← Quay lại trang sách

Một Đợt Nắng Hạn 1984-30 Tháng Sáu

Mình kéo toang rèm cửa. Bầu trời khát khô, dưới sông đầy tàu thuyền lớn nhỏ lô nhô nhưng trong đầu mình chỉ có đôi mắt màu sô cô la của Vinny, dầu gội đầu chảy xuống lưng chàng, mồ hôi lấm tấm trên vai chàng, rồi nụ cười tinh quái của Vinny. Tim mình như muốn vỡ tung. Chúa ơi, ước gì mình thức dậy ở nhà Vinny trên phố Peacock, chứ không phải trong căn phòng chết giẫm này. Đêm qua những lời ấy như tự thốt ra, “Lạy Chúa, em yêu anh quá chừng, Vin à,” rồi Vinny phả khói thuốc thành đám mây nhỏ, rồi Vinny giả giọng như Thái tử Charles, “Phải nói rằng, ta cũng ưa ở cùng cô lắm, Holly Sykes à,” mình cười muốn són cả ra, mặc dù vẫn hơi bực vì chàng chẳng đáp “Anh cũng yêu em”. Thiệt tình. Nhưng mà, đàn ông con trai hay ra vẻ vớ vẩn bông lơn để mà che giấu cảm xúc, chẳng phải báo vẫn viết vậy sao. Ước gì mình gọi được cho Vinny ngay bây giờ. Ước gì người ta chế ra điện thoại có thể gọi mọi nơi mọi lúc. Giờ này hẳn chàng đang cưỡi chiếc Norton đi làm trên Rochester, chàng mặc áo da có chữ LED ZEP đính đinh bạc. Tháng Chín này mình tròn mười sáu tuổi, chàng sẽ chở mình trên chiếc Norton.

Dưới nhà có tiếng đóng cửa tủ đánh rầm.

Má. Còn ai đóng cửa kiểu đó nữa.

Hay má biết rồi? Mình nghĩ mà quặn cả ruột.

Không có đâu. Hai đứa vô cùng cẩn thận.

Má đang tuổi mãn kinh nên nóng nảy. Chỉ có vậy thôi.

Đĩa Fear of Music của Talking Heads đang nằm trong máy, mình hạ cây kim máy xuống. Vinny mua tặng mình đĩa này, hôm đó là ngày thứ Bảy thứ nhì tụi mình gặp nhau ở tiệm đĩa Magic Bus Records. Đĩa hay tuyệt. Mình thích bài “Heaven” và “Memories Can’t Wait” nhưng nói chung cả album không có lấy một bài dở. Vinny đã từng đến New York, từng xem Talking Heads biểu diễn. Dan bạn của Vinny làm bảo vệ ở đó nên cho Vinny vào sau cánh gà, Vinny đã gặp David Byrne và ban nhạc. Năm sau mà đi tiếp thì chàng sẽ dẫn mình theo. Mình thay đồ, ngắm mấy vết cắn yêu trên người rồi ước gì tối nay lại được đến thăm Vinny, nhưng chàng bận đi gặp bạn ở Dover. Đàn ông rất ghét đàn bà hay ghen, nên mình giả bộ không ghen gì hết. Stella - bạn thân nhất của mình, đã đi London để đi săn đồ cũ ở chợ Camden. Má nói mình còn quá nhỏ, không thể đi London mà không có người lớn, vậy là Stella rủ Ali Jessop. Ngày hôm nay mình chỉ còn trông mỗi việc hút bụi ở quầy bar để kiếm ba bảng tiền tiêu vặt. Chán mớ đời. Rồi phải ôn tập để chuẩn bị thi tuần tới. Thực lòng chỉ muốn nộp giấy trắng, dẹp hết tam giác tam giếc Py-ta-go và tiểu thuyết Chúa ruồi với vòng đời sâu bọ nhảm nhí. Có khi làm vậy luôn.

Ừ, biết đâu đó.

Dưới nhà bếp không khí lạnh như Nam Cực. “Chào bà con,” mình lên tiếng nhưng chỉ mỗi Jacko ngồi vẽ bên cửa sổ là ngước lên. Sharon ngồi ở ghế sa-lông, xem phim hoạt hình. Ba ở lối sảnh dưới nhà, nói chuyện với người giao hàng – xe tải của công ty bia mở máy gầm gừ ngay trước quán. Má đang cắt mấy trái táo thành từng miếng nhỏ để nấu ăn, vẫn mặt lạnh như tiền với mình. Đáng ra mình phải nói “Sao vậy má, con làm gì sai sao?” nhưng mình cóc thèm. Đương nhiên má biết tỏng khi tối mình về trễ, nhưng cứ để má nói trước. Mình đổ sữa lên miếng ngũ cốc Weetabix rồi mang ra bàn. Má đậy nắp xoong đánh rầm, bước lại. “Được rồi. Cô có muốn nói năng gì không?”

“Chào má. Hôm nay trời lại nóng nữa ha.”

“Cô có muốn nói năng gì không hả?”

Nếu không chắc thì tốt nhất cứ làm bộ ngây thơ. “Nói gì kia?”

Cặp mắt má long lên. “Hôm qua về nhà mấy giờ?”

“Ô kê, ô kê, thì về trễ chút mà, xin lỗi má.”

“Hai tiếng đồng hồ đâu phải là trễ chút. Cô đi đâu?”

Mình nhai Weetabix. “Nhà Stella. Quên giờ giấc.”

“Vậy sao, kỳ quá chừng. Mười giờ tui điện cho má của Stella xem cô đang ở chỗ nào, mà biết sao không? Cô đi khỏi đó trước tám giờ. Vậy ai nói dối đây hả Holly? Cô hay bà ta?”

Chết thật. “Sau khi ở nhà Stella ra con đi dạo.”

“Cô đi dạo ở đâu vậy?”

Mình gằn từng tiếng. “Đi dạo dọc bờ sông, được chưa?”

“Đi xuôi dòng hay ngược dòng vậy?”

Im lặng một lúc. “Thì có khác gì?”

Phim hoạt hình trên TV đang đến đoạn nổ bùm chíu. Má quay sang nhỏ em mình, “Sharon, tắt ngay, đóng cửa lại.”

“Không công bằng! Chỉ có chị Holly bị la mà.”

“Nghe không Sharon. Còn Jacko nữa…” Nhưng Jacko đã đi mất. Khi Sharon đã đi khỏi, má lại ra đòn: “Đi bộ kiểu vậy có một mình thôi sao?”

Tại sao mình cứ có cảm giác má đang giăng bẫy? “Đúng vậy.”

“Đi bộ vậy được bao xa?”

“Gì nữa trời… Má muốn tính bằng dặm hay cây số?”

“À, có phải vụ đi bộ này dẫn cô tới phố Peacock, gặp một tay tên là Vincent Costello?” Quanh mình gian bếp quay mòng mòng. Bên ngoài cửa sổ, trên bờ sông ở địa phận Essex có dáng người xíu xiu đang nhấc xe đạp xuống từ trên phà. “Tự dưng cứng họng rồi hả? Để tui nhắc cô nhớ vậy: mười giờ tối hôm qua, cô kéo rèm xuống, ngay cửa sổ trước nhà người ta, trên người mặc độc áo thun.”

Đúng là lúc đó mình đi xuống nhà lấy bia cho Vinny. Đúng là mình đã hạ rèm cửa. Đúng là có người đi ngang qua. Bình tĩnh đã. Dễ gì người đó nhận ra mình? Má đang đợi mình xìu tại chỗ, nhưng quên đi. “Má chạy quán thiệt là phí. Đáng ra má nên làm cho cục tình báo MI5, chuyên trị đám nội gián sừng sỏ.”

Má liếc mình muốn đứt da mặt – cái liếc đặc sản của bà Kath Sykes.

“Thằng đó nhiêu tuổi?”

Giờ tới lượt mình khoanh tay lại. “Không phải việc của má.”

Cặp mắt má lườm lườm. “Nghe đâu là hai mươi bốn.”

“Nếu biết rồi má còn hỏi làm gì?”

“Vì một tay hai mươi bốn tuổi mà dính vào nữ sinh mười lăm tuổi thì bị coi là phạm pháp. Đi tù chứ chẳng chơi.”

“Tháng Chín này con đủ mười sáu tuổi, cảnh sát hạt Kent còn khối chuyện khác phải làm. Con lớn rồi, con tự biết việc mình.”

Má châm một điếu Malboro đỏ. Mình thèm chết được. “Để tui nói với ông già cô, rồi ổng cho tay Costello này biết mùi.”

Xưa nay thỉnh thoảng ba vẫn phải xua mấy tay say xỉn ra khỏi quán, nhưng ba đâu phải loại giang hồ dao búa gì.

“Hồi bồ với Mandy Fry anh Brendan có mười lăm tuổi, không lẽ má nghĩ hai người đó chỉ có nắm tay nhau ngồi xích đu thôi. Nhưng hình như má đâu có ca bài tù tội gì.”

Má nói từng tiếng, như thể mình ngu lắm: “Nó-là-con-trai.” Mình phì cười, ra bộ tui-không-tin-nổi-má-vừa-nói-gì.

“Tui nói cho cô biết, Holly à, cô muốn đi gặp cái tay buôn xe này nữa thì… hãy bước qua xác tui đã.”

“Thiệt tình, nói cho má biết, tui muốn đi đâu kệ tui!”

“Nội quy mới.” Má dụi tắt điếu thuốc. “Tui sẽ đưa rước cô đi học bằng xe tải. Cô không được ra ngoài, trừ khi đi với tui, ba cô, Brendan hay Ruth. Nếu tui còn thấy tay cà chớn này lảng vảng quanh đây, tui sẽ báo cho cảnh sát túm cổ – tui nói là làm, thề có Chúa. Rồi… rồi tui sẽ gọi cho chỗ nó làm, báo họ biết là nó đang dụ dỗ con gái vị thành niên.” Mấy giây trôi qua chậm chạp khi mình nghe hết chừng đó.

Mắt mình bắt đầu ngân ngấn nhưng mình quyết không nhân nhượng trước mặt bà Hitler. “Đây đâu phải là Ả rập Saudi! Má không nhốt tui được!”

“Sống trong nhà này thì phải theo nội quy của tui. Khi tui bằng tuổi cô…”

“Biết rồi khổ lắm nói mãi, má có hai chục em trai, ba chục em gái, bốn chục ông bà nội ngoại, phải cuốc năm chục mẫu ruộng khoai vì ở Ái-Nhĩ-Lan cực lắm chẳng chơi! Nhưng đây là Anh quốc, má à, Anh quốc, má biết chưa! Bây giờ là năm tám mấy rồi. Nếu cái hóc bà tó Tây

Cork đó sướng vậy thì mắc gì má phải mò tới…” Chách! Một cái tát ngay bên má trái mình.

Hai người nhìn nhau: mình run rẩy vì sốc, má giận sôi – trước giờ mình chưa từng thấy má giận như vậy, rồi mình nhận ra… dường như má biết vừa đánh vỡ thứ gì đó, không thể hàn gắn nữa. Mình bỏ ra ngoài mà không thèm nói năng, như thể vừa thắng cuộc.

Mình chỉ khóc một chút thôi, khóc vì sốc quá, chứ không phải mít ướt thảm thiết gì. Khóc xong mình đi soi gương. Mắt mình hơi bị húp, nhưng chỉ cần kẻ lại một chút là xong… Thêm chút son, chút phấn hồng… Xong. Đứa con gái trong gương giờ đã là một người đàn bà, tóc đen tém gọn, mặc áo thun Quadrophenia, quần jeans đen. Cô ta nhìn mình, nói “Nghe đây, hôm nay mày sẽ dọn vào ở với Vinny.” Mình bắt đầu liệt kê những lý do tại sao không thể làm vậy được, rồi dừng lại. “Thôi được,” mình đồng ý, cảm giác vừa ngây ngây vừa bình thản. Mình sẽ bỏ học luôn. Bắt đầu từ bây giờ. Giám thị trên trường chưa kịp đánh rắm thì đã đến kỳ nghỉ hè, tháng Chín này mình mười sáu tuổi, kệ mẹ trường Phổ Thông Windmill Hill. Dám không?

Dám chứ. Vậy thì sắp đồ đi. Sắp gì bây giờ? Sắp đủ cái túi thể thao bự đó. Quần lót, áo ngực, áo thun, áo khoác vải phao; hộp đồ trang điểm rồi cả cái hộp thiếc Oxo đựng vòng xuyến dây chuyền. Bàn chải đánh răng, thêm một mớ băng vệ sinh – kỳ này hơi trễ nên chắc sắp rồi. Giờ tới tiền. Đếm hết được 13 bảng 85 xu, cả tiền giấy lẫn tiền xu. Trong sổ tiết kiệm ngân hàng TSB còn 80 bảng. Vinny đời nào lại đòi tiền nhà, rồi tuần tới mình sẽ đi tìm việc. Giữ em, làm ở chợ, chạy bàn: muốn kiếm vài đồng thì thiếu gì cách. Còn đám đĩa LP thì sao? Mình không thể mang hết sang phố Peacock, mà để lại thì kiểu gì má cũng sẽ đem cho cửa hàng từ thiện Oxfam cho bõ tức, vậy là mình chỉ lấy đĩa Fear of Music, gói cẩn thận trong áo khoác vải phao rồi bỏ vào túi cho khỏi bị cong. Đám đĩa còn lại mình giấu dưới ván sàn nhà, tạm vậy đã. Nhưng khi lấp thảm lên trên mình muốn điếng cả hồn vía: Jacko đang đứng ngay bệ cửa, nhìn mình. Nó vẫn còn mặc bộ đồ ngủ và mang dép vải Thunderbirds.

Mình nói, “Trời, làm tui thiếu điều muốn đau tim.”

“Chị sắp đi.” Jacko hay có kiểu nói mơ hồ như vậy.

“Ừ, nhưng đừng nói ai nha. Chị không đi đâu xa, đừng lo.”

“Jacko làm cho chị cái này, để chị nhớ Jacko.” Jacko đưa cho mình một tấm bìa hình tròn – hộp phô mai Dairylea ép dẹp, trên đó có vẽ hình mê cung. Jacko rất khoái mê cung này nọ: chắc là vì nó và Sharon suốt ngày cứ ưa đọc sách báo về trò chơi nhập vai Rồng rắn và Ngục tối. Mê cung này thực ra rất đơn giản so với những thứ Jacko hay vẽ, chỉ có khoảng tám chín vòng tròn lồng vào nhau. “Cầm đi,” nó nói. “Hắc ám vô cùng.”

“Thấy đâu có đến nỗi nào.”

“‘Hắc ám’ là giống như quỷ đó, chị à.”

“Vậy tại sao cái này lại giống quỷ hả?”

“Bụi Tối sẽ đuổi theo chị ở trong đó. Nếu để nó chạm đến chị sẽ tan ra ngay, nên nếu rẽ sai đường, vào ngõ cụt thì tiêu đời. Nên chị phải học thuộc lòng cái mê cung này.”

Lạy Chúa, thằng em mình nó mới quái đản làm sao. “Được rồi. Cảm ơn Jacko ha. Nghe nè, giờ chị phải…”

Jacko cầm lấy cổ tay mình. “Học thuộc cái này đi, Holly. Chiều Jacko quái đản đi chị. Đi mà.”

Mình thấy hơi choáng. “Lạy ông, ông quái vừa vừa thôi.”

“Hứa với Jacko chị sẽ cố nhớ đường đi trong đó, khi cần chị sẽ định vị được trong bóng tối. Đi mà.”

Mấy đứa nhóc em của bạn mình toàn chỉ thích đồ chơi xe đua Scalextric, xe đạp BMX hay bộ bài Top Trumps – cớ làm sao mình lại có thằng em kiểu này, toàn nói những từ như “định vị” rồi cả “hắc ám”?

Trời đất, nếu nó mà đồng tính nữa thì làm sao sống nổi ở Gravesend này. Mình vò mái tóc nó. “Được rồi, chị hứa sẽ học thuộc mê cung của Jacko.” Rồi Jacko ôm mình, thật kỳ lạ vì Jacko vốn không phải là đứa nhỏ thích được ôm ấp. “Nghe nè, chị không đi đâu xa mà… Khi nào lớn lên Jacko sẽ hiểu, rồi…”

“Chị dọn tới ở chung với anh bạn trai.”

Tới giờ thì mình chẳng lý gì mà choáng nữa. “Ừ.”

“Chị Holly bảo trọng.”

“Vinny tử tế lắm. Đợi má nguôi rồi mình sẽ gặp lại nhau – mình vẫn gặp anh Brendan sau khi ảnh lấy chị Ruth, đúng không?”

Nhưng Jacko chỉ nhét tấm bìa với mê cung vào sâu trong túi mình, nhìn mình lần cuối rồi lỉnh đi.

Má ôm một giỏ đựng đầy thảm dơ, đứng ngay trên đầu cầu thang tầng một, làm ra bộ như không thèm chực sẵn. “Tui không nói chơi. Cô bị cấm cửa. Đi lên gác ngay. Tuần tới thi rồi. Lo ôn bài đi.”

Mình nắm chặt lan can. “Ở nhà má thì phải theo luật của má, phải vậy không. Được rồi. Tui cóc thèm luật của má, cóc thèm nhà má, cóc thèm cảnh má cứ nóng lên là chưởng tui nữa. Má mà là tui thì đời nào má chịu nhịn, đúng không?”

Gương mặt má giật giật mấy cái, cứ như thể đang nghĩ nếu bây giờ má lựa lời, mình sẽ ngồi xuống mà làm hòa. Nhưng, không hề, má chỉ nhìn cái túi thể thao của mình, cười khinh khỉnh như thể má không ngờ mình khờ tới vậy. “Trước kia cô cũng từng là đứa có đầu óc.” Vậy là mình cứ bước tiếp, xuống thẳng tầng trệt.

Ở trên kia, giọng má rít lên. “Không đi học nữa sao?”

“Má đi học đi, nếu má thấy quan trọng tới vậy!”

“Tui đâu có được sướng như cô! Tui phải chạy quán, chăm anh em nhà cô, chăm cô, chăm Brendan, chăm Sharon rồi Jacko, cho mấy người cơm ăn áo mặc, cho học hành. Để sau này cô không phải đi chùi cầu tiêu, đi đổ gạt tàn. Để cô không phải nai lưng đầu tắt mặt tối.” Nước đổ đầu vịt. Mình bước tiếp xuống cầu thang.

“Nhưng được rồi, cô đi đi. Đi đi. Đi cho biết mùi. Giỏi lắm ba ngày thằng Romeo đó sẽ đá cô ra khỏi cửa. Cô cứ tưởng đàn ông ưa đàn bà con gái ở phẩm hạnh tính cách sao, hả Holly. Không có đâu.”

Mình lờ đi. Từ lối sảnh mình nhìn thấy Sharon đứng sau quầy bar, chỗ kệ nước trái cây. Nó đang giúp ba xếp hàng lên kệ, nhưng mình biết nó nghe được hết. Mình vẫy tay chào nó, con nhỏ run run vẫy lại. Giọng ba vọng lên từ dưới tầng hầm, ngân nga bài “Chuyến phà qua dòng Mersey”. Tốt nhất là đừng đả động gì tới ổng ngay lúc này. Trước mặt má, kiểu gì ba cũng hùa với bả. Rồi ba sẽ bô lô với đám khách quen “Dại gì mà xen vô chuyện đàn bà con gái”, rồi cả đám sẽ gật gù, lẩm bẩm, “Chính xác luôn Dave” Với nữa mình không muốn đứng đó khi ba biết chuyện Vinny. Mình không xấu hổ gì cả, chỉ là không muốn ở đó thôi. Con chó Newky đang ngủ trong giỏ. “Mày là con chó hôi nhất Kent,” mình nói với nó, chỉ để không òa khóc, “Đồ ve rận gớm ghiếc.” Mình vỗ lên cổ nó, kéo chốt cửa hông rồi bước ra Hẻm Marlow. Sau lưng, cửa đóng đánh cộp.

Phố West vừa sáng vừa tối, như màn hình TV liên tục bị chỉnh. Mình đeo kính râm vào. Cả thế gian như đi trong mơ, sặc sỡ hơn, sống động hơn. Cổ họng mình đau rêm, mình đang run. Không ai chạy đuổi theo từ quán. Tốt rồi. Một chiếc xe tải chở xi-măng rầm rập đi qua, bụi khói khiến cây dẻ ngựa nghiêng ngả, xào xạc. Mình ngửi thấy mùi mặt đường nhựa nóng ran, mùi khoai tây chiên và mùi rác rến đầy tràn nguyên cả tuần – công nhân vệ sinh lại đình công nữa.

Chim chóc lượn qua lượn lại hót líu lo như ống sáo thiếc có cột dây mà người ta hay mua làm quà sinh nhật cho con nít, hồi trước thôi chứ giờ cũng hiếm. Mấy thằng nhãi con chơi đá lon trong công viên gần nhà thờ ở Ngõ Quẹo. Bắt nó! Ở sau cái cây đó! Thả tao ra! Đồ con nít hôi. Stella nói là chỉ nên bồ với đàn ông lớn tuổi: bọn trai choai choai giống như cây cà rem, vừa cầm tới tay đã chảy nước. Chỉ có mỗi Stella biết chuyện Vinny – hôm ở tiệm Magic Bus ngày thứ Bảy đầu tiên cũng có Stella. Lúc Stella chỉ mình hút thuốc, mình nôn thốc tháo nhưng nó không hề cười hay kể lại cho ai nghe, nó còn chỉ cho mình hết chuyện đàn ông con trai. Stella đúng là đứa con gái hay ho nhất trong khóa mình ở trường.

Ngõ Quẹo bẻ ngoặt lên từ dọc bờ sông. Mình rẽ lên phố Queen, sém chút nữa thì tông sầm vào Julie Walcott đang đẩy xe em bé. Đứa nhỏ khóc inh tai trong xe, còn Julie trông bơ phờ rũ rượi. Julie có bầu, bỏ học. Mình và Vinny cực kỳ cẩn thận, tụi mình chỉ có quan hệ mỗi một lần mà không dùng bao cao su, là ngay lần đầu tiên. Mà khoa học chứng minh rồi, quan hệ lần đầu không thể dính bầu. Stella nói vậy mà.

Cờ phướn treo khắp phố Queen, như thể ăn mừng Ngày Độc Lập của Holly Sykes. Bà người Scotland ở tiệm bán len đang tưới những giỏ hoa treo, ông Gilbert thợ kim hoàn đang đặt mấy khay nhẫn ra chỗ cửa sổ, hai ông hàng thịt Mike và Todd đang khiêng một con heo cụt đầu từ trong thùng xe tải ra, trong xe còn treo một tá xác heo bò treo lủng lẳng. Bên ngoài thư viện mấy người bên công đoàn đang cầm xô quyên góp ủng hộ thợ mỏ đình công. Đảng viên đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa cầm khẩu hiệu CẦN THAN KHÔNG CẦN TRỢ CẤP, rồi THATCHER TUYÊN CHIẾN VỚI CÔNG NHÂN. Ed Brubeck lượn xe đạp tới. Mình bước ngay vào chợ, tránh mặt hắn. Ed chuyển từ Manchester tới Gravesend hồi năm ngoái sau khi ông già đi tù vì tội trộm cắp và hành hung. Hắn không có bạn bè gì, mà hình như cũng chẳng thèm kết bạn với ai. Thường kiểu đó ở trường mình dễ gì sống nổi, nhưng từ hồi một đứa lớp trên chưa gì đã bị Ed đấm cho gãy mũi thì không ai dám đụng đến hắn nữa. Ed đạp xe ngang qua mà không nhìn thấy mình, trên ghiđông có cột cần câu cá. Mình đi tiếp. Ngay trước quầy trò chơi điện tử người hát rong đang chơi nhạc đám ma bằng kèn clarinet. Một người đi qua quăng đồng xu vào hộp kèn, vậy là anh ta chuyển sang chơi nhạc nền phim bộ Dallas. Khi ngang qua tiệm đĩa Magic Bus Records mình ghé mắt liếc vô. Hôm đó mình đang xem danh mục chữ R, tìm đĩa của “Ramones”. Vinny nói là chàng đang xem danh mục chữ H, để tìm “Hấp dẫn,” “Hứng tình”, và “Holly”. Phía sau tiệm có mấy cây guitar cũ. Vin đánh được khúc dạo đầu của bài “Stairway to Heaven” nhưng chưa bao giờ chơi quá chỗ đó cả. Mình sẽ tự học chơi guitar trên đàn của Vin mỗi khi chàng đi làm. Vin và mình sẽ lập ban nhạc. Tại sao không? Tina Weymouth là con gái mà chơi guitar bass trong Talking Heads còn gì. Tưởng tượng ra bộ mặt của má, khi vừa nói “Không má con gì với nó nữa,” rồi thấy mình lên chương trình Top of the Pops. Vấn đề của má là má chưa bao giờ yêu ai sâu sắc như mình với Vinny yêu nhau. Má với ba cũng ô kê, nhưng cả nhà ngoại ở Cork chẳng ưa gì chuyện ba không phải là dân Ireland, lại còn không phải dân Công giáo. Mấy người bà con ở Ireland rất khoái kể mình nghe chuyện ba làm má có bầu anh Brendan trước khi hai người đám cưới. Nhưng hai người ở với nhau tính tới giờ đã được hai mươi lăm năm, vậy cũng không đến nỗi, nhưng cái chính là, má với ba không có sự đồng điệu tuyệt vời như mình với Vin. Stella nói mình với Vin là một cặp trời sinh. Nhỏ nói là nhìn vô thấy ngay, tụi mình sinh ra để cho nhau.

Bên ngoài ngân hàng NatWest trên phố Milton mình tình cờ gặp anh Brendan. Tóc vuốt keo, cà vạt hoa hòe ngoằn ngoèo, áo vét khoác hờ qua vai. Nhìn qua cứ tưởng ông anh mình đang đi tới Trường Nam Thanh Nữ Tú, chớ không phải tới văn phòng Scott và Conway. Ông anh mình đẹp trai có tiếng, đốn tim nhiều người, nhất là trong đám chị của mấy đứa bạn mình – ặc ặc nghe mà mắc ói. Anh mình lấy chị Ruth, là con gái của ông Conway sếp ảnh. Đám cưới ở tòa thị chính, đãi tiệc hoành tráng ở Câu lạc bộ điền dã Chaucer. mình không làm phụ dâu vì mình không thích mặc đầm, nhất là thể loại đầm mặc vào khiến mình giống như búp bê Cuốn theo chiều gió mà người ta hay sưu tầm. Vậy là Sharon và đám cháu gái của chị Ruth làm hết mấy trò đó, bà con bên ngoại từ Cork qua dự rất đông. Má cưng Brendan như cục vàng, Brendan thì thương má nhất nhà. Kiểu gì hai người cũng sẽ ngồi mổ xẻ những gì mình sắp nói ra.

“Chào ông anh,” mình lên tiếng. “Sao rồi?”

“Ngon lành. Quán hôm nay sao?”

“Ổn. Bữa nay má tự dưng vui lắm.”

“Vậy hả?” Brendan mỉm cười, ngơ ngác. “Tại sao vậy?”

Mình nhún vai. “Chắc là tốt ngày.”

“OK.” Brendan nhìn túi thể thao của mình. “Đi đâu xa hả?”

“Không có. Chỉ tới nhà Stella Yearwood ôn tập tiếng Pháp, rồi ngủ lại luôn. Tuần tới thi rồi.”

Brendan hơi bị choáng. “Em gái ngoan quá ta.”

“Chị Ruth đỡ hơn chưa?”

“Cũng không hơn mấy. Chúa mới biết sao người ta gọi ốm nghén là ‘chứng buồn nôn buổi sáng’ chứ nửa đêm còn tệ hơn.”

“Chắc là để tập cho anh quen, khi đứa nhỏ chui ra,” mình cà khịa. “Rồi sẽ mất ngủ triền miên, cãi vã, nôn trớ… Cần phải dai sức lắm.”

Ông anh mình không thèm chấp. “Chắc vậy.” Khó mà hình dung Brendan trong vai bố trẻ con, nhưng đến Giáng Sinh này thì đúng vậy.

Sau lưng mình ngân hàng NatWest bắt đầu mở cửa, nhân viên ngân hàng lục tục đi vào. “Ông Conway chắc không đuổi việc con rể đâu,” mình nói với Brendan, “nhưng chẳng phải anh bắt đầu làm lúc chín giờ sao?”

“Đúng rồi. Hẹn ngày mai gặp nhé, khi cưng đã ôn tập căng thẳng xong. Má rủ hai đứa tụi anh về ăn trưa. Cưng đi vui ha.”

“Chưa hôm nào vui như hôm nay,” mình nói với ông anh, cũng là gián tiếp nói với má.

Brendan nở nụ cười ăn tiền, rồi lỉnh đi, hòa vào dòng người mặc complet và đồng phục đang tiến đến các văn phòng, cửa hiệu, nhà máy.

Thứ Hai mình sẽ đi cắt thêm một chìa khóa nhà Vinny, nhưng hôm nay mình vẫn dùng lối đi bí mật như thường lệ. Dọc theo phố The Grove, ngay trước sở thuế là con hẻm khuất có thùng rác mở, đầy mấy túi rác nồng nặc mùi tã lót sôi bùng bục gớm ghiếc. Một con chuột màu nâu nhìn mình, vẻ câng câng bố đời. Mình đi dọc theo hẻm, rẽ phải, lọt vào giữa hàng rào vườn sau của dãy nhà phố Peacock và bức tường sở thuế. Tít dưới kia, căn nhà cuối cùng cạnh đường xe lửa là nơi Vinny ở. Mình chen qua mấy tấm liếp lỏng lẻo, lội vào vườn sau nhà Vinny. Cỏ dại mọc cao tới eo mình, mấy cây mận bắt đầu ra trái, nhưng chắc chỉ có đám ong và sâu bọ ăn hết, Vinny nói là chàng không thèm hái mận. Cứ như mình đang đi vào khu rừng trong truyện Công Chúa Ngủ Trong Rừng.

Khu rừng um tùm nuốt trọn cả tòa lâu đài nơi người ta ngủ quên một trăm năm. Đáng ra Vinny phải dọn dẹp vườn tược ngăn nắp cho bà cô, nhưng bà cô ở tuốt trên King’s Lynn, lại chẳng bao giờ ghé thăm. Với nữa, Vinny là dân chơi xe phân khối lớn, không phải dân làm vườn. Để ổn định rồi mình sẽ ra tay dọn dẹp. Khu vườn cần có bàn tay phụ nữ, thế thôi. Có khi mình sẽ bắt đầu dọn ngay hôm nay, sau buổi tự học đàn guitar. Trong góc vườn, sau bụi mâm xôi có nhà kho nhỏ chứa đồ làm vườn và máy cắt cỏ. Hướng dương, hồng, bươm bướm, cẩm chướng, oải hương, rồi cả rau thơm trong mấy chậu đất, mình sẽ trồng hết chừng đó. Mình sẽ làm bánh scone, làm bánh pie nhân trái mận, làm bánh ga-tô cà phê rồi Vinny sẽ phải thốt lên, “Lạy Chúa, Holly làm sao anh sống được mà không có cưng?” Hết thảy tạp chí đều nói là đường tới trái tim đàn ông phải đi qua dạ dày. Cạnh thùng nước mưa có một bụi cây màu tía tua tủa như ngón tay, bươm bướm trắng bay quanh, như kim tuyến rắc, đăng ten viền; sống động vô cùng.

Cửa sau không bao giờ khóa vì Vinny đã làm mất chìa. Hộp bánh pizza và ly rượu của hai đứa vẫn còn nằm trong chậu rửa từ tối hôm qua, không có dấu hiệu gì của bữa sáng cả – chắc là Vinny ngủ quên rồi phải ba chân bốn cẳng chạy đi làm như thường lệ. Chỗ này cần một cuộc tổng vệ sinh dọn dẹp, hút bụi. Nhưng đầu tiên mình phải làm ly cà phê và hút điếu thuốc đã – mình chỉ mới ăn một nửa phần Weetabix trước khi má ra đòn như Muhammad Ali. Mình quên mua thuốc lá trên đường đi – gặp Brendan xong mình quên khuấy mất, vậy là mình lóc cóc chạy lên cầu thang dốc đứng, vào phòng ngủ của chàng. Đúng ra phải nói là phòng ngủ của hai đứa. Rèm cửa vẫn chưa kéo, không khí thum thủm như tất dơ, vậy là mình kéo rèm, mở cửa sổ, quay lưng lại, rồi điếng cả người khi thấy Vinny trên giường, mặt thộn như ngỗng ị. “Là em, em mà,” mình lắp bắp. “Xin lỗi, em… em… em tưởng anh đi làm rồi.”

Chàng đặt tay lên ngực, vẻ như suýt phá ra cười, như thể vừa bị trúng đạn. “Lạy Chúa, Hol. Cứ tưởng ăn trộm vào nhà!”

Mình cũng gượng cười. “Anh… ở nhà.”

“Nhầm lịch – con bé thư ký mới đúng là vô dụng – vậy là Kev gọi nói hôm nay anh được nghỉ.”

“Hay quá,” mình nói. “Vậy thì tuyệt, vì… em có chuyện này hơi bị bất ngờ.”

“Tuyệt, anh thích bất ngờ lắm. Nhưng đầu tiên đặt hộ anh ấm nước nhỉ? Anh sẽ xuống ngay. Trời đất, gì nhỉ? Anh hết cà phê rồi – cưng chịu khó chạy ra Staffa’s mua giùm anh một lọ Gold Blend. Mua về rồi anh trả tiền lại cho.”

Mình phải nói ngay. “Má biết chuyện tụi mình rồi, Vin à.”

“À há?” Trông chàng có vẻ nghĩ ngợi. “À. Thế bà ấy…”

Tự dưng mình sợ chàng không muốn có mình nữa. “Cũng không hay ho lắm. Đúng ra là phát điên lên. Nói là không cho em gặp anh nữa, gần như dọa nhốt dưới hầm. Vậy là em bỏ đi. Vậy nên…” Vinny hồi hộp nhìn mình, không hiểu ý.

“Vậy nên… em… em ở với anh được không? Ít nhất vài hôm coi sao.”

Vinny nuốt khan. “Được rồi… Được thôi. Hiểu rồi. Rồi. Ô kê thôi.”

Nghe chẳng có vẻ gì là ô kê cả. “Vậy là anh đồng ý hả Vinny?”

“Ừ. Đương nhiên. Ừm. Nhưng giờ anh thèm cà phê quá.”

“Thật chứ? Ôi, Vin!” mình thấy nhẹ cả người, như vừa được tắm bồn nước ấm. Mình ôm lấy chàng. Chàng đẫm mồ hôi. “Anh dễ thương nhất trên đời, Vinny à. Vậy mà em cứ sợ anh sẽ…”

“Không lẽ để bé mèo cưng sexy ngủ dưới gầm cầu sao? Nhưng thiệt tình, Hol à, anh thèm cà phê như Dracula thèm uống máu, nên…” Chàng không nói hết được câu vì mình đã hôn chàng, Vinny của mình, bạn trai của mình, từng đi New York, từng bắt tay David Byrne. Tình yêu trong mình trào dâng, như nồi hơi sôi bùng bục, rồi mình kéo chàng lại, cả hai lăn trên đống chăn mền, nhưng tự dưng đống chăn động đậy rồi tay mình kéo tấm chăn ra và trước mặt mình là Stella Yearwood, nhỏ bạn tốt nhất trần đời của mình. Trần truồng như nhộng. Mình thấy như đang gặp ác mộng, chỉ có điều ác mộng lại là sự thật.

Mình há hốc miệng nhìn chỗ đó của nó, cho tới khi nó nói, “Không lẽ của tui khác với của bồ lắm sao?”

Rồi mình há hốc nhìn Vinny, lúc này mặt mày như vừa bĩnh ra.

Vinny bật cười ngô nghê: “Không phải như cưng nghĩ đâu.”

Stella, không chút ngượng ngùng, lấy chăn che người rồi quay sang Vinny, “Đừng có mà dở hơi. Đúng y như bồ nghĩ đó, Holly à. Tụi tui sẽ nói với bồ, nhưng như bồ thấy đó, bất ngờ quá. Thực tình là bồ đã bị đá. Chẳng hay ho gì, nhưng cũng là chuyện thường, ai cũng gặp, à, hầu như ai cũng gặp thì đúng hơn, vậy nên c’est la vie. Bồ đừng lo, rồi còn có nhiều Vinny nữa. Vậy nên giờ bồ đừng ỉ ôi nữa mà biến phứt cho rồi. Để đỡ mất mặt vậy?”

• • •

Cuối cùng, khi khóc xong, mình thấy mình đang ngồi trên bậc thang lạnh lẽo ở một khoảng sân nhỏ, chung quanh có nhà gạch cũ năm sáu tầng, cửa sổ kéo kèm. Cỏ dại mọc lên giữa những kẽ gạch lót sân, hạt bồ công anh bay bay như tuyết trong quả cầu tuyết chặn giấy. Sau khi đóng sầm cửa nhà Vinny mình thẫn thờ bỏ đi tới sau lưng Bệnh viện Đa khoa Gravesend, nơi bác sĩ Marinus từng giúp mình đuổi cô Constantin hồi bảy tuổi. Lúc nãy mình có đấm Vinny không? Mình thấy mình như trôi trong nước rỉ đường đen đặc. Thấy không thở được. Hắn nắm lấy tay mình, đau điếng, đến giờ vẫn còn đau, Stella sủa vào mặt mình, “Đừng làm trò con nít nữa, biến đi Holly. Đây là đời thiệt, chứ có phải là phim bộ Dynasty đâu!” Rồi mình chạy ra, đóng sầm cửa, chạy thật nhanh, đến bất kỳ đâu, một chốn vô chừng, một nơi nào đó… Mình biết nếu dừng lại mình sẽ gục ngã, sẽ mắt mũi đầm đìa, rồi tai mắt của má sẽ trông thấy và tâu lại để má tha hồ hí hửng. Vì má đã nói đúng mà. Mình yêu Vinny như hắn là một phần của mình, còn với hắn mình chỉ là một tép kẹo gôm. Khi đã nhạt miệng hắn nhổ toẹt mình ra, bóc ngay một tép khác, nhưng không phải là ai khác, mà lại là Stella Yearwood. Nhỏ bạn tốt nhất của mình. Sao hắn nỡ làm vậy? Sao nó nỡ làm vậy? Không khóc nữa! Cố nghĩ đến điều gì khác…

Holly Sykes và Chuyện quái đản, Phần 1. Năm 1976 mình bảy tuổi. Cả mùa hè trời không có lấy giọt mưa, mấy khu vườn chuyển thành màu nâu. Mình nhớ cảnh xách xô đứng xếp hàng cuối phố Queen với Brendan và má, chờ hứng nước ở vòi công cộng, năm đó nóng hạn kinh hồn. Mùa hè đó mình cũng bắt đầu gặp ác mộng ban ngày. Mình nghe có giọng nói trong đầu. Mình không điên, cũng không ngớ ngẩn, cũng chẳng có gì đáng sợ lắm, ban đầu thì không… mình gọi mấy người đó là Người Trên Đài, bởi vì ban đầu mình tưởng ở phòng kế bên có mở đài radio. Giọng nói nghe rõ nhất lúc đêm tối nhưng khi đi học mình cũng nghe, nếu chung quanh đủ im ắng, chẳng hạn như khi làm bài kiểm tra. Ba bốn giọng cùng nói một lúc, mình không thể nghe rõ họ đang nói gì. Brendan từng kể cho mình nghe chuyện nhà thương điên có mấy người mặc đồ trắng, vậy nên mình không dám kể với ai cả. Má đang mang bầu Jacko, ba bận túi bụi ở quán, Sharon mới ba tuổi còn Brendan thì lúc đó đã tồ tệch vô đối. Mình biết nghe thấy giọng nói trong đầu là không bình thường, nhưng cũng chẳng hại gì, nên có lẽ chỉ là một thứ bí mật riêng tư, kiểu ai cũng có.

Một đêm mình gặp ác mộng, mình thấy bầy ong sát thủ bị xổ ra trong quán Thuyền trưởng Marlow, mình bừng tỉnh, mồ hôi nhễ nhại. Một cô đang ngồi ở chân giường mình lên tiếng, “Đừng sợ Holly à, không sao đâu,” rồi mình nói, “Cảm ơn má,” vì còn ai vào đó nữa? Rồi mình nghe giọng má cười dưới bếp, sau hành lang – lúc này phòng mình chưa dọn lên gác xép. Vậy là mình nghĩ mình đã nằm mơ có người ngồi trên giường, nên mình bật đèn lên để chứng minh.

Rõ là không có ai ở đó.

“Đừng sợ,” cô nói, “ta cũng là người thật như em.”

Mình không hét lên, cũng không hoảng loạn. Rõ là mình đang run, nhưng ngay cả khi sợ, mình vẫn có cảm giác đó chỉ một trò đánh đố, một bài kiểm tra. Vậy là mình thu hết bình tĩnh, rồi hỏi xem cô có phải là ma không. “Không phải ma,” cô vô hình đáp, “nhưng là một người khách ghé thăm tâm trí em. Vậy nên em mới không thấy ta.” Mình hỏi vậy cô tên gì. Constantin, cô đáp. Cô nói đã xua Người Trên Đài đi rồi, vì họ làm mình mất tập trung, cô mong là mình không phiền. Mình đáp dạ. Cô Constantin tiếp rằng cô phải đi ngay nhưng cô muốn trở lại thăm mình sớm, vì mình là “một cô bé xuất chúng”.

Rồi cô đi mất. Phải lâu sau mình mới ngủ được, nhưng đến khi chìm vào giấc ngủ, mình cảm thấy như mình vừa có thêm một người bạn.

Giờ sao? Đi về nhà? Mình thà nhai đinh còn hơn. Má sẽ làm món bánh thịt bốc khói chết giẫm cho mình, rưới đầy nước thịt chết giẫm, rồi ngồi đó vênh mặt nhìn mình ăn từng miếng chết giẫm. Rồi từ giờ cho tới mãi mãi về sau, nếu mình dám không nghe lời, má sẽ nhắc lại Vụ Vinny Costello. Được rồi, mình không dọn đến phố Peacock, nhưng mình vẫn có thể bỏ nhà đi, ít nhất là đi một thời gian, để chứng tỏ với má rằng mình đã đủ lớn, tự lo được, má đừng coi mình như đứa nhỏ bảy tuổi nữa. Mình có đủ tiền ăn một thời gian, đợt nắng nóng này xem chừng còn kéo dài nữa, vậy cứ coi như mình nghỉ hè sớm. Khỏi thi cử học hành gì nữa. Stella kiểu gì cũng sẽ bẻm mép, gieo tiếng rằng mình chỉ là một con nhỏ mít ướt lụy tình, không chấp nhận nổi chuyện bị bạn trai chán. Đến chín giờ sáng thứ Hai, Holly Sykes sẽ bị cả trường Windmill Hill cười cho thúi mũi. Chứ gì nữa.

Còi xe cấp cứu mỗi lúc một gần, nghe gấp gáp hơn, vọng qua khoảng sân rồi ngừng bặt, như người ta nói chưa hết câu… Mình xóc lại túi thể thao rồi đứng dậy. Được rồi, giờ đi đâu? Bọn choai choai ở Anh bỏ nhà ra đi đều thẳng tiếng về London, mơ mộng rằng sẽ gặp người phát hiện ra tài năng của mình, hoặc sẽ gặp một bà tiên mẹ đỡ đầu nào đó, nhưng mình đi hướng ngược lại, dọc theo bờ sông, về phía đầm lầy Kent: lớn lên trong quán, mình đã nghe quá nhiều chuyện về các thể loại cha mẹ đỡ đầu thường ra tay giúp đỡ thiếu niên dạt nhà ở London. Biết đâu mình sẽ tìm được một cái chuồng bò hay nhà nghỉ bỏ trống nào đó để dừng chân một lúc. Nghe cũng được. Vậy là mình đứng dậy, rời khỏi bệnh viện. Bãi xe đầy những tấm kính chắn gió lấp loáng trong nắng chói. Trong sảnh lễ tân râm mát, mình thấy người ta đang hút thuốc, chờ đợi tin tức.

Bệnh viện, đúng là chỗ lạ lùng…

Holly Sykes và Chuyện quái đản, Phần 2. Vài tuần sau đó, mình bắt đầu nghĩ là hẳn mình đã nằm mơ thấy cô Constantin, vì cô không trở lại nữa. Nhưng mình không biết “xuất chúng” có nghĩa là gì… Mình tra từ điển rồi tự hỏi tại làm sao từ đó lọt vào đầu mình, nếu không phải là do cô Constantin nói. Cho đến bây giờ mình vẫn không có câu trả lời. Nhưng rồi một đêm tháng Chín, sau khai giảng, mình tròn tám tuổi, mình thức dậy và biết cô có ở đó, mình mừng hơn là sợ. Mình thích là cô bé “xuất chúng” mà. Mình hỏi cô Constantin cô có phải là thiên thần không. Cô bật cười, nói không phải, cô là người thường, giống mình vậy, nhưng cô học được cách thoát ra khỏi thân xác để đi thăm bạn bè. Mình hỏi vậy có phải cô là bạn mình không, cô hỏi lại, “Em có muốn vậy không?” rồi mình nói có chứ, mình muốn vậy lắm, rồi cô trả lời “Vậy em sẽ là bạn của ta.” Rồi mình hỏi cô Constantin cô từ đâu đến, cô nói là từ Thụy Sĩ. Để tỏ bộ thông minh, mình hỏi tiếp có phải Thụy Sĩ là nơi người ta phát minh ra sô cô la không, cô khen mình là một trong những em bé sáng dạ nhất mà cô từng biết. Kể từ khi đó đêm nào cô cũng ghé thăm mình, mỗi lần vài phút, rồi mình kể cô nghe chuyện ngày hôm đó, cô lắng nghe, an ủi mình, động viên mình. Lúc nào cô cũng đứng về phía mình, khác hẳn với má và Brendan. Mình cũng hỏi cô nhiều thứ. Đôi lúc cô trả lời thẳng, ví dụ khi mình hỏi tóc cô màu gì, cô nói là “màu vàng của crom”, nhưng thường cô tránh câu hỏi của mình, cô cứ nói là “Khoan tiết lộ bí mật đã, Holly nhé?”

Rồi một ngày, Susan Hillage, trùm bắt nạt ở trường đón đường ăn hiếp mình khi đi học về. Ba của Susan đi lính ở Belfast. Má mình là dân Ireland, vậy là nó túm đầu mình, không để mình đi, bắt mình phải nhận là nhà mình là đồ nhà quê, chuyên cất than trong bồn tắm và ủng hộ quân IRA. Mình không chịu nhận, vậy là nó vứt túi xách của mình vô gốc cây, rồi nói là nó sẽ bắt mình trả giá cho mấy người bạn của ba nó bị giết ở Belfast. Nó còn nói là nếu mình dám hé miệng với ai, cả trung đội của ba nó sẽ đốt quán nhà mình, cả nhà mình sẽ thành thịt nướng, tất cả là lỗi của mình hết. Mình không phải là đứa dễ bị bắt nạt, nhưng lúc đó mình nhỏ xíu, mà Susan Hillage dọa toàn những thứ khiến mình sợ. Mình không nói gì với ba má, nhưng mình sợ phải đi học ngày hôm sau, sợ sẽ có chuyện. Nhưng đêm đó khi mình thức dậy giữa nệm ấm và giọng cô Constantin cất lên thì mình không chỉ nghe thấy giọng cô trong đầu, mà thấy cô ngồi ngay đó, trên chiếc ghế tựa ở chân giường. Cô nói “Dậy thôi, bé con ngái ngủ.” Cô còn trẻ, tóc màu ánh vàng, môi cô chắc là đỏ như màu cánh hoa hồng, trong ánh sáng trăng đã chuyển thành màu tím đen. Cô mặc áo đầm dài. Cô thật xinh đẹp, như tranh vẽ. Cuối cùng mình mở miệng hỏi có phải mình đang mơ không. Cô trả lời: “Ta ở đây vì cô bé thông minh xuất chúng của ta tối nay có chuyện buồn, ta muốn biết tại sao.” Vậy là mình kể cô nghe chuyện Susan Hillage. Cô Constantin ngồi nghe mà không nói gì. Cuối cùng, cô nói là cô rất ghét mấy đứa bắt nạt rồi hỏi mình có muốn cô ra tay giải quyết không? Mình nói dạ có nhưng trước khi mình kịp hỏi thêm thì đã có tiếng chân của ba ngoài hành lang, rồi ba mở cửa, rồi ánh đèn ngoài đầu cầu thang rọi thẳng vào mắt mình, khiến mình bị chói. Làm sao mình giải thích chuyện cô Constantin đang ngồi trong phòng mình, lúc một giờ sáng đây? Nhưng ba làm như không có ai ở đó. Ba chỉ hỏi mình có sao không, vì ba nghe có tiếng nói. Mà đúng thế, cô Constantin không có ở trong phòng. Mình nói là hẳn mình đã ú ớ khi nằm mơ.

Mà mình cũng tin là vậy. Ảo thanh là một chuyện, nhưng còn cô mặc áo đầm ngồi đó? Sáng hôm sau mình đi học như thường, không thấy Susan Hillage đâu cả. Cũng không ai biết nó ở đâu. Thầy hiệu trưởng đến trễ, chạy vào hội trường thông báo rằng Susan Hillage đã bị xe tải tông khi đang đạp xe đến trường, bạn bị thương nặng, tất cả chúng ta nên cầu nguyện cho bạn bình phục. Nghe thầy nói, mình thấy lạnh cóng, tê cứng, máu như chạy khỏi đầu, hội trường như tan biến xung quanh rồi cuối cùng, mình còn không nhớ được đã ngã đập đầu xuống sàn ra sao.

Sông Thames hôm nay gờn gợn, xanh màu bùn. Mình cứ đi, đi nữa, đi khỏi Gravesend, đi về phía đầm lầy Kent. Chưa gì đã tới mười một giờ rưỡi, thị trấn chỉ còn là một mô hình nhỏ xíu nằm xa lắc sau lưng. Gió thổi tung những đám mây từ ống khói của nhà máy Blue Circle, phất phơ như những chiếc khăn mùi-soa rút ra từ trong túi của nhà ảo thuật. Bên tay phải, xa lộ A2 vắt qua các bãi đầm lầy văng vẳng tiếng xe cộ từ xa gầm gừ. Thầy Markey già có nói rằng xa lộ này được xây dựng chồng lên một con đường do người La Mã xây từ thời La Mã. Xa lộ A2 thẳng tới Dover, nơi đó có tàu đi châu Âu lục địa, thời La Mã người ta cũng đi đường đó. Hai hàng cột điện trên đường chạy mãi về xa. Giờ này ở quán chắc ba đang hút bụi ở quầy, trừ phi Sharon chịu làm để được ba bảng tiền tiêu vặt của mình. Trời vẫn oi bức, buổi sáng kéo dài lê thê, hệt như mỗi khi có ba tiết Toán cùng lúc, mặt trời khiến mình mỏi mắt. Mình để quên kính râm trong bếp nhà Vinny, ngay chỗ úp bát đĩa. Mười bốn bảng chín mươi chín xu, cặp kính đó. Mình mua hồi đi chung với Stella. Nó nói rằng nó thấy người ta bán kính y như vậy trên phố Carnaby, đắt gấp ba lần, vậy là mình tưởng mình mua được món hời. Rồi mình tưởng tượng ra cảnh mình bóp cổ Stella, cánh tay và bàn tay mình tự dưng căng cứng lên, y như mình đang làm vậy thật.

Khát nước quá. Giờ này hẳn má đã nói với ba về chuyện Holly nông nổi bỏ nhà đi, nhưng mình cá một triệu bảng, rằng kiểu gì má cũng thêm mắm dặm muối. Rồi ba sẽ kể lại chuyện “phụ nữ vùng lên” với cả ba ông khách quen là PJ, Nipper và Dex bự. Rồi cả ba sẽ nhe răng cười như ba ông kễnh ngố. PJ sẽ giả bộ đọc báo the Sun “Trong này nói nè, ‘Các nhà thiên văn tại Đại học Củ chuối đã tìm ra bằng chứng mới cho thấy, bọn choai choai đúng là cái rốn của vũ trụ.’” Cả đám sẽ cười khùng khục, rồi Dave Sykes khét tiếng – ông chủ quán yêu thích của mọi nhà, sẽ tham dự với cái cười sặc sụa, y kiểu trời-đất-anh-vui-tánh-quá-tui-cười-muốn-tè-ra-quần. Để xem, đến thứ Tư mình chưa về thì họ còn cười được nữa không. Xa xa phía trước có mấy người đàn ông đang câu cá.

Chuyện quái đản, Màn cuối. Khi đang được bế ra phòng y tế, mình nghe tiếng Người Trên Đài quay lại. Hàng trăm người, cùng thầm thì một lúc. Mình sợ, nhưng không sợ bằng ý nghĩ rằng mình đã giết Susan Hillage. Vậy là mình kể cho bà y tá nghe về Người Trên Đài và cô Constantin. Bà y tá tội nghiệp tưởng mình bị choáng, hay tệ hơn, đã hóa điên, vậy là bà gọi cho má, rồi má gọi ngay cho bác sĩ gia đình. Trong ngày hôm đó mình được đưa đến bác sĩ chuyên khoa tai ở Bệnh viện Đa khoa Gravesend. Bác sĩ không tìm ra bệnh gì nhưng nói rằng có quen một chuyên gia tâm thần nhi khoa ở bệnh viện Great Ormond Street ở London, chuyên trị những ca như mình. Má la lên “Con gái tui không bị tâm thần,” nhưng bác sĩ dọa má bằng hai chữ “khối u”. Sau cái đêm tồi tệ nhất trong đời mình cứ cầu Chúa đừng để cô Constantin quay lại, mình đặt Kinh Thánh dưới gối nhưng vẫn không thể chợp mắt, Người Trên Đài vẫn còn đó. Rồi bác sĩ chuyên khoa tai gọi đến, nói rằng ông bạn chuyên gia một tiếng đồng hồ nữa sẽ đến Gravesend, má chở mình tới ngay được không?

Bác sĩ Marinus là người Hoa đầu tiên mà mình gặp, trừ mấy người ở Nhà hàng Ngàn thu mà thỉnh thoảng mỗi khi má mệt không nấu nổi lại sai mình và Brendan tới mua cơm hộp. Bác sĩ Marinus nói thứ tiếng Anh hoàn hảo, rất sang, giọng hơi nhẹ nhàng, nên phải lắng tai mới nghe được hết. Bác sĩ thấp người, gầy gầy nhưng dường như làm bừng sáng cả căn phòng. Đầu tiên ông hỏi mình về trường lớp, gia đình này kia, rồi hỏi mình về giọng nói trong đầu. Má cứ khăng khăng, “Con gái tui không bị điên, ông đừng có ý đó – nó chỉ bị choáng thôi.” Bác sĩ Marinus nói rằng ông ấy đồng ý với má, mình rõ là không điên gì cả, nhưng đầu óc con người rất khó hiểu. Để ông ấy loại trừ khả năng có khối u, má phải cho mình tự trả lời câu hỏi. Vậy là mình kể cho bác sĩ nghe chuyện Người Trên Đài và Susan Hillage, rồi cả chuyện cô Constantin. Má lại nhảy chồm chồm lên nhưng bác sĩ Marinus động viên má rằng hiện tượng ảo thanh – ác mộng giữa ban ngày, thực ra không phải hiếm gặp ở bé gái tuổi mình. Ông nói rằng tai nạn của Susan Hillage là chỉ là một sự tình cờ, ai cũng gặp những sự tình cờ khó tin như vậy trên khắp thế giới, ngay lúc này đây; đơn giản là vừa rồi đến lượt mình gặp, thế thôi. Má hỏi vậy có thuốc gì để mình khỏi bị ác mộng ban ngày nữa không, mình nhớ bác sĩ Marinus nói rằng, trước khi bàn đến thuốc men, ông ấy muốn thử một cách đơn giản hơn, cũng là phương pháp truyền thống ở quê ông. Cách này giống như châm cứu, bác sĩ giải thích, nhưng không dùng kim. Bác sĩ nhờ má nặn một điểm trên ngón tay giữa của mình, rồi đánh dấu bằng bút bi, rồi ông ấy dùng ngón cái chạm lên trán mình, ngay ở giữa. Như họa sĩ quệt một vệt màu. Mình nhắm mắt lại…

… rồi Người Trên Đài đi mất. Không phải chỉ ngừng nói, mà là đi mất hẳn. Má nhìn mặt mình thì hiểu ngay, vừa sốc vừa thấy nhẹ nhõm như mình. Má cứ hỏi, “Có vậy thôi sao? Không dây nhợ, không thuốc men gì sao?” Bác sĩ Marinus đáp là chỉ cần có vậy thôi.

Mình hỏi cô Constantin cũng đi luôn rồi sao.

Bác sĩ nói, ừ, đúng rồi, ít nhất là trong tương lai gần.

Hết chuyện. Hai má con ra về, mình lớn lên, cả Người Trên Đài lẫn cô Constantin đều không bao giờ trở lại. Mình có xem một vài phim tài liệu nọ kia về ảo giác tâm trí. Giờ thì mình biết cô Constantin chỉ là bạn tưởng tượng của mình – giống như chú Thỏ Boing Boing bạn của Sharon vậy, nhưng mình tưởng tượng hơi quá. Tai nạn của Susan Hillage chỉ là một sự tình cờ khó tin, như bác sĩ Marinus nói. Nhỏ đó không chết nhưng gia đình chuyển đến Ramsgate, có người nói là thực ra giờ nó cũng sống dở chết dở. Bác sĩ Marinus có lẽ đã làm phép thôi miên cho mình, chắc kiểu vậy, giống như mấy cái băng cassette giúp người ta bỏ hút thuốc. Từ dạo đó má không bao giờ dùng chữ “Tàu Khựa” để chỉ người Hoa nữa, và sẵn sàng cho một bài nếu có người dám dùng chữ đó trước mặt má. “Phải nói là ‘người Hoa’, không được nói ‘Tàu Khựa’,” Má sẽ phản pháo ngay, rồi thêm vào, “Bác sĩ người Hoa giỏi nhứt xứ này.”

Mình nhìn đồng hồ. Một giờ. Phía xa sau lưng mình có bóng người li ti đang câu cá ở những bãi cạn gần Công sự Shornemead. Phía trước có một bãi khai thác sỏi, có núi sỏi hình nón thật lớn và băng chuyền chuyển sỏi ra sà lan. Mình thấy được cả Pháo đài Cliffe, với những ô cửa như hốc mắt trống không. Ông già Sharkey có kể rằng chỗ đó trong chiến tranh là nơi cất giữ súng pháo bắn máy bay. Hồi đó người ở Gravesend cứ nghe tiếng súng nổ to thì biết ngay là có tối đa sáu mươi giây để chui vào hầm tránh bom dưới cầu thang hoặc sau vườn. Mình ước gì ngay giờ bom rớt xuống một ngôi nhà trên phố Peacock. Chắc là cả hai đang nhồm nhoàm pizza bữa trưa – Vinny sống bằng pizza vì hắn lười không nấu nướng gì. Chắc là đang cười mình. Mình tự hỏi liệu tối qua Stella có ngủ lại đó không. Tình yêu mà, mình từng nghĩ, chỉ cần có tình yêu. Ngu. Quá ngu! Mình đưa chân đá vào một hòn đá nhưng hóa ra lại là một phiến đá khá to, làm ngón chân muốn bầm dập. Đau buốt cả óc. Và rồi mắt mình nóng ran, ướt nhẹp – nước mắt ở đâu ra vậy trời? Hôm nay thứ chất lỏng duy nhất mình đụng tới là nước đánh răng và sữa đổ lên ngũ cốc Weetabix. Lưỡi mình giờ như miếng xốp cắm hoa. Dây đeo túi thể thao cứ trầy trợt, đau cả một mảng vai. Trái tim mình giờ như chú cún con bị người ta đánh đập tơi tả. Mình chẳng có gì trong bụng, nhưng quá buồn nên chưa thấy đói. Dù sao mình cũng không đi về nhà. Không có chuyện đó đâu.

Đến ba giờ chiều, đầu mình nóng ran, miệng khô khốc. Mình chưa bao giờ đi bộ xa đến vậy. Không có quán xá nhà cửa nào để vào xin một ly nước. Rồi mình để ý, thấy có một bà nhỏ người đang câu cá ở đằng mũi cầu tàu, cứ như có ai đó đã nhanh tay vẽ thêm bà ấy vào góc quang cảnh. Bà đứng khá xa chỗ mình, nhưng mình thấy được bà đang đổ nước từ bi-đông ra tách. Thường mình không quen xin xỏ, nhưng khát quá. Vậy là mình đi xuống bờ sông, đi dọc theo cầu tàu ra chỗ bà đứng, cố khua chân lộc cộc để bà khỏi giật mình. “Xin lỗi, bà cho cháu một chút nước được không? Cháu xin bà.”

Bà còn không quay lại nhìn. “Uống trà lạnh được không?” Giọng bà lão khàn khàn, như giọng người từ một xứ nóng xa xôi nào đó.

“Hay quá, cảm ơn bà. Cháu uống gì cũng được.”

“Cứ tự nhiên vậy, nếu đúng là uống gì cũng được.”

Vậy là mình đổ trà ra tách, không thèm lo vi trùng nọ kia. Trà này không giống trà bình thường nhưng là thứ mát nhất mình từng uống, mình để nước trà tuồn óc ách trong miệng. Giờ mình mới nhìn bà được rõ. Đôi mắt như kiểu mắt voi, nằm giữa gương mặt già nhăn nheo. Tóc bạc cắt ngắn, áo sơ mi vải dày nhem nhuốc, đầu đội mũ da rộng vành, trông bà như cả trăm tuổi. “Uống được không?” bà lão hỏi.

“Dạ được,” mình đáp. “Ngon lắm. Như vị cỏ.”

“Trà xanh đó. May mà ngươi uống gì cũng được.”

Mình hỏi, “Làm sao trà mà xanh được?”

“Vì cây trà làm ra lá trà màu đó chứ sao.”

Có bóng cá nhảy. Mình thấy đó rồi không thấy đâu nữa. “Hôm nay bà câu được nhiều không?”

Im lặng. “Năm con rô. Một con hương. Một buổi chiều lê thê.”

Mình chẳng thấy xô đựng cá đâu. “Vậy đâu hết rồi?”

Một con ong đậu xuống vành mũ bà lão. “Ta thả hết.”

“Nếu bà không thích cá thì câu làm gì vậy?”

Thêm vài giây im lặng. “Để có người nói chuyện.”

Mình nhìn quanh: lối mòn, khoảng đồng um tùm bụi mâm xôi, khu rừng cây bụi, con đường rậm rạp. Hẳn bà lão nói chơi. “Đâu có ai ở đây.”

Con ong có vẻ thích chỗ đậu mới, ngay cả khi bà lão khẽ động đậy, kéo dây câu lên. Mình đứng qua một bên. Bà kiểm tra lưỡi câu, xem còn mồi không. Nước nhỏ long tong, bắn lên trên những tấm ván cầu tàu khô khốc. Dòng sông xì xạt, sóng liếm vào bờ, nước vỗ óc ách quanh những cây trụ gỗ. Bà lão vẫn ngồi đó, cổ tay hất một cú thiện nghệ, vứt hòn chì lượn mấy vòng xuống nước, dây câu phừng phừng như dây đàn tranh, rồi hòn chì đậu lên mặt nước, đúng ngay chỗ cũ. Nước tỏa vòng, tỏa vòng. Yên tĩnh tuyệt đối…

Rồi bà lão làm một việc vô cùng kỳ khôi. Bà rút từ trong túi ra một mẩu phấn, viết lên miếng ván dưới chân, TÊN. Trên miếng tiếp theo bà viết, DÀI. Rồi miếng sau đó là hai chữ CỦA TA. Xong, bà lão cất viên phấn đi, trở lại câu cá.

Mình đợi bà lão giải thích, nhưng bà chẳng nói gì cả. “Là cái gì vậy?”

“Cái gì kia?”

“Bà vừa viết đó.”

“Là lời chỉ dẫn.”

“Chỉ dẫn ai vậy?”

“Cho một người, nhiều năm sau.”

“Nhưng viết bằng phấn mà. Trôi liền.”

“Trôi khỏi cầu tàu, đúng thế. Nhưng không trôi khỏi trí nhớ của ngươi được.”

Hiểu rồi, chắc là dân “ở trển” mới xuống. Nhưng mình sẽ không nói thẳng ra, vì mình vẫn còn thèm món trà xanh đó.

“Uống hết trà đi, nếu ngươi muốn vậy,” bà lão nói. “Từ giờ đến lúc ngươi và thằng bé đến Allhallows-on-Sea, ngươi sẽ không gặp hàng quán gì đâu…”

“Cảm ơn bà nhiều.” Mình rót đầy tách. “Bà chắc không đó? Còn có chút này thôi.”

“Phước đi để mà phước lại.” Bà lão liếc mình, sắc như dao. “Biết đâu ta sẽ cần một nơi trú ngụ.”

Trú ngụ? Ở nhà thương điên chắc? “Ý bà là sao?”

“Một chốn nương thân. Một con đường thoát. Nếu Sứ Mệnh Thứ Nhất thất bại, mà ta e là vậy.”

Mấy người chập mạch đúng là khó chơi. “Cháu mười lăm tuổi. Cháu đâu có chốn nương thân… à…ờ… lối thoát gì. Xin lỗi bà.”

“Ngươi vô cùng lý tưởng. Không ai ngờ. Trà đổi lấy nơi trú ngụ. Đồng ý không?”

Ba nói cách tốt nhất để xử mấy tay say xỉn là cứ giả vờ chiều họ, rồi lơ đẹp, mấy người chập mạch chắc cũng giống như dân say xỉn mà không bao giờ tỉnh lại. “Được thôi.” Bà lão gật đầu rồi mình nâng tách uống tiếp, cho tới khi mặt trời chỉ còn là một quầng sáng nhạt chiếu qua đáy tách nhựa mỏng.

Bà lão chập mạch nhìn ra xa. “Cảm ơn nhé Holly.”

Mình cảm ơn, quay trở lên bờ. Rồi mình quay lại, bước về phía bà lão. “Làm sao bà biết tên cháu?”

Bà lão không quay lại. “Vậy tên cúng cơm của ta là gì?”

Trò ngớ ngẩn gì thế này. “Esther Little.”

“Vậy làm sao ngươi biết tên ta?”

“Bởi vì… Bà mới nói cho cháu biết còn gì.” Phải vậy không ta? Hẳn vậy. “À há, vậy thôi”. Và đó cũng là những lời cuối cùng của Esther Little.

• • •

Khoảng bốn giờ mình đến một bãi đầy sỏi, có kè gỗ thoải xuống sông. Mình cởi đôi giày Docs ra. Ngón chân cái bị giộp một miếng to tướng, nhìn như trái mâm xôi đã đạp bẹp. Ngon gớm. Mình lấy đĩa Fear of Music ra khỏi túi thể thao, xắn quần jeans, bẻ lai quần lận lên đầu gối. Dòng sông uốn lượn, nước mát như nước máy, ánh nắng vẫn còn chói, nhưng không gay gắt như khi mình rời chỗ bà điên câu cá. Rồi mình lấy sức quăng cái hộp đĩa, quăng thật xa, thật mạnh. Cũng không mạnh lắm, nó tung lên cao cho tới khi cái đĩa gói trong miếng lót bung ra, rơi xuống nước đánh tõm. Bìa đĩa màu đen là là đậu xuống sau như con chim bị trúng tên, trôi dập dềnh một lúc. Nước mắt tuôn ra, tuôn mãi từ hai mắt nhức nhối. Mình tưởng tượng mình lội nước đến chỗ cái đĩa, trượt xuống dốc lòng sông, đi giữa những đàn cá hương, cá rô, những chiếc xe đạp rỉ sét, rồi xương cốt của cướp biển bị chết đuối, rồi m?