← Quay lại trang sách

Bữa Tiệc Cưới Tưng Bừng 2004-16 Tháng Tư

Nếu anh hỏi tôi có phải là con nghiện khói lửa không,” tôi nói với Brendan, “thì câu trả lời là không, không phải.” Giọng tôi bực bội. Mà tôi cũng thấy bực thật.

“Không phải, Ed à,” Ông-anh-vợ-hờ của tôi rất giỏi trò nói xuôi cũng được nói ngược cũng xong, dẻo mồm kiểu Tony Blair. Brendan trông giống (và đúng là) một tay kinh doanh địa ốc tham công tiếc việc giữa tứ tuần, lâu lâu mới nghỉ một ngày. “Thì ai cũng biết chú không phải là con nghiện khói lửa. Đương nhiên rồi. Chứ chẳng phải chú đã cất công bay về Anh để dự đám cưới Sharon đó sao. Không, ý anh muốn hỏi là có khi nào phóng viên chiến trường lại đâm ra nghiện cái cảm giác mạnh trên chiến địa. Có vậy thôi.”

“Cũng có người như vậy,” tôi nhượng bộ, dụi mắt và nghĩ đến Big Mac. “Nhưng tôi không có nguy cơ đó. Triệu chứng khá rõ mà.” Tôi gọi cô bé chạy bàn, xin thêm một ly Glenfiddich. Cô bé nói sẽ mang tới ngay.

“Triệu chứng sao kia?” Sharon nhỏ hơn Holly bốn tuổi, mặt cũng tròn hơn. “Em chỉ tò mò thôi.”

Tôi thấy mình như đang bị bao vây, nhưng tay Holly tìm tay tôi trên ghế, siết chặt. “Triệu chứng của bệnh nghiện chiến địa, ừ thì cũng giống bệnh nghề nghiệp thường thấy của nhà báo tác nghiệp xa. Vợ chồng lục đục; không quen với cuộc sống gia đình; không thỏa mãn với cuộc sống bình thường. Lạm dụng rượu bia.”

“Không tính Glenfiddich chứ?” Dave Sykes, ông già dễ chịu của Holly lên tiếng, không khí đỡ căng thẳng hơn.

“Chắc không đâu.” Ước gì câu chuyện đến đây chìm xuồng.

“Chắc anh từng thấy nhiều thứ kinh lắm, Ed nhỉ.” Pete Webber góp chuyện. Pete là dân kế toán, thích đạp xe, chú rể của ngày mai. Trông anh chàng mệt mỏi rã rời, tóc chưa gì đã hói, nhưng Sharon cưới anh ta vì tình yêu, chứ không phải vì tóc tai.

“Sharon có kể anh từng tác nghiệp ở Bosnia, Rwanda, Sierra Leone, Baghdad. Toàn những chỗ người ta cố tránh xa.”

“Có nhà báo thành danh ở mục kinh tế, có người thì chuyên trị mấy vụ phẫu thuật thẩm mỹ của sao siếc. Còn phần tôi là chiến tranh.”

Pete ngập ngừng. “Mà anh chưa bao giờ tự hỏi, ‘tại sao lại là chiến tranh’ sao?”

“Chắc vì tôi không thấy silicone có gì hấp dẫn.”

Cô bé chạy bàn mang ly Glenfiddich của tôi đến. Tôi nhìn Pete, Sharon, Brendan và Ruth, Dave và Kath- bà mẹ Ireland xông xáo của Holly. Tất cả đều chờ tôi nói một điều đó thật sâu sắc về động cơ nghề nghiệp của mình. Người nhà Sykes cũng từng chịu đau đớn– Jacko, em trai út của Holly mất tích hồi năm 1984, xác vẫn chưa tìm ra – nhưng những mất mát mà tôi từng chứng kiến, từng tác nghiệp, lại ở một quy mô khác hẳn. Nên tôi khác với họ. Tôi không nghĩ mình giải thích được sự khác biệt ấy. Tôi ngờ là chính mình còn không hiểu nổi.

“Anh muốn đánh động thế giới đến số phận của những kẻ yếu chăng?” Pete hỏi.

“Lạy Chúa, không phải.” Tôi nghĩ đến Paul White, gặp trong lần đầu tiên tôi đi Sarajevo; Paul White nằm chết giữa vũng nước chỉ vì anh ta muốn Tạo Ra Một Sự Thay Đổi. “Trạng thái mặc định của thế giới là bàng quan. Người ta muốn quan tâm đấy, nhưng còn quá nhiều việc khác.”

“Vậy chú cho anh nói cái này hơi nghịch nhĩ,” Brendan lên tiếng, “tại sao lại liều mạng vậy để viết mấy bài báo không thể thay đổi được gì?”

Tôi gượng cười với Brendan. “Thứ nhất, tôi không liều mạng: tôi luôn thận trọng đúng quy tắc. Thứ hai, tôi…”

“Thận trọng kiểu gì nổi,” Brendan cắt ngang, “nếu có một chiếc xe cài bom nổ ngay bên ngoài khách sạn chú ở?”

Tôi nhìn Brendan, cố nháy mắt ba lần những mong ông anh vợ hờ biến mất. Khỉ thật. Để lần tới vậy. “Lần tới trở lại Baghdad tôi sẽ dọn vào Vùng Xanh. Thứ hai là, nếu một tội ác không được kể lại, sau khi nhân chứng cuối cùng chết thì cũng chìm xuồng, coi như chưa từng xảy ra. Đó là điều tôi không thể chịu được. Nếu một vụ xả súng, bom nổ, gì gì nữa, được viết lại, thì ít nhất nó cũng để lại chút xíu dấu ấn trên bộ nhớ của thế giới. Ai đó, ở đâu đó, vào lúc nào đó, sẽ có cơ hội biết chuyện. Và, biết đâu, sẽ có hành động đáp lại. Hoặc không. Nhưng ít nhất câu chuyện cũng được viết ra.”

“Vậy chú giống như một người lưu trữ thông tin cho tương lai,” Ruth nói.

“Nghe cũng hay đó chị Ruth. Tôi đồng ý.” Tôi dụi mắt. “Chắc chú sẽ nhớ lắm nhỉ,” Brendan hỏi, “sau tháng Bảy?”

“Sau tháng Sáu chứ,” Holly vui vẻ đáp.

Không ai thấy tôi khẽ rùng mình. Tôi cũng mong thế. “Đến lúc đó,” tôi nói với Brendan, “tôi sẽ cho anh biết.”

“Vậy anh đã có sẵn việc gì sau đó chưa?” Dave hỏi.

“Ed có nhiều mối lắm, ba à,” Holly nói. “Có thể là làm báo giấy, hoặc BBC, Internet đã thực sự thay đổi báo chí. Một biên tập cũ của Ed ở FT giờ đang dạy trường UCL.”

“Ừ, tui nghĩ anh mà về ổn định ở London thì hay quá, Ed à,” Kath nói. “Tụi tui lo lắm, mỗi khi anh đi xa. Tui thấy mấy tấm hình chụp cái chỗ Fallujah đó rồi – xác người treo trên cây cầu! Kinh quá. Không thể hiểu được. Tui cứ nghĩ người Mỹ đã thắng từ nhiều tháng trước. Tui cứ nghĩ người Iraq ghét Saddam. Tui cứ nghĩ ông ta là con quỷ chứ.”

“Iraq phức tạp hơn mấy ông lớn hình dung ở bàn chiến sự, bác Kath à. Khác cả với những gì mấy ổng muốn hình dung nữa.”

Dave đập hai bàn tay. “Thôi bây giờ xong chuyện tỉ tê tâm sự, nói chuyện nghiêm túc đi: Ed, anh có đi tiệc độc thân của Pete tối nay không? Kath sẽ giữ Aoife nên không có lý gì mà từ chối à.”

Pete nói, “Mấy người bạn làm cùng sẽ tụ tập ở quán Cricketers, quán được lắm, ngay góc đường đây. Rồi sau đó…”

“Thôi thôi, em không muốn biết vụ rồi sau đó đâu,” Sharon lên tiếng.

“Thôi mà,” Brendan nói, “cứ làm như phần mấy bà mấy cô thì chỉ có chơi đố chữ Scrabble suốt buổi tối vậy.” Ông anh thì thào, điệu bộ màu mè, “Mấy bả tính coi thoát y nam ở Royal Pavilion, rồi đi phê dưới cảng.”

Ruth đánh yêu chồng: “Ăn nói quàng xiên, Brendan Sykes!”

“Đúng rồi,” Holly tiếp. “Mấy bà mấy cô đứng đắn như vậy đời nào chơi trò Scrabble.”

“Vậy nhắc lại tối nay mấy người làm gì đi,” Dave nói.

“Một buổi nếm rượu thong thả,” Sharon đáp, “kèm tiệc tapas, ở quán bar của một anh bạn lâu năm của Pete.”

“Còn bày đặt buổi nếm rượu,” Brendan phì cười. “Ở Gravesend đi nhậu thì cứ nói là đi nhậu cho rồi. Vậy chú đi không, Ed?”

Holly nhìn tôi, ra ý, anh đi đi, nhưng tôi nên bắt đầu chứng tỏ mình là người cha tuyệt vời ra sao trong khi Holly còn muốn nói chuyện với tôi. “Xin lỗi Pete nhé, nhưng cho tôi khất. Vẫn còn vật vã do lệch múi giờ, mà cũng trông về để chơi với Aoife nữa. Mặc dù chắc là nó sẽ ngủ liền. Tôi ở nhà thì bác Kath cũng đi chơi được.”

“Ôi, không sao đâu mà,” Kath đáp. “Tui vẫn còn phải coi chừng huyết áp, uống iếc gì nổi.”

“Không, bác đừng ngại.” Tôi uống hết chỗ Scotch, tận hưởng hơi rượu bừng lên trong cổ. “Bác cứ đi chơi với bà con từ Cork, cháu sẽ đi ngủ sớm, chứ nếu không hôm nay ra nhà thờ lại ngáp ngắn ngáp dài. Ý cháu là ngày mai ra nhà thờ. Trời đất, bác thấy đó, chưa gì đã vật vờ.”

“Thôi được,” Kath nói. “Nếu anh chắc vậy…”

“Chắc mà,” tôi đáp, dụi cặp mắt ngứa ngáy.

“Đừng dụi mà Ed,” Holly nói. “Anh dụi vậy còn khó chịu nữa.”

Mười một giờ đêm, mọi thứ vẫn ổn, nhìn chung là ổn, trước mắt là vậy. Olive Sun muốn tôi bay trở lại trước Thứ Năm, vậy nên tôi sẽ phải cho Holly biết sớm. Tốt nhất là nói ngay tối nay để nàng không lên kế hoạch gì cho ba người trong tuần tới. Fallujah là nơi điều động lính thủy đánh bộ nhiều nhất kể từ trận Mậu Thân tại Huế ở Việt Nam, vậy mà giờ này tôi vẫn còn kẹt trên bờ biển Sussex. Holly mà biết sẽ nổi cơn tam bành, nhưng tôi cứ phải nói ra cho xong, để nàng còn bình tĩnh lại trước đám cưới Sharon ngày mai. Aoife nằm ngủ trên chiếc giường đơn trong góc phòng khách sạn. Tôi về đến khách sạn thì con bé đã đi ngủ, nên vẫn chưa chào hỏi con gái được, nhưng Điều Một trong Quy tắc làm Cha mẹ dạy rằng đừng bao giờ đánh thức một đứa bé đang say ngủ. Tôi tự hỏi không biết con gái Nasser sẽ ngủ ra sao đêm nay, giữa tiếng chó sủa ăng ẳng, súng nổ đì đoàng và lính tráng đá rầm rầm lên cửa. TV màn hình phẳng bật kênh CNN, âm lượng giảm, toàn là hình ảnh lính thủy đánh bộ dưới làn đạn trên nóc nhà ở Fallujah. Tôi xem cảnh này ít nhất cũng đã năm lần, các chuyên gia cũng không thể nghĩ ra điều gì mới để nói cho đến chu kỳ tin tức tiếp theo trong vài giờ tới, khi Iraq bắt đầu một ngày mới. Holly nhắn tin khoảng mười lăm phút trước, báo là cánh phụ nữ sắp xong, chuẩn bị ra về. Ở quán bar mà nói “sắp” thì cũng chưa biết chừng. Tôi tắt TV, để chứng tỏ tôi không phải là con nghiện khói lửa, rồi ra đứng bên cửa sổ. Cầu cảng Brighton tối thứ Sáu sáng đèn như công viên Fairyland, nhạc pop dội ra từ khu hội chợ ở cuối cầu. Một đêm xuân khá là ấm áp, tính theo tiêu chuẩn Anh quốc, các nhà hàng và quán bar dọc bờ biển sắp vãn khách sau một đêm bận rộn. Từng cặp đi bộ, tay trong tay. Những chuyến xe buýt đêm hối hả lướt qua. Xe cộ nhìn chung đi đúng luật. Tôi không ghét gì một xã hội bình an, đâu ra đó. Tôi cũng thích ở đó, trong vài ngày, thậm chí là vài tuần. Nhưng tôi biết sau vài tháng, cuộc sống đâu ra đó cũng giống như thứ bia không cồn nhạt nhẽo. Nói vậy không có nghĩa là tôi bị nghiện khói lửa, như Brenda lúc nãy đã mau mắn gợi ý. Thật là nực cười, khác gì nói David Beckham bị nghiện chơi bóng đá. Bóng đá là nghề nghiệp của Beckham, còn viết báo từ vùng chiến sự là nghề của tôi. Tôi ước gì khi nãy mình đã nói vậy với bà con nhà Sykes.

Aoife cười khúc khích trong giấc ngủ, rồi rên một tiếng.

Tôi lại gần. “Cưng không sao chứ, Aoife? Chỉ là mơ thôi mà.”

Aoife mơ màng càm ràm, “Không phải mà! Lấy cái mùi chanh mà.” Rồi mắt con bé mở hé ra như búp bê trong phim kinh dị: “Mình sẽ đi khách sạn dưới Brighton, vì dì Sharon sẽ cưới chú Pete, rồi mình gặp ba ở đó, nghe ba. Aoife là phụ dâu đó.”

Tôi cố nhịn cười, rồi vuốt tóc Aoife xòa trên mặt. “Ba biết rồi mà cưng. Nhà mình tới đây hết rồi, thôi con đi ngủ đi. Sáng mai ba sẽ ở đây, sẽ vui lắm.”

“Được rồi,” Aoife tuyên bố, mơ mơ màng màng…

… rồi ngủ say. Tôi kéo tấm chăn lên chiếc áo ngủ có hình Chú ngựa non của em rồi hôn trán con bé, nhớ lại tuần đó, năm 1997 khi Holly và tôi đã tạo ra cái mầm-sống-vô-giá-mà-giờ-đã-không-còn-quá-bé-bỏng-này. Sao chổi Hale-Bopp quét qua bầu trời, ba mươi chín thành viên giáo phái Cổng Thiên Đường tự tử tập thể ở San Diego, vì tin rằng linh hồn của họ sẽ được đĩa bay ở đuôi sao chổi tiếp dẫn và đưa lên một trạng thái ý thức cao hơn. Tôi thuê nhà nghỉ ở Northumbria, hai đứa định sẽ đi bộ dọc theo Bức tường Hadrian, nhưng đi bộ hóa ra không phải là hoạt động chính trong tuần đó. Vậy mà con bé đã lớn chừng này. Tôi tự hỏi nó thấy gì ở tôi. Một gã khổng lồ râu ria lởm chởm, chớp nhoáng đến rồi đi vì những lý do bí hiểm, có lẽ cũng chẳng khác gì cách tôi nghĩ về cha mình, trừ chuyện tôi đi công tác còn ba thì đi tù. Tôi muốn biết ba thấy gì ở tôi khi tôi sáu tuổi. Còn cả trăm điều tôi muốn biết. Khi cha mẹ qua đời, một ngăn tủ đựng những điều thú vị dường như cũng mất đi. Tôi chưa bao giờ nghĩ có ngày mình lại thèm thuồng được nhìn vào đó đến vậy.

Tôi tự hỏi lát nữa Holly còn hứng thú muốn vui vẻ tí chút không.

Tôi nghe tiếng Holly tra chìa khóa vào cửa, tự dưng có cảm giác tội lỗi mơ hồ.

Nhưng tôi biết nàng sẽ còn làm tôi thấy tội lỗi hơn thế nữa.

Holly cứ loay hoay mãi với ổ khóa nên tôi đi ra, cài xích cửa rồi mở hé. “Xin lỗi cưng,” tôi nói, giả giọng Michael Caine. “Anh đâu có gọi mát xa mát gần gì. Chắc phòng kế bên đó.”

“Để em vô,” Holly đáp, ngọt ngào, “không thì đá cho bể bi luôn.”

“Không, anh cũng đâu có gọi đấm đá gì. Chắc phòng…”

Không còn ngọt ngào nữa: “Brubeck, đang mắc nè!”

“Thôi thì,” Tôi tháo xích cửa, đứng qua một bên. “cho em vô đó, nhậu nhẹt be bét, cửa cũng không mở được.”

“Ổ khóa ở đây bày vẽ rắc rối, chống trộm chống triếc. Cửa cho tiến sĩ mở chắc.” Holly chạy tọt vào nhà vệ sinh, nhìn Aoife khi lướt qua. “Em chỉ uống có vài ly thôi. Tối nay có má mà.”

“Hà, làm như Kath Sykes phu nhân vốn chẳng ưa ‘tiệc nếm rượu’ không bằng.”

Holly đóng cửa nhà tắm. “Aoife ngoan không?”

“Có dậy chút xíu, còn lại ngủ im không nhúc nhích gì.”

“Tốt. Lúc ở trên tàu nó rất phấn khích, em cứ sợ tối nay nó không chịu ngủ, sẽ nhảy nhót suốt đêm.” Holly xả nước để có tiếng động át đi. Tôi lại đến bên cửa sổ. Hội chợ ở cuối cầu cảng có vẻ như vừa vãn. Một đêm đẹp tuyệt vời. Nhưng vụ gia hạn hợp đồng sáu tháng ở Iraq với tạp chí Spyglass kiểu gì cũng sẽ làm mất vui ngay, tôi đã biết trước. Holly mở cửa nhà tắm, mỉm cười nhìn tôi rồi lau tay. “Vậy tối nay anh ở nhà làm gì? Ngủ hay viết?”

Holly cột tóc cao, mặc đầm đen bó sát, cổ khoét sâu, đeo dây chuyền đá hai màu xanh đen. Dạo này nàng rất ít khi sửa soạn như vậy. “Ngồi đây nghĩ ngợi bậy bạ về gái một con thôi chứ đâu làm gì. Cho tôi giúp cô cởi đầm được không, cô Sykes?”

“Thôi đi.” Nàng loay hoay chỗ Aoife. “Tụi mình ngủ chung phòng với con gái, biết rồi còn giỡn.”

Tôi bước lại gần. “Anh biết cách làm việc không tiếng động mà.”

“Tối nay không được, Romeo thân mến. Em kẹt rồi.”

Sáu tháng rồi tôi rất ít khi về nên chẳng biết “nguyệt san” của Holly thường rơi vào ngày nào. “Vậy thì đành hôn một cái thiệt lâu, thiệt chậm thôi.”

“Chịu vậy đi, bồ tèo.” Hai người hôn nhau, nhưng không lâu và chậm như đã quảng cáo, Holly cũng không say như tôi đã khấp khởi hi vọng. Từ bao giờ Holly không mở miệng khi hôn nhau? Cứ như hôn phéc-mơ-tuya đã kéo kín. Tôi nghĩ đến triết lý vặt của Big Mac: phụ nữ phải thấy được yêu mới có thể làm tình; nhưng đàn ông phải làm tình mới thấy được yêu. Tôi đã làm trọn bổn phận – ít ra là tôi thấy vậy, nhưng về vụ kia, Holly cứ làm như mình bốn lăm, hay năm lăm, chứ không phải ba lăm tuổi. Đương nhiên tôi không được phép càm ràm, vì làm vậy là gây áp lực cho nàng. Lúc trước Holly và tôi chuyện gì cũng có thể nói với nhau được, bất cứ chuyện gì, nhưng về sau thì càng lúc càng có nhiều chủ đề bất khả xâm phạm. Nên tôi thấy… Tôi cũng không được phép buồn, bởi vì nếu vậy thì tôi khác gì thằng nhóc con hờn dỗi vì không được ăn kẹo. Tôi chưa từng lừa dối nàng, chưa bao giờ, Baghdad cũng đâu phải là nơi đầy cám dỗ nọ kia; nhưng đàn ông đàn ang, ba lăm tuổi mà cứ phải một tay tự liệu hoài thì nghĩ cũng chán. Ở Tajikistan hồi năm ngoái, nếu tôi không áy náy nghĩ tới lúc taxi thả xuống Stoke Newington và nghe tiếng Aoife hét “Baaaa về!” thì hẳn cô phóng viên ảnh người Đan Mạch ấy đã sẵn lòng hưởng ứng.

Holly quay vào nhà tắm. Nàng để cửa mở rồi bắt đầu tẩy trang. “Vậy, anh có chịu nói thẳng ra với em không?”

Tôi ngồi trên mép giường, cảnh giác. “Nói gì kia?”

Nàng chặm bông tẩy trang dưới mắt. “Em đã biết đâu.”

“Tại sao em nghĩ là… anh có gì đó cần phải nói ra?”

“Không biết, Brubeck à. Chắc bản năng phụ nữ gì đó.”

Tôi không tin chuyện thần giao cách cảm, nhưng Holly rất giỏi đóng vai thầy bói. “Olive đề nghị anh ở lại Baghdad cho tới tháng Mười Hai.”

Holly cứng người trong vài giây, đánh rơi bông tẩy trang rồi quay lại nhìn tôi. “Nhưng anh đã nói với bà ấy là tháng Sáu này nghỉ rồi còn gì.”

“Ừ. Anh có nói. Nhưng giờ bà ấy đề nghị anh xem lại.”

“Nhưng anh đã nói với em sẽ nghỉ việc tháng Sáu này. Nói với em và Aoife.”

“Anh có nói là thứ Hai anh sẽ gọi lại. Sau khi nói chuyện với em.”

Holly trông như vừa bị phản bội. Hoặc như thể vừa phát hiện ra tôi đang tải phim khiêu dâm. “Mình đã đồng ý rồi mà, Brubeck. Lần này là lần gia hạn cuối cùng, cuối cùng của anh còn gì.”

“Thì anh chỉ gia hạn thêm sáu tháng nữa thôi.”

“Trời đất, lần trước anh cũng nói y vậy.”

“Đúng thế, nhưng kể từ khi anh được giải Sheehan-Dower anh…”

“Rồi lần trước nữa cũng vậy. ‘Nửa năm thôi, rồi anh nghỉ.’”

“Lần này sẽ đủ tiền trang trải một năm đại học cho Aoife, Hol.”

“Con nhỏ thà có cha sống sót hơn là thêm chút tiền đó.”

“Em thật…” bây giờ ta không thể gọi phụ nữ giận dữ là “quá kích động” nữa, nói vậy sẽ bị gán tội kỳ thị giới tính “…cường điệu. Đừng như vậy chứ.”

“Daniel Pearl cũng nói vậy với vợ trước khi bay đi Pakistan phải không? ‘Em thật cường điệu’?”

“Nói vậy vừa khiếm nhã, vừa không đúng nữa. Pakistan đâu phải là Iraq.”

Nàng thả nắp bồn cầu xuống, ngồi lên đó, hai người ngang tầm mắt nhau. “Tôi quá ngán chuyện sợ muốn phát nôn mỗi lần nghe mấy tiếng ‘Iraq’ hay ‘Baghdad’ trên đài. Tôi quá ngán cảnh mất ngủ triền miên. Quá ngán chuyện phải giấu Aoife tôi lo như thế nào. Hay đó, anh là phóng viên đoạt giải lắm công nhiều việc, nhưng anh còn có con nhỏ sáu tuổi, thèm được tập đi xe đạp hai bánh với ba. Vậy mà nó chỉ được gặp ba qua một phút điện thoại rọt rẹt, hai ba ngày một lần, đó là nếu điện thoại vệ tinh nối được. Anh là đồ nghiện khói lửa. Brendan đã nói đúng.”

“Không phải vậy. Anh là phóng viên, làm việc của anh. Cũng như Brendan làm việc của anh ấy, em làm việc của em vậy.”

Holly vò đầu như thể tôi vừa làm nàng đau đớn. “Vậy anh đi đi! Trở lại Baghdad đi, về chỗ bom nổ ngay trước khách sạn của anh đó. Dọn đồ đi. Đi đi. Đi ‘làm việc của anh’ đi. Nếu việc đó quý hơn mẹ con tôi. À, anh nói người thuê nhà dưới căn hộ ở King’s Cross trả lại nhà đi, lần tới về London anh sẽ cần chỗ ở.”

Tôi cố không nói to: “Em có nhận ra mình vừa nói cái quái gì không hả?”

“Không, anh đi mà nghe anh vừa nói cái quái gì đó! Tháng trước anh đã đồng ý nghỉ việc tháng Sáu và về luôn. Bà sếp Mỹ quyền uy của anh nói, ‘Tháng Mười Hai đi.’ Anh đáp. ‘Ừ, ô kê.’ Rồi anh mới nói với tôi. Anh về phe ai hả Brubeck? Tôi và Aoife, hay Olive Sun và Spyglass?”

“Người ta chỉ mời anh làm thêm sáu tháng. Có vậy thôi.”

“Không, không phải ‘có vậy thôi’ gì hết, vì sau khi Fallujah lắng xuống hoặc đã bị nổ sạch thì sẽ đến lượt Baghdad hay Afghanistan Tập Hai hay một nơi nào đó nữa, luôn sẽ có một nơi nào khác, rồi cứ thế cho đến khi anh tới số, rồi tôi thành góa bụa, Aoife không có cha. Đúng vậy, tôi đã chịu để anh đi Sierra Leone, đúng rồi, tôi chịu thêm vụ Somalia, nhưng Aoife đã lớn rồi. Con nhỏ cần có cha.”

“Giả sử bây giờ anh nói, không được, Holly, em không được đi giúp người vô gia cư nữa. Người thì bị AIDS, người thì mang dao kéo, người thì tâm thần. Em bỏ việc đi, đi làm… siêu thị Tesco chẳng hạn. Dùng năng lực của em vô chuyện sắp xếp hàng xén. Mà không, anh lệnh cho em phải làm vậy, nếu không sẽ đuổi em ra khỏi nhà. Nếu vậy em thấy sao?”

“Trời đất, hai chuyện khác nhau hoàn toàn.” Holly thở dài giận dữ. “Mà tại sao đi nói chuyện này lúc nửa đêm vậy? Ngày mai tôi còn phải làm phù dâu chính cho Sharon. Mặt mày tôi sẽ lem nhem như gấu trúc say xỉn. Anh vừa tới ngã tư đó, Brubeck. Anh chọn đi.”

Tôi bật câu đùa dại dột: “Ngã ba thì đúng hơn.”

“Phải rồi. Tôi quên mất. Anh coi đó là trò đùa sao?”

“Thôi mà Holly, trời đất, ý anh đâu phải…”

“Tôi không đùa gì cả. Hoặc anh bỏ Spyglass hoặc dọn ra ngoài. Nhà tôi đâu phải là chỗ để anh vứt laptop hỏng.”

Ba giờ sáng, mọi thứ vẫn vô cùng tồi tệ. “Đừng bao giờ cãi nhau trước khi đi ngủ,” cậu Norm từng nói vậy, nhưng cậu Norm đâu có con với một người phụ nữ như Holly. Tôi nói “ngủ ngon” với nàng, khá là dịu dàng sau khi tắt đèn, nhưng hai chữ “ngủ ngon” đáp trả nghe rất giống “dẹp đi”, rồi nàng quay lưng lại. Lưng nàng trông thân thiện như biên giới Bắc Triều Tiên. Bây giờ đã là sáu giờ sáng ở Baghdad. Sao đêm sẽ tắt dần trong buổi bình minh khô khốc và lạnh cóng, lũ chó gầy giơ xương sục soạng giữa đống đổ nát tìm thức ăn, loa Tannoy của nhà thờ Hồi giáo nhắc tín đồ đến giờ cầu nguyện và những đống lù lù bên đường sẽ được tính vào tổng số thương vong đêm qua. Nếu may mắn, thì xác chỉ bị ăn một viên đạn qua đầu. Ở khách sạn Safir, người ta sẽ bắt đầu công việc sửa chữa. Ánh sáng ban ngày sẽ rọi vào căn phòng của tôi ở phía sau, phòng 555. Ngủ giường tôi lúc này là Andy Rodriguez bên tạp chí The Economist, tôi nợ hắn ta một vụ từ hồi Kabul thất thủ, cách đây hai năm – nhưng mọi thứ chắc vẫn không thay đổi. Phía trên bàn có treo bản đồ Baghdad. Vùng cấm được đánh dấu bằng bút dạ quang màu hồng. Ngay sau đợt chiếm đóng hồi tháng Ba năm ngoái, bản đồ chỉ có vài nét mực hồng rải rác: Xa lộ 8 phía nam về Hillah, Xa lộ 10 phía tây về Fallujah – ngoài ra gần như chỗ nào cũng có thể lái xe đến được. Nhưng khi các vụ nổi loạn nóng dần lên, màu mực hồng lan khắp những con đường phía bắc về Tikrit hay Mosul, nơi một đoàn làm phim Mỹ bị bắn tan xác. Đường ra sân bay cũng thế. Khi thành phố Sadr tức một phần ba ở phía đông của Baghdad bị phong tỏa, ba phần tư tấm bản đồ chuyển màu hồng. Big Mac nói rằng trông chẳng khác gì tôi đang cố vẽ lại bản đồ cũ của Đế chế Anh. Công việc trở nên vô cùng mạo hiểm. Giờ tôi không thể ra ngoại ô để lấy tư liệu, không thể tiếp cận nhân chứng, không thể nói tiếng Anh trên đường phố, thậm chí là không được rời khỏi khách sạn. Kể từ đầu năm việc của tôi với Spyglass gần như là viết báo từ xa. Nếu không có Nasser và Aziz tôi đã phải nhai lại món bánh vẽ lạc quan quẳng cho dân báo chí trong Vùng Xanh. Nghĩ cho cùng, nếu làm báo ở Iraq khó vậy, thì tại sao tôi lại nôn nóng muốn trở lại Baghdad để làm việc?

Vì công việc khó khăn, nhưng tôi là một trong những người giỏi nhất.

Vì chỉ có những người giỏi nhất mới có thể làm việc ở Iraq lúc này.

Vì nếu tôi không trở lại, hai người tốt đã bỏ mạng vô ích.