia đình để làm bình phong, y đóng vai ông nội.

2.- Nguyễn Lâm tự Bé: Trưởng ban điệp báo liên khu 5, chỉ huy ngành điệp báo tại các thành phố, bị bắt tháng 12.1957 tại Sài Gòn.

3.- Trần Quang tức Quan: Thường vụ tỉnh ủy việt cộng Quảng Trị. Y được đảng bộ liên khu 5 điều động về phụ tá cho Nguyễn Lâm tự Bé, hoạt động điệp báo tại các thành phố. Y là trưởng ty công an việt cộng hồi kháng Pháp.

Cục tình báo chiến lược việt cộng tức nha liên lạc (cục trưởng Trần Hiệu)

1.- Trần quốc Hương tức Mười Hương tự Trần ngọc Trí. Trình độ đảng: Khu ủy viên, là chính ủy, đặc phái đại diện cục tình báo chiến lược việt cộng vào Nam trực tiếp chỉ đạo, kiểm tra và tổ chức ngành tình báo chiến lược và hai nước Miên-Lào. Đồng thời phối hợp với ban địch tình của cục R để chia sẻ tin tức hoạt động hậu địch. Mục đích giúp cho trung ương đảng hoạch định chiến thuật, chiến lược đúng, đối phó với Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh.

Nhưng vào các năm 1957-1958, tình hình biến chuyển quá nhanh mà phần bất lợi về phía cộng sản. Ngành tình báo chiến lược và đảng bộ việt cộng liên khu ủy 5 đã bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung đánh phá ác liệt, họ tiến về phía Nam, đánh phá đặc khu ủy Sài Gòn-Chợ Lớn và các Tỉnh Nam Phần, gây tổn thất nặng nề cho đảng bộ việt cộng tại miền Nam.

Trước tình hình nguy ngập ấy, Trần quốc Hương quyết định phải trở về Bắc hội diện với trung ương mới báo cáo được tường tận để trung ương có thể đưa ra phương sách đối phó cụ thể và thích hợp. Y chưa kịp đi thì đã bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt tại Sài Gòn, tháng 6.1958.

2.- Trần tấn Chỉ tức Thư Sinh: Nguyên phó trưởng ban tình báo Hải Phòng, Bắc Việt. Đương sự thuộc loại cán bộ có kinh nghiệm nghề nghiệp cao trong ngành tình báo chiến lược, có trình độ văn hóa cao, lanh lẹ, thông minh. Y được trung ương chọn cho theo học lớp Hoa ngữ để đào tạo cấp tốc một số thông dịch viên cho các cơ quan trung ương hầu đáp ứng nhu cầu mới. Trần tấn Chỉ trở thành cán bộ thông dịch duy nhất của cục trưởng cục tình báo với các cố vấn Trung Cộng.

Sau hiệp định Genèva, Trần Hiệu, cục trưởng chủ trương vét số tiểu tư sản, trí thức, có văn hóa để tung vào miền Nam cho dễ chức nghiệp hóa và hợp với sinh hoạt của Thành phố. Vì vậy Trần tấn Chỉ theo đợt di cư năm 1954 vào Sài Gòn, và đã xin được vào làm việc tại cơ quan USIS của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Y bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt năm 1958 trên đường từ Cơ Quan USIS, đi về nhà sau giờ làm việc.

3.- Nguyễn đức Quảng tức Minh Vân: Quân hàm Đại Tá, nguyên là trưởng ban tình báo Hồng-Quảng, được cục tình báo chiến lược trung ương tung vào Nam theo làn sóng di cư năm 1954, Y bị bắt tháng 1.1958, được giải ra Trung Tâm Cải Tạo Tòa Khâm (cơ sở Tòa Khâm sứ Trung Kỳ cũ) ở Huế.

Sau khi chế độ Đệ I Cộng Hòa bị lật đổ, Minh Vân cùng với số ‘’Tù Mật Vụ’’ được giải giao về Nha Tổng Giám Đốc Công An Cảnh Sát Sài Gòn và được trả tự do giữa năm 1964. Minh Tâm trở về ngành cũ hoạt động, sau khi cộng sản thôn tính miền Nam, y cũng đã phải chịu chung số phận như các ‘’Tù Mật Vụ’’ khác, bị đặt nhiều nghi vấn, bị kiểm thảo và cuối cùng cho về hưu với lý do: ‘’lịch sử chính trị của đương sự có liên can đến ‘’Tù Mật Vụ Ngô Đình Cẩn và Dương Văn Hiếu’’.

4.- Trang công Doanh, tức Đại Tá Văn Quang: Cán bộ kỳ cựu của ngành tình báo chiến lược việt cộng. Đã được tham dự khóa huấn luyện đặc biệt về tình báo tại cục trung ương do các cố vấn Trung Cộng hướng dẫn. Trình độ văn hóa cao, thông minh, lanh lợi, đã được tung vào hoạt động hậu địch thời kháng chiến chống Pháp, đạt thành tích rất cao.

Sau hiệp định Genèva, Đại Tá Văn Quang được trung ương điều vào Sài Gòn theo làn sóng di cư 1954. Cơ sở địa phương có nhiệm vụ tìm phương cách chức nghiệp hóa cho y vào đảng bộ đặc khu ủy Sài Gòn-Chợ Lớn. Cơ sở này đã xin được cho y vào làm việc trong Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn. Y bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt trên đường đi tới Cơ Quan USOM của Tòa Đại Sứ Mỹ để làm việc.

Đại Tá Văn Quang bị bắt chưa được nửa ngày thì Đại Sứ Hoa Kỳ Elbridge Durbrow xin gặp Tổng Thống Diệm và đưa ra lời phản kháng việc Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt giữ nhân viên Tòa Đại Sứ mà không cho biết lý do, đồng thời yêu cầu Tổng Thống cho biết Văn Quang đã phạm tội gì? Và ông ngồi đợi văn phòng Tổng Thống để xin được coi hồ sơ tội trạng của Trang công Doanh tức Văn Quang.

Mặc dù Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung đã lập hồ sơ đương sự với đầy đủ tin tức và những lời khai của đồng bọn phát giác về hoạt động tình báo của y, nhưng muốn chứng minh Trang công Doanh, tức Đại Tá Văn Quang đích thực phạm tội hoạt động gián điệp, để Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ không bị ảnh hưởng những luận điệu xuyên tạc của các phe phái đối lập, của những viên chức mang sẵn ác cảm với Đoàn, bằng lời khai tự thú của y trên giấy trắng mực đen. Phiền một nỗi là y bị cảm cúm chưa khỏi lại thêm cơn sốt vì bệnh hoa liễu hành, nhưng vì hoạt động gián điệp của y đã quá rõ ràng nên khi được tôi (Hiếu) cho gặp những cơ sở đã bị bắt, y tự động xin giấy mực khai báo và nhìn nhận y đã được cục trưởng Trần Hiệu tung vào miền Nam hoạt động gián điệp. Hồ sơ được đưa vào trình Tổng Thống và Đại Sứ Mỹ được thông báo tại chỗ, lý do Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt giữ Trang công Doanh.

Cũng như các đồng bọn. sau ngày đảo chánh 1.11.1963, Trang công Doanh được đưa từ Trung Tâm Cải Tạo Tòa Khâm Huế về Nha Tổng Giám Đốc Công An Cảnh Sát Sài Gòn và được trả tự do vào giữa năm 1964.

Trở về ngành cũ, Tình Báo Chiến Lược, hoạt động lại rất hăng say. Tuy cũng bị kiểm thảo, nhưng vì nhu cầu công tác lúc bấy giờ, đương sự vẫn được trọng dụng. Khi việt cộng tiến chiếm Cao Mên, Trang công Doanh tức Đại Tá Văn Quang được trung ương chỉ định sang chỉ huy ngành tình báo tại Nam Vang. Nhưng sau khi đã củng cố chính quyền vững mạnh rồi, năm 1980, trung ương đảng cộng sản tiến hành kế hoạch trong sạch đảng, chấn chỉnh nội bộ, củng cố đảng, tất cả các ‘’Tù Mật Vụ Ngô Đình Cẩn-Dương Văn Hiếu’’ đều bị đặt thành vấn đề nghi vấn, thế là Trang công Doanh tức Đại Tá Văn Quang bị cho về hưu non.

5.- Lê thanh Đường: Phái khiển tình báo, tình báo chiến lược, được trung ương tung vào Nam theo đợt di cư 1954, được chức nghiệp hóa nhân viên Nha Tổng Giám Đốc Công Chánh Sài Gòn, bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt năm 1959.

6.- Tôn Hoàng: Phái khiển tình báo, tình báo chiến lược Hà Nội, đã hoạt động hậu địch vùng Bắc Hà Nội thời kháng chiến chống Pháp, vào Nam theo đợt di cư 1954. Y là cựu công chức thời Pháp, thành phần tiểu tư sản, trình độ văn hóa cao, rất thích hợp với những hoạt động tại thành phố. Chức nghiệp hóa Chánh Sự Vụ tại Bộ Tài Chánh, bị bắt tại Sài Gòn năm 1959.

7.- Mạc Ly: Phái khiển tình báo tình báo chiến lược, vào Nam dịp di cư năm 1954. Nguyên trước được bố trí làm cán bộ giao thông trong cụm tình báo chiến lược vùng Bắc Hà Nội, bị bắt năm 1959 tại Sài Gòn.

8.- Dư văn Chất: Nguyên trưởng ban tình báo vùng Bắc Hà Nội, hoạt động hậu địch thời kháng chiến chống Pháp trước năm 1954.

Y đã tham dự rất nhiều trong các âm mưu tiêu diệt các thành phần đảng phái quốc gia ở Hà Nội hồi ông Hồ chí Minh kêu gọi đoàn kết thành lập chính phủ liên hiệp.

Dư văn Chất được Trần Hiệu cục trưởng tình báo chiến lược, việt cộng tung vào Nam theo phong trào di cư 1954 để làm trưởng lưới. Y đã tìm cách chức nghiệp hóa vào làm nhân viên Tổng Nha Công Chánh và Giao Thông, Sở Tràng Tiền Sài Gòn.

Y bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt ngày 24.11.1958 tại Sài Gòn giam tại trại Vân Đồn rồi chuyển sang Trung Tâm Cải Tạo Lê Văn Duyệt, sau cùng y được đưa ra Trung Tâm Cải Tạo Tòa Khâm Huế.

Sau cuộc đảo chánh 1.11.1963, Tướng Mai Hữu Xuân Tân Tổng Giám Đốc Công An Cảnh Sát Sài Gòn của chính quyền Dương Văn Minh ra lệnh giải Dư văn Chất và đồng bọn thuộc các ngành tình báo khu 5, tình báo chiến lược, cục 2 quân báo trung ương việt cộng về Tổng Nha Công An Cảnh Sát Sài Gòn. Tại đây, bọn y được trả tự do vào tháng 6 năm 1964.

Được tự do, Dư văn Chất trở ra mật khu nhiều lần và nhận công tác hoạt động lại, y đã tham dự việt cộng tấn công vào Sài Gòn hồi Tết Mậu Thân cũng như đã hướng dẫn tiền quân việt cộng vào chiếm Sài Gòn ngày 30.4.1975.

Sau 30.4.1975 Dư văn Chất được tuyển chọn giữ chức vụ ủy viên thành ủy đảng bộ thành phố Hồ chí Minh kiêm nhiệm chức trưởng ban tuyên huấn thành ủy.

Nhưng chưa được bao lâu, trong đợt thanh lọc đảng năm 1980, Dư văn Chất đã bị tước luôn cả hai chức vụ thành ủy viên và trưởng ban tuyên huấn thành ủy Hồ chí Minh. Đương sự chỉ còn được giữ lại duy nhất tấm thẻ 40 năm tuổi đảng, với lý do được nêu lên là trong thời gian bị bắt, bị giam giữ, y đã phụ trách tờ Bích Báo ‘’Chuyển Hướng’’ cổ võ cho chánh sách Chiêu Mời Và Sử Dụng Những Người Kháng Chiến Cũ của Mật Vụ Ngô Đình Cẩn.

9.- Bảo Việt: Phái khiển cục tình báo chiến lược, cũng được tung vào Nam dịp di cư 1954, bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt tháng 11.1957.

10.- Trịnh thiện Hùng, tự Hát Hét: Nguyên trưởng ban tình báo Nam Định, tốt nghiệp khóa chính trị trường chinh năm 1951-1952, được đưa vào Nam hoạt động. Y bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt năm 1958.

11.- Hoàng Thành: Phái khiển cục tình báo chiến lược.

12.- Nguyễn Tam: Phái khiển cục tình báo chiến lược, cấp trưởng ban.

13.- Nguyễn văn Thế: Phái khiển cục tình báo chiến lược.

14.- Hoàng Hồ: Phái khiển cục tình báo chiến lược, chủ nhiệm tuần báo Trinh Thám ở Sài Gòn. (Thời Đệ II Cộng Hòa, Hoàng Hồ là dân biểu Quốc Hội)

15.- Nguyễn văn Hội: Trưởng phòng giao thông cục tình báo chiến lược. Trước năm 1954, y là trưởng ban điệp báo của liên khu ủy 5, sau năm 1954 y được trung ương điều động về làm trưởng phòng giao thông cục tình báo chiến lược. Nhiệm vụ của hội là tổ chức hệ thống giao thông của cục tình báo chiến lược tại miền Nam và hai nước Miên, Lào.

16.- Nguyễn văn Phận tự Minh: Trung tá, nguyên trung đoàn trưởng thủ biên, tập kết ra Bắc, được chuyển ngành qua cục tình báo chiến lược. Sau khi được dự lớp huấn luyện tình báo, được đưa trở lại miền Nam hoạt động với nhiệm vụ: Tĩnh thì hoạt động tình báo. Động thì chỉ huy lực lượng quân sự vùng Thủ-Biên.

Địa bàn giao thông tình báo chiến lược.

1.- Địa bàn giao thông Quảng Trị.

2.- Địa bàn giao thông Huế.

3.- Địa bàn giao thông bản lề Đà Nẵng.

4.- Địa bàn giao thông Sài Gòn.

Cán bộ giao thông tình báo chiến lược bị bắt

1.- Tư Đặng: Địa bàn bản lề Đà Nẵng.

2.- Bích: Địa bàn Huế.

3.- Tân: Địa bàn Quảng Trị.

4.- Quí tức Độ: Địa bàn Sài Gòn.

Cục 2 quân báo việt cộng.

(Tổ chức quân báo việt cộng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa)

Đại Tá Lê Câu: Chỉ huy cục 2 quân báo việt cộng, căn cứ địa đóng tại vùng núi Tỉnh Pleiku, thuộc Cao Nguyên Trung Phần, có một tiểu đội võ trang bảo vệ, có điện đài để liên lạc với cục trưởng, Đại Tá Lê trọng Nghĩa.

Trước 1954, Lê Cầu là Thiếu Tá quân báo phụ trách các lưới quân báo việt cộng hoạt động trong khu vực liên Tỉnh: Bình-Trị-Thiên-Quảng-Đà, tức là các Tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và Đà Nẵng.

Bị bắt năm 1961 khi y đột xuất từ căn cứ về Sài Gòn để thu thập tài liệu tại nhà Phạm bá Lương, Công Cán Ủy Viên Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa thời kỳ ông Vũ Văn Mẫu làm Ngoại Trưởng. Đương sự bị đưa ra Côn Đảo.

Năm 1975 khi việt cộng đã chiếm được miền Nam, các phạm nhân tại Côn Đảo tôn Đại Tá Lê Câu làm chúa đảo. Ủy ban tiếp quản Sài Gòn tổ chức lễ đón chào Đại Tá Lê Câu từ Côn Đảo trở về Sài Gòn rất trọng thể. Trung ương đảng cử Lê Câu giữ chức tổng thanh tra ngành cảnh sát công an. Được ít năm sau Đại Tá Lê Câu bị thất sủng vì cục bảo vệ đảng thẩm tra quá trình lịch sử chính trị của đương sự đã đặt nhiều nghi vấn về y, vì có liên hệ đến ‘’Tù Mật Vụ Ngô Đình Cẩn-Dương Văn Hiếu’’.

Đại Tá Lê Câu đã bị khai trừ khỏi đảng, tước hết quyền lợi, y phải ngồi và lốp xe tại Đường Trần Quốc Toản Sài Gòn và đi buôn củi để kiếm sống.

Cán bộ thuộc cục 2 quân báo bị bắt.

1.- Đại Tá: Lê Câu, chỉ huy cục 2 quân báo miền Nam. (lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa)

2.- Thiếu Tá: Trần quang Tính, Nguyễn văn Thiện, Trương Thành, cựu trưởng ban.

3.- Trung tá: Lê thiên Tào, Nguyễn Tiến, Trần thị Mỹ tức Đinh thị Vân.

4.- Phái khiển: Trần ngọc Hiền, em Trung Tá Việt Nam Cộng Hòa Trần Ngọc Châu, Tỉnh Trưởng Kiến Hòa.

5.- Đại úy: Tạ Hẵn

6.- Thiếu Úy: Lê hữu Thúy, Trưởng Phòng An Ninh Quân Đội (điệp viên)

7.- Đại Úy (VNCH): Nguyễn văn Nam, nội tuyến.

Thường thì Trung Úy Đạt bên Nha An Ninh Quân Đội An Ninh Quân Đội của Đại Tá Đỗ Mậu, vẫn sang liên lạc với Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung để xin các tài liệu liên quan đến các sĩ quan hoạt động cho việt cộng để theo dõi và xử trí. Vì vậy mà vô tình khi tài liệu đến tay Thiếu Úy Lê hữu Thúy, thì chính y đã thông báo, hoặc báo động bằng một hình thức nào đó như vô tình để cho chạy. Sau khi Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung phát hiện Lê hữu Thúy là một điệp viên của cục 2 quân báo, tôi đã trực tiếp trình Tổng Thống xin phép được bắt y cách kín đáo để điều tra. Kết quả là số sĩ quan như Trung Úy Thịnh làm ở Phòng 1 Bộ Tổng Tham Mưu đã cầu cứu bên tình báo chiến lược liên lạc với xứ ủy, xin giao liên dẫn cả gia đình y ra mật khu Bời Lời, vì y sợ Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt.

Riêng Đại Úy Nguyễn văn Nam, đã bị một nữ sĩ quan quân báo mua chuộc, y thị đã mua cho Đại Úy Nam một xe Peugeot 403 mới. Khi Thiếu Úy Lê hữu Thúy bị bắt, Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung mới kiểm tra lại tất cả các tin tức tài liệu đã phổ biến cho Trung Úy Đạt và An Ninh Quân Đội, như Phòng 1 Bộ Tổng Tham Mưu, Phòng Bản Đồ Bộ Tổng Tham Mưu, một số sĩ quan phục vụ tại Quân Đoàn III, bằng cách nhờ Đại Tá Phước Trưởng Phòng 2 xem lại thì Đại Tá Phước cho biết: Số sĩ quan có tên trong danh sách do Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung gửi tới vì bị tình nghi hoạt động cho tình báo việt cộng, đã đào ngũ hết. Lê hữu Thúy được tra hỏi về số sĩ quan bên Quân Đội đào ngũ có phải do ý thông báo cho họ biết hoạt động cộng sản của họ đã bị bại lộ không? Đương sự nhất mực khai không biết gì hết.

Cũng như vụ bắt chỉ ủy việt cộng ở Tổng Liên Đoàn Lao Công của ông Trần Quốc Bửu, vụ bắt Lê hữu Thúy, Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung đã bị Đại Tá Đỗ Mậu Giám Đốc Nha Quân Đội phản ứng mạnh. Trước hết ông vào gặp Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống kiêm Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng Nguyễn Đình Thuần, đả kích nặng nề Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung như: Ỷ thế làm phách không coi ai ra gì, bắt cóc cả sĩ quan An Ninh Quân Đội, không chịu hợp tác cho biết Lê hữu Thúy bị bắt vì tội gì v.v... mục đích gây cho ông Thuần ác cảm với Đoàn Công Tác Đặc Biệt để ông Thuần hậu thuẫn cho ông trước Tổng Thống. Sau đó ông vào trình Tổng Thống: Dương Văn Hiếu bắt cóc Thiếu Úy Lê hữu Thúy mà không báo, cũng không cộng tác với Nha An Ninh Quân Đội. Nghe Đại Tá Đỗ Mậu trình bày xong, Tổng Thống nói: Ông Hiếu trước khi bắt Lê hữu Thúy có xin phép tôi. Tôi quên chưa nói cho Đại Tá biết. Nghe nói hắn (Thúy) làm gián điệp cho Hà Nội, Hiếu có trình tôi hồ sơ của Lê hữu Thúy.

Những điều kể trên đây đã được Tổng Thống nói với tôi khi tôi vào trình một số công việc khác.

Từ sau vụ Lê hữu Thúy bị bắt vì sự liên lạc về công tác giữa Nha An Ninh Quân Đội và Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bị cắt đứt hẳn.

Lê hữu Thúy được giải ra Huế để điều tra thêm, vì y có liên hệ đến số cán bộ tình báo đang bị giam tại đó.

Sau ngày 1.11.1963, Lê hữu Thúy được trả tự do, y trở lại tiếp tục hoạt động cho việt cộng.

Năm 1969 Lê hữu Thúy bị bắt cùng với Vũ ngọc Nhạ, cố vấn của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu về tội hoạt động cho tình báo chiến lược việt cộng. Lúc đó Lê hữu Thúy đã được Nhạ giới thiệu vào làm Chánh Sự Vụ Bộ Chiêu Hồi.

Bộ phận giao thông đường thủy của cục 2 quân báo việt cộng.

1.- Thiếu Úy: Đặng An, tên thật Trương văn Quí.Thuyền trưởng

2.- Trung Úy: Hà Phượng, thuyền phó. Trần Đáng, Trần Tâm, Trần Di, tổ viên.

Bộ phận giao thông đường thủy gồm 5 thành viên trên đây, dân gốc Phú Yên, làm nghề đánh cá biển, đã qua khóa huấn luyện tại cục 2 về ngành quân báo và giao thông. Các đương sự bị bắt tại bờ biển Đà Nẵng với vũ khí và điện đài.

Từ trước, hai ngành tình báo chiến lược và quân báo của việt cộng vẫn tự hào rằng: Tổ chức điệp báo của họ rất khoa học: ‘’đơn tuyến, chia cách, nhẹ nhõm, bảo mật đến mức tối đa’’, và rằng: Các Cơ Quan An Ninh của Việt Nam Cộng Hòa, nhất là Công An Cảnh Sát không phải là đối tượng của họ.

Vì cao ngạo như thế nên khi các cán bộ chỉ huy hai ngành tình báo chiến lược và quân báo của họ bị bắt, toàn bộ tổ chức tình báo chiến lược của họ bị sụp đổ, kéo theo cả hệ thống đảng bộ liên khu ủy 5 và một phần xứ ủy nam bộ. Phạm Hùng, ủy viên bộ chính trị, trưởng ban miền nam phải xin triệu tập bộ chính trị để nghe y báo cáo về tình hình miền Nam.

Kết quả, Trần Hiệu cục trưởng cục tình báo chiến lược, tức nha liên lạc, bị hạ tầng công tác với lý do: Yếu kém về kỹ thuật, vụng về, sơ hở về tổ chức nên bị địch phá vỡ, cán bộ bị bắt. Và kể từ cuối năm 1959, Đại Tá Lê trọng Nghĩa kiêm nhiệm luôn cục tình báo chiến lược để sắp xếp tổ chức lại.

Đại Tá Lê trọng Nghĩa là phe cánh của Phạm Hùng, nên nhân cơ hội xảy ra sự kiện màng lưới tình báo chiến lược bị phá, Phạm Hùng với tư cách ủy viên bộ chính trị, trưởng ban đặc trách miền nam, đổ hết lên đầu Trần Hiệu để có cớ hạ tầng công tác y và cho phe cánh của mình là Đại Tá Lê trọng Nghĩa nắm luôn quyền chỉ huy màng lưới tình báo chiến lược.

Nhưng rồi Đại Tá Nghĩa cũng chẳng hơn gì Trần Hiệu, cũng mang bệnh chủ quan, không giữ được sự kín đáo, thận trọng đúng với đòi hỏi nghiệp vụ ‘’tình báo’’. Nhờ vậy mà Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung đã phá luôn được mang lưới quân báo của Đại Tá Lê trọng Nghĩa.

Điệp viên Phạm bá Lương bị phát giác.

Trong phần kể về việc đánh phá màng lưới quân báo của việt cộng ở trên, tôi đã nói: Đại Tá Lê Câu, chỉ huy cuộc 2 quân báo, tức tổ chức quân báo của việt cộng hoạt động tại miền Nam, bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt khi y đột xuất đến nhà Phạm bá Lương Công Cán Ủy Viên Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa tại Sài Gòn, thời ông Vũ Văn Mẫu làm Bộ Trưởng để thu thập tài liệu.

Việc khám phá ra Phạm bá Lương là điệp viên của việt cộng diễn tiến như sau:

Đại Tá Lê trọng Nghĩa, cục trưởng cục quân báo trung ương điều động Thiếu Tá Trần Quang Tính vào miền Nam. Trước khi lên đường, Thiếu Tá Tính đến văn phòng cục chào từ biệt Đại Tá Nghĩa và nhận thêm chỉ thị mới.

Trên bàn giấy Đại Tá nghĩa có sẵn bản báo cáo từ miền Nam gửi về kèm theo nguyên bản ‘’Kế Hoạch Kinh Tế Stanley-Vũ Quốc Thúc’’. Đại Tá Nghĩa chỉ vào bản kế hoạch khoe: Cục chúng ta có cơ sở rất quan trọng cung cấp cả kế hoạch Kinh Tế của miền Nam do Bạch Cung yểm trợ. Kế hoạch được các chuyên gia kinh tế của Mỹ do Tiến Sĩ Kinh Tế Stanley được Tòa Bạch Ốc gửi qua giúp Diệm cùng soạn thảo với các chuyên gia kinh tế của miền Nam do Vũ Quốc Thúc hướng dẫn. Vì vậy kế hoạch được gọi là ‘’Kế Hoạch Kinh Tế Stanley-Vũ Quốc Thúc’’.

Thiếu Tá Trần quang Tính vào Nam được ít lâu thì bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt. Đương sự đã báo cáo chi tiết điều mà chính y đã mắt thấy tai nghe lúc đến chào biệt Đại Tá Nghĩa trước khi lên đường vào Nam.

Từ sự kiện này, Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung đã khẩn cấp điều tra thành phần có trách nhiệm về bản thảo Kế Hoạch Kinh Tế Stanley-Vũ Quốc Thúc. Và tôi tường trình sự việc lên Tổng Thống, đồng thời xin được mật cung cấp hồ sơ các viên chức cao cấp của Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa để thẩm tra.

Kết quả cuộc điều tra được biết, Phạm bá Lương Công Cán Ủy Viên Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa hiện còn một bà mẹ ruột ở Hà Nội, y còn có người bà con thân thuộc là Công Cán Ủy Viên tại Bộ Nội Vụ Việt Nam Cộng Hòa. Ngoài ra Lương và mẹ thường gửi thơ qua Pháp nhờ người quen làm trung gian chuyển thơ từ qua lại thăm hỏi nhau.

Kế hoạch bắt giam Phạm bá Lương:

Nhằm tìm tên phái kiểm trực tiếp chỉ huy Phạm bá Lương, muốn vậy, việc bắt y phải được sắp đặt và giữ tuyệt đối bí mật, không một người nào không có phận sự trong việc bắt giữ kể cả cơ quan quản trị và những người hàng ngày làm việc bên cạnh, cũng như gia đình vợ con y được biết. Vì thế mà ngay Ngoại Trưởng Vũ Văn Mẫu cũng không được thông báo về việc này.

Lợi dụng việc Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa mới được chính phủ Thái Lan thông báo, họ sẽ tống xuất một số Việt kiều đang sinh sống tại vùng Đông-Bắc Thái Lan về Việt Nam, vì số Việt kiều này thân cộng, ủng hộ cộng sản Bắc Việt. Tôi liền đề nghị xin Phủ Tổng Thống chỉ thị Bộ Ngoại Giao cử ông Phạm bá Lương Công Cán Ủy Viên, chuyên về Công Pháp Quốc Tế, cùng đi với một viên chức Phủ Tổng Thống, ông Dương Văn Hiếu, qua Tòa Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Thái Lan bàn thảo tại chỗ về vấn đề trên và tường trình về Tổng Thống.

Khi Sự Vụ Lệnh, Lộ Trình Thư, giấy máy bay đã đầy đủ, đến ngày giờ lên đường, xe chở ông Dương Văn Hiếu và Phạm bá Lương thay vì ra phi trường thì đi thẳng đến một địa điểm định trước. Cuộc đối thoại bắt đầu vào thẳng vấn đề, Phạm bá Lương bị buộc tội đã gửi bản Kế Hoạch Kinh Tế Stanley-Vũ Quốc Thúc và các tài liệu liên quan đến công tác đối ngoại của Việt Nam Cộng Hòa cho cục 2 quân báo việt cộng tại Hà Nội, và bị cật vấn làm thế nào, qua ai mà y đã gửi được bản Kế Hoạch ra cho Hà Nội.

Qua các cuộc mạn đàm với Phạm bá Lương, tôi giải quyết các thắc mắc, lo lắng sợ hãi, về tương lai, về gia đình để ổn định tâm lý cho đương sự.

Cuối cùng Phạm bá Lương đã thú nhận việc làm nội gián cho cục tình báo việt cộng tại Hà Nội, và đã cung cấp các tài liệu đối ngoại cũng như bản văn Kế Hoạch Kinh Tế Stanley-Vũ Quốc Thúc của Việt Nam Cộng Hòa cho họ.

Đương sự xác nhận việt cộng đã lợi dụng tình cảm mẫu tử của y, móc nối với mẹ ruột y, giúp đỡ vật chất, vận dụng tranh thủ, giáo dục, khống chế thơ tín liên lạc giữa hai mẹ con để buộc y phải cộng tác hoạt động cho chúng. Và xin được cộng tác với Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung để thực hiện kế hoạch bủa lưới phục kích bắt tên phái khiển chỉ đạo công tác y.

Phạm bá Lương trình bày chi tiết về tất cả hoạt động của y với cơ quan điệp báo của việt cộng. Chúng làm việc rất thận trọng và kỹ lưỡng nên việc chuyển tài liệu không có quy định thời gian cán bộ cộng sản tới lấy. Họ đến nhà bất chợt, lấy tài liệu, phổ biến đại cương chỉ thị mới cho Phạm bá Lương rồi đi ngay.

Được yêu cầu tả hình dáng tên cán bộ việt cộng thường đột xuất đến nhà y nhận tài liệu, Phạm bá Lương mô tả: Người dong dỏng, tuổi độ 38-40, mặt rỗ nhẹ vì bị bệnh đậu mùa, giọng nói phát âm Quảng Nam, Lương gọi y là ‘’anh Hai’’.

Thời gian liên lạc nhận tài liệu không hề được quy định, nhưng có những ám hiệu như sau:

- Nếu có tài liệu quan trọng cần chuyển gấp, thì ám tín hiệu duy nhất là: Tấm bảng kẽm hình con chó đóng trước cổng sẽ được bẻ cong ở phía bên mặt, còn nếu bẻ cong bên góc trái, báo hiệu cho biết là có tài liệu sẵn ở trong nhà.

Những ám tín hiệu khác thì dùng cửa sổ trên lầu:

- Đóng cánh cửa bên phải, là dấu báo cho biết có nhân viên An Ninh xuất hiện trong khu phố nhiều lần, có nhân viên theo dõi, bị Cảnh Sát mời, không nên vào nhà, không nên xuất hiện ở khu vực các phố gần nhà y ở.

- Đóng cánh cửa bên trái, là dấu báo cho biết không có giấu hiệu gì nguy hiểm, mọi sự bình thường, có thể vào trong nhà y.

- Trường hợp Phạm bá Lương bị cơ quan An Ninh bắt, thì ám hiệu đặc biệt báo cho cục quân báo biết là: Chữ thập vẽ bằng phấn trắng trên cột đèn điện, phía mặt đường, tại Đường Pétrus Ký, chỗ tiếp giáp với Đường Phan Đình Phùng Sài Gòn.

Đại Tá Lê Cầu chỉ huy cục 2 quân báo việt cộng bị bắt.

Phạm bá Lương nhận tội và xin cộng tác với Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung để bắt ‘’anh Hai’’, cấp chỉ huy trực tiếp của y. Sau khi nghe Lương mô tả vóc dáng và giọng nói của tên phái khiển quân báo đã từng về nhà y lấy tài liệu và chỉ thị cho Lương mục tiêu công tác mới. Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung khẳng định ‘’anh Hai’’ đó chính là Đại Tá Lê Câu, chỉ huy cục 2 quân báo việt cộng tại miền Nam, căn cứ đóng tại vùng núi Pleiku.

Vì Phạm bá Lương là một điệp viên đã chức nghiệp hóa nằm trong Bộ Ngoại Giao, có chức vụ cao, đã cung cấp nhiều tài liệu có giá trị về chiến lược, và những công tác đối ngoại của Việt Nam Cộng Hòa, nên Đại Tá Lê trọng Nghĩa, cục trưởng cục quân báo trung ương chỉ thị cho Đại Tá Lê Câu phải trực tiếp chỉ đảo Lương.

Phạm bá Lương được trả tự do đúng theo kế hoạch định trước. Thời gian giữ y để điều tra, Bộ Ngoại Giao không hay biết. Ngay cả gia đình vợ con y cũng không biết gì.

Kế hoạch dăng bẫy bắt Đại Tá Lê Câu đã 5 tháng trôi qua, y chưa một lần đột xuất về Sài Gòn để đến nhà Lương. Kế hoạch được đem ra mổ xẻ, nhiều giả thuyết được đưa ra duyệt xét. Trọng tâm là tăng cường kiểm soát, kỹ thuật theo dõi phải thay đổi, tập trung công sức hoạt động của cơ quan vào các ngày lễ lớn, đặc biệt là vào lúc tranh tối tranh sáng, vào các ngày nghỉ cuối tuần, vì Lê Câu có thể nghĩ, phần lớn nhân viên An Ninh của ta lơ là, bỏ bê công tác đi ăn chơi hoặc về nhà nghỉ sớm.

Quả thật, hơn một tháng sau khi Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung duyệt xét lại kế hoạch, thì bộ phận theo dõi trên đường phố phát hiện một chiếc xe máy dầu đã chạy qua các phố quanh Đường Phan Đình Phùng, chỗ nhà Phạm bá Lương, nhiều lần, lúc đó vào khoảng hơn 5 giờ chiều ngày thứ bảy. Đúng lúc trời đổ tối đèn trên đường phố vừa bật sáng, một chiếc xe taxi chạy trên đường Pétrus Ký đến góc Pétrus Ký-Phan Đình Phùng thì dừng lại, một người đàn ông từ trong xe mở cửa bước xuống, thả bộ trên vỉa hè Đường Phan Đình Phùng, đi được chừng 200 thước đến khúc đối diện nhà Phạm bá Lương ở bên kia đường, y vừa bước xuống định băng qua đường vào nhà Phạm bá Lương thì nhân viên Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung tiến tới khoác tay dìu y lên xe taxi đi về cơ quan.

Vũ ngọc Nhạ

Vũ ngọc Nhạ là điệp viên thuộc cục tình báo chiến lược, nhưng đến cuối phần này mới được đề cập tới.

Một mặt, vì y đã được cơ quan tình báo chiến lược việt cộng sử dụng trong các hoạt động điệp báo tại những vùng có tình hình đặc biệt từ những ngày đầu của cuộc chiến tranh Pháp-Việt Minh, cho đến khi bị bắt lần thứ hai, lúc đã lọt được vào đến tận Dinh Độc Lập, với chức vụ Cố Vấn của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Nhờ vào hành động phản đạo, tướng mạo lù đù nhưng lại rất láu cá, mặc dù chẳng được huấn luyện gì về tình báo.

Mặt khác, nhân vật Vũ ngọc Nhạ, sau ngày 30.4.1975, phần tự ‘’đánh bóng’’, phần được đảng ‘’đánh bóng’’ quá lố, đến mức khôi hài. Phong quân hàm thiếu tướng cho y, việc cuộc đời ‘’điệp viên’’ của y thành truyện và còn cho dàn dựng thành phim. Mặc dầu tập truyện được cả một ban biên tập của đảng bố cục và thực hiện dưới cái tên Hữu Mai, nhưng từ đầu đến cuối chỉ là những sự bịa đặt, tưởng tượng, có chỗ ấu trĩ, có nơi rất ngây ngô, với toàn bộ thật trắng trợn.

Vì vậy, tôi thấy cần phải nói rõ hơn về tình hình từng giai đoạn đã đưa đẩy y từ một tên bộ đội trở thành một điệp viên được đưa vào hoạt động tại Hà Nội, rồi Phát Diệm và Sài Gòn, cho đến khi bị bắt lần thứ hai, bị kết án tù chung thân khổ sai, và cuối cùng được trao trả cho Bắc Việt theo thỏa hiệu trao trả tù binh của hiệp định Paris.

Nhưng trước khi nói về lý lịch và hoạt động điệp báo của y, tôi xin được kể một vài điều khôi hài do y, hoặc do nhóm chuyên viên ‘’hóa trang’’ của y tô vẽ cho y, để quý độc giả giải trí ít phút.

Vũ ngọc Nhạ bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt năm 1958. Năm 1961, sau khi chấp nhận chuyển hướng và hợp tác với Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung, y được chuyển từ trại cải tạo Tòa Khâm Huế, về Sài Gòn, sống với gia đình và hàng tháng phải trình diện báo cáo công tác với tôi (Hiếu). Vậy mà y dám huênh hoang là đã làm Cố Vấn cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ năm 1960.

Vũ ngọc Nhạ khoác lác với nguyệt san thế giới mới của cộng sản như sau:

‘’Năm 1960, một vị Linh Mục đã chuyển tới tay Tổng Thống Diệm một tập tài liệu với bọc ngoài ghi hai chữ ‘’Quốc Sách’’. Chưa đầy một tuần sau, Ngô Đình Nhu đích thân đi mời tác giả tập tài liệu vào Dinh để gặp Tổng Thống’’.

Đọc đoạn báo này, người dân đã sinh sống ở miền Nam thời Đệ I Cộng Hòa, dù chưa một lần trực tiếp tiếp xúc với Tổng Thống Ngô Đình Diệm hay ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, cũng khó mà nín cười được. Vì ai lại không biết, ông Ngô Đình Nhu đâu phải là con người nhẹ dạ, bồng bột như thế. Dù cho kế hoạch của Nhạ có sâu sắc bao nhiêu đi nữa.

Và Nhạ còn tiếp:

‘’Tôi trở thành quân sư của Tổng Thống từ đấy, ông Nhạ mỉm cười nói, cũng từ đấy trong Dinh Độc Lập, ngoài Ngô Đình Nhu còn có thêm một ông cố vấn nữa: Vũ ngọc Nhạ. Trong Dinh cũng có thêm một con rồng, ngoài con Bạch Long Ngô Đình Diệm, con Thanh Long Ngô Đình Nhu, còn có thêm con Hoàng Long Vũ ngọc Nhạ’’.

Cá nhân Vũ ngọc Nhạ khoác lác là điều dễ hiểu. Điều khó hiểu là sau ngày 30.4.1975, có lẽ còn đang bị chóa mắt vì hào quang chiến thắng, cơ quan tuyên truyền của nhà nước cộng sản đã cho ra đời cuốn tiểu thuyết hồi ký mang tên Nhạ, nhan đề ‘’ông cố vấn’’, để tên người viết là Hữu Mai. Cuốn sách nói về những kỳ công của con ‘’rồng vàng’’ Vũ ngọc Nhạ trong hoạt động tình báo chiến lược, tại miền Nam Việt Nam thời Đệ I và Đệ II Cộng Hòa.

Một điểm ‘’ngộ nghĩnh’’ tự tố cáo sự láo khoét của mình (hay là của nhóm thợ hóa trang) là: Trong cuốn hồi ký này Nhạ kể, tài liệu ‘’quốc sách’’ đã được y nhờ ông Lê Văn Dư, Trưởng Ty Công An Thừa Thiên lúc bấy giờ, trình cho ông Ngô Đình Cẩn, và được ông Cẩn chuyển vào Sài Gòn. (Hồi ký của một điệp viên. Trang 60) chứ không phải do một vị Linh Mục như y nói với nguyệt san thế giới mới vừa kể trên đây.

Cuốn truyện được đóng thành phim. Cuộc đời con ‘’rồng vàng’’ tưởng là lên hương từ đó. Không dè chỉ 5 năm sau, năm 1980 cũng như các ‘’đồng chí’’ khác, bị đảng ra soát lại lý lịch chính trị ‘’con rồng vàng’’ đã bị lộ chân tướng là loại ‘’vàng mã’’ (vàng giả làm bằng giấy người ta đem đốt sau khi cúng người chết) chứ không phải vàng thiệt, do chính những cán bộ cộng sản đã cùng ở tù Mật Vụ Ngô Đình Cẩn với Nhạ khai báo với đảng. Không còn đường chối cãi, con ‘’rồng’’ phải tử vận 3 lần mà vẫn không chết. Có lẽ ‘’nợ đời’’ còn quá nặng.

Vũ ngọc Nhạ người Tỉnh Thái Bình, Bắc Việt, gốc Công Giáo. Hồi nhỏ vì nhà nghèo, Nhạ chỉ học qua bậc tiểu học rồi đi làm kiếm sống và tham gia bộ đội Việt Minh khi Việt Minh cướp chính quyền năm 1945.

Tháng 12.1946, chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, chính quyền Việt Minh rút khỏi Hà Nội. Vì nhu cầu nắm bắt địch tình. Trần Hiệu được ủy thác tổ chức cục tình báo chiến lược, tung người vào hoạt động gián điệp trong vùng Pháp chiếm đóng, gọi là vùng hậu địch.

Vũ ngọc Nhạ, là tín đồ Công Giáo, với dáng vẻ bề ngoài nhỏ thó, điệu bộ quê mùa chất phác, ăn nói nhỏ nhẹ. Nhưng bên trong, Nhạ lại chứa đựng nhiều chất láu cá, lưu manh, đáp ứng đúng nhu cầu của cơ quan tình báo việt cộng đang cần một mẫu người như thế để hoạt động trong vùng Pháp chiếm đóng. Vì vậy, ít lâu sau, Nhạ khi ấy đang ở trong bộ đội việt cộng, được đưa vào công tác hậu địch tại Hà Nội. Đến khi khu an toàn Phát Diệm được thiết lập, Nhạ lại được rút từ vùng hậu địch Hà Nội đưa về đây.

Để quý độc giả, đặc biệt là độc giả thuộc các thế hệ sau thấy được lý do tại sao ‘’Khu An Toàn Phát Diệm’’ được chính ông Hồ chí Minh chấp thuận cho thành lập mà lại bị việt cộng coi như ‘’vùng địch’’ cần thiết phải tổ chức hoạt động ‘’tình báo gián điệp’’ trong đó. Tôi xin được kể sơ qua về tình hình đã đưa đến việc thiết lập khu an toàn này.

Ngay từ khi mặt trận Việt Minh với chủ tịch là ông Hồ chí Minh cướp được chính quyền, tháng 8 năm 1945. Nhiều người đã nghi ông ta chính là Nguyễn ái Quốc, một cán bộ cộng sản quốc tế, và Việt Minh là đảng cộng sản trá hình, nh