← Quay lại trang sách

28 Tháng Mười

Rèm cửa cũ lọc thứ ánh nắng hồng-cam buổi sớm, nhưng là một sắc hồng-cam lạnh lẽo, không hề ấm áp. Gió và những con sóng nghe có vẻ rộn ràng trong buổi sáng nay, chứ không miên man như tối qua. Tôi nghe tiếng Zimbra đi lên cầu thang, rồi nó xuất hiện, len vào phòng tôi, ngoáy đuôi chào buổi sáng. Thật lạ kỳ, nó luôn biết khi nào tôi đã thức dậy. Tôi biết là mình vừa quên gì đó, một điều gì đó khá là khó chịu. Là chuyện gì kia chứ? Brendan. Tôi tự hỏi không biết sáng nay anh ra sao. Tôi hi vọng có người chăm sóc anh. Chỉ mới năm năm trước nếu muốn tôi có thể mua vé máy bay, lái xe ra sân bay, bay qua Bristol và chưa đầy một tiếng đồng hồ là tới được Làng Biệt lập Tintagel. Giờ chuyến đi đó khó như đi lên Mặt Trăng.

Nhưng thôi, cũng đành chịu. Tôi còn có việc phải làm. Tôi ra khỏi giường như bà cụ già, cẩn trọng từng chút, kéo rèm cửa và mở cửa sổ. Biển vẫn còn động trên vịnh Dunmanus, nhưng tôi thấy đã có thuyền buồm - có lẽ là của Aileen Jones, đi kiểm tra nơm tôm hùm. Đám nhựa ruồi biển và hương đào ở cuối vườn dạt xô: chúng ngả rạp về phía ngôi nhà, rồi nảy lên, rồi lại rạp về phía nhà. Cũng đồng nghĩa với một điều gì đó. Một điều mà tôi không nhận ra, ngay cả khi nó sờ sờ trước mắt tôi, rõ như ban ngày.

Là gió hướng đông, thổi từ nước Anh; từ Hinkley Point.

Radio CNT sáng nay không phát sóng: chỉ có mỗi một thông điệp lặp đi lặp lại rằng đài hôm nay ngừng hoạt động vì lý do vận hành. Vậy là tôi chuyển sang kênh JKFM, vừa nghe tứ tấu Modern Jazz Quartet vừa chẻ tư một trái táo cho bữa sáng và hâm lại bánh khoai cho Rafiq. Chẳng mấy chốc thằng bé ngửi thấy mùi tỏi và lục đục đi xuống cầu thang, mặc nguyên áo choàng tắm tạm bợ, rồi kể tôi chuyện mấy nhóc lớn hơn trong làng đang tính làm vụ đu dây trong Rừng Năm Mẫu. Hai bà cháu ăn xong, tôi cho gà ăn, tưới bí trong nhà lưới nhựa, làm lương khô cho chó từ yến mạch, vỏ trấu và mỡ cừu rồi mài kéo cắt tóc. Rafiq làm sạch khạp đựng nước uống, đổ nước bằng cách nối ống lên suối, rồi mang cần câu xuống cầu tàu. Zimbra đi theo. Một lát sau nó quay về với một con cá minh thái và một con cá thu. Rafiq vẫn còn láng máng nhớ thời đi câu cá ở xứ nắng vàng biển xanh trước khi đến Ireland, nó kể. Declan O’Dalay nói thằng bé là dân câu bẩm sinh - nhờ vậy mà hai chị em cũng có thêm chút đạm, cả hai chỉ được ăn thịt nhiều lắm là một lần mỗi tháng. Tôi sẽ làm cá bỏ lò cho bữa tối, ăn với củ cải nghiền. Tôi đun một ấm trà bạc hà rồi bắt đầu cắt tóc Rafiq. Đáng ra phải cắt lâu rồi, cũng sắp tới mùa chí rận ở trường. “Lúc nãy con thấy Aileen Jones qua kính ống nhòm,” thằng nhỏ kể. “Đứng ngoài vịnh trên thuyền Viễn Vọng, đang coi nơm tôm hùm.”

“Hay vậy,” tôi đáp, “nhưng mà lúc đó con có cẩn thận…”

“… không chĩa ống kính về phía mặt trời,” nó tiếp. “Đương nhiên là không rồi, bà Holly. Con có phải cái đồ ngu toàn phần đâu, hở bà Holly?”

“Còn không dám nói con ngu sơ sơ nữa kìa,” tôi nhẹ nhàng đáp. “Làm phụ huynh cứ như có máy rà tai nạn sẵn bật trong người, không khi nào tắt. Khi nào con làm cha, con sẽ hiểu.”

“Eo ơi, ai thèm,” Rafiq nghĩ tới viễn cảnh đó.

“Ngồi im nào. Đáng ra để Lol cắt. Chị cắt đẹp hơn bà.”

“Không đời nào! Chị Lol sẽ cắt thành kiểu mấy thằng trong Trùng Khánh Năm Sao.”

“Mấy thằng ở đâu kia?”

“Trùng Khánh Năm Sao. Trung Quốc. Mấy đứa con gái thích mê.”

Và hẳn là mơ mộng đến cuộc sống giàu có ở Thượng Hải, tôi không hề nghi ngờ. người ta nói rằng ở Trung Quốc cứ ba đàn ông chỉ có hai phụ nữ, hậu quả của nạn phá thai, thời mới có Đất Thuê, vẫn còn xe buýt chạy về Cork, bà con của tôi ở đó hay kể chuyện mấy đứa con gái địa phương được tuyển đi làm “Dâu Trung Quốc”, lên tàu đến xứ no ấm, điện đóm 24/24, sống hạnh phúc mãi mãi về sau. Tôi không còn nhỏ dại gì mà tin lấy tin để mấy lời “chứng thực” từ các trung tâm môi giới. Tôi chuyển kênh từ JKFM sang RTÉ, xem có tin gì về Hinkley không, bản tin tám giờ sáng không hề đả động đến. Zimbra đi vào, ngả đầu vào lòng Rafiq và ngước nhìn thằng nhỏ. Rafiq xoa đầu con chó. Đài RTÉ đọc thông báo sơ sinh, do người ta nối sợi mạng gởi về đài tên con cái, cân nặng, tên cha mẹ, ở xứ đạo nào, hạt nào. Tôi thích nghe những cái tên ấy. Chúa mới biết, cuộc đời của những đứa trẻ này sẽ không dễ dàng gì, nhất là với phần lớn trong đó, sinh ra bên ngoài khu trung tâm hoặc Vành Đai Cork, nhưng mỗi cái tên như một đốm sáng nhỏ trên nền Thời Đen Tối.

Tôi tỉa thêm một chút quanh tai phải của Rafiq để cân với bên trái.

Tôi tỉa quá tay, vậy là phải tỉa tiếp bên trái.

“Con ước gì cứ như vậy hoài,” Rafiq đột ngột nói.

Tôi thấy vui vì thằng nhỏ hài lòng với cuộc sống, lại thấy buồn vì một đứa trẻ chừng đó tuổi đã biết rằng chẳng có gì còn mãi. “Thay đổi vốn cài sẵn trong phần cứng của thế giới.”

Thằng nhỏ hỏi, “Phần cứng là sao?”

“Một từ về máy tính hồi xưa. Ý bà là… thực tế luôn thay đổi. Nếu cuộc sống không thay đổi, nó không còn là cuộc sống nữa, nó chỉ còn là một tấm ảnh.” Tôi tỉa chỗ tóc sau cổ thằng nhỏ. “Ngay cả những tấm ảnh cũng thay đổi mà, cũng bị mờ đi.”

Hai bà cháu không nói gì. Tôi lỡ tay chọc nhẹ kéo vào chỗ gân trên cổ Rafiq, thằng nhỏ la lên, “Úi cha,” rồi tôi nói, “Xin lỗi nha,” rồi nó đáp, “Sao đâu,” như dân Ireland chính hiệu. Con Crunchie, con mèo đực lâu lâu lại bỏ đi mà tôi đặt tên theo tên loại sô-cô-la thời xưa, rảo bước trên bệ cửa sổ nhà bếp. “Bà Holly nè, bà nghĩ tới lúc con mười tám tuổi, có khi nào Đại học Cork mở trở lại không?”

Tôi thương nó quá chừng, không nỡ làm nó tụt hứng. “Cũng có thể. Mà sao?”

“Vì sau này con muốn làm kỹ sư.”

“Tốt. Nền văn minh cần nhiều kỹ sư.”

“Thầy Murnane nói ta phải sửa chữa đồ đạc, phải xây mới, phải vận chuyển, như những xứ có dầu mỏ, nhưng ta phải làm vậy mà không cần tới dầu mỏ.”

Và bắt đầu làm từ bốn mươi năm trước, tôi nghĩ thầm. “Thầy nói đúng rồi.” Tôi kéo ghế lại trước mặt Rafiq. “Cúi đầu xuống, để bà cắt tóc mái.”

Tôi nâng phần mái của thằng nhỏ lên bằng lược rồi tỉa đi phần tóc xuyên qua răng lược, để lại một phân. Tay nghề tôi càng ngày càng khá lên. Rồi tôi thấy Rafiq chăm chú lạ kỳ: tôi dừng tay. Tôi vặn radio nhỏ lại. “Có chuyện gì vậy cưng?”

Trông thằng nhỏ như đang cố lắng nghe một âm thanh từ xa. Rồi nó nhìn ra cửa sổ. Con Crunchie đã đi mất. “Con nhớ có người cắt tóc cho con. Một người phụ nữ. Con không nhớ mặt, nhưng mà người này nói tiếng Ả Rập.”

Tôi dựa người ra sau, hạ cây kéo xuống. “Chắc là chị nào của con? Phải có ai đó cắt tóc cho con trước năm tuổi.”

“Lúc con mới tới tóc con ngắn hay dài?”

“Bà không nghĩ khi đó con tóc dài. Con nửa chết đói, nửa chết đuối, rồi suýt chết vì hạ thân nhiệt. Bà không nhớ rõ tóc tai của con. Nhưng người phụ nữ này, Raf à… con có nhớ gương mặt của người ta không?”

Rafiq nhíu mày. “Nếu con không cố nhìn, thì con thấy, nhưng nếu con nhìn vào mặt người ta, gương mặt đó tan đi. Khi con nằm mơ, thỉnh thoảng con vẫn thấy người ta, nhưng khi tỉnh dậy thì không nhớ gì cả, chỉ còn tên. Một là Assia, con nghĩ là dì của con… hay là chị lớn. Hay chính là người cầm kéo. Hamza và Ismail là anh con, ở trên thuyền.” Tôi nghe câu chuyện này đã vài lần, nhưng tôi không ngắt lời Rafiq khi nó muốn săm soi lại những mảnh vỡ ký ức còn sót về phần đời trước khi đến Ireland. “Hamza vui lắm, Ismail thì không. Trên thuyền có nhiều người lắm, ngồi chật cứng à. Không có phụ nữ, chỉ có một bé trai nữa, nhưng nó là người Berber, con không hiểu tiếng Ả Rập của nó lắm. Hầu hết người đi thuyền đều bị say sóng, nhưng con không sao. Tất cả đi vệ sinh xuống nước. Ismail nói mình đang đi Na Uy. Con hỏi, ‘Na Uy là gì?’ rồi Ismail trả lời đó là một nơi an toàn, nơi mình có thể kiếm sống, không có bịnh Ebola, không ai muốn bắn mình… Nghe thật hay, nhưng hồi ở trên thuyền cực lắm.” Rafiq nhíu mày sâu hơn. “Rồi mọi người thấy có ánh sáng trên mặt nước, dọc theo vịnh dài, lúc đó đang là ban đêm, có đánh nhau lớn lắm. Hamza nói với thuyền trưởng bằng tiếng Ả Rập, “Không thể là Na Uy được,” rồi thuyền trưởng đáp. ‘Tao nói dối mày làm gì?’ rồi Hamza rút một thứ như la bàn ra, để lên tay, nói, ‘Nhìn đây, mình chưa đi đủ xa về hướng bắc mà,’ rồi thuyền trưởng ném cái la bàn xuống nước, rồi Hamza nói với những người khác, ‘Ổng nói dối để tiết kiệm xăng đó. Mấy cái đèn đó không phải là Na Uy, là chỗ khác!’ Rồi la lối om sòm, súng nổ, rồi…” Cặp mắt và giọng Rafiq ráo hoảnh. “Con toàn gặp ác mộng đoạn đó. Người ta ngồi chật cứng trên thuyền…”

Tôi nhớ lại chuyện Trắc Sĩ có khả năng xóa ký ức xấu, rồi ước gì tôi có thể làm thế với Rafiq. Hoặc không nên, tôi cũng không biết nữa.

“…nhiều lần con mơ thấy Hamza quăng phao xuống nước, rồi nói, ‘Mình sẽ bơi đi,’ rồi ảnh quăng con xuống nước trước, nhưng ảnh không nhảy theo. Con chỉ nhớ chừng đó.” Rafiq chặm mắt lên mặt sau bàn tay. “Con quên hết rồi. Gia đình của con. Mặt mày của họ.”

“Owain và Yvette Richie ở Lifford, trên mạn hạt Donegal,” phát thanh viên nói, “xin giới thiệu con gái mới sinh Keziah, nho nhỏ chỉ hai cân bảy nhưng hoàn hảo… Chào mừng bé Keziah.”

“Lúc đó con mới năm sáu tuổi gì thôi, Raf à. Khi con bị dạt lên bãi đá bên dưới con bị sốc nặng, bị hạ thân nhiệt, từng thấy cảnh giết chóc ngay trước mắt, có Trời mới biết con trôi nổi trên biển Đại Tây Dương lạnh cóng bao lâu, chỉ có một thân một mình. Con không phải là người dễ quên, con là người sống sót. Bà nghĩ chuyện con nhớ được tới vậy cũng là quá màu nhiệm rồi.”

Rafiq nhặt một tép tóc rơi xuống đùi, rồi vân vê trầm tư giữa ngón tay. Tôi nhớ lại đêm mùa xuân năm đó. Trời yên biển lặng, tháng Tư nhưng khá ấm, có lẽ vì vậy mà Rafiq sống sót. Aoife và Örvar vừa mất mùa thu năm trước, Lorelei vẫn còn bấn loạn. Tôi cũng vậy, nhưng tôi phải giả vờ không sao, vì Lorelei. Tôi đang ngồi trên ghế, nói chuyện với Gwyn bạn cũ trên máy bảng thì gương mặt này hiện ra ở cửa, nhìn chong chong như ma chết đuối. Khi đó tôi chưa nuôi Zimbra, vậy nên không có chó xua thằng nhỏ. Khi hoàn hồn, tôi mở cửa, cho nó vào. Nó nôn ra nguyên một lít nước biển. Thằng nhỏ ướt như chuột, run rẩy, không hiểu tiếng Anh, hay dường như không hiểu. Trong nhà vẫn còn nhiên liệu cho nồi đun, chỉ vừa đủ, nhưng tôi hiểu rằng đang bị hạ thân nhiệt mà tắm nước nóng thì sẽ bị loạn nhịp tim, có khi là lên cơn đau tim, vậy là tôi cởi lớp áo quần ướt của thằng nhỏ, đặt nó ngồi cạnh lò sưởi, quấn mền kỹ. Nó vẫn còn run rẩy, tức là có hi vọng.

Lorelei lúc đó đã thức dậy, pha một tách nước gừng ấm cho thằng bé từ biển lên. Tôi nối sợi mạng cho bác sĩ Kumar nhưng cô còn bận dưới Bantry vì vừa có đợt dịch cúm chuột, vậy là chỉ có mấy bà cháu với nhau vài ngày sau đó. Người khách nhỏ tuổi sốt hầm hập, suy dinh dưỡng, hay bị ác mộng, nhưng sau một tuần, hai bà cháu, với sự giúp đỡ của Mo và Branna O’ Daly đã dưỡng cho thằng nhỏ hồi phục lại. Chúng tôi đoán tên nó là Rafiq, nhưng thằng nhỏ từ đâu tới? Bản đồ không ăn thua gì, vậy mà Mo tìm từ “Xin chào” trên mạng bằng mọi thứ ngôn ngữ khả dĩ của một người tị nạn da màu: tiếng Ả Rập Ma-rốc có vẻ gần nhất. Với sự giúp đỡ của Mo, Lorelei học tiếng trên mạng và trở thành giáo viên dạy tiếng Anh đầu tiên của Rafiq, nhờ đó con bé cũng đỡ ủ dột tang tóc nữa. Một tháng sau, khi cán bộ Mặt Trận Bình Ổn mặt lạnh xuất hiện cùng với thị trưởng Martin để điều tra kẻ nhập cư bất hợp pháp, Rafiq đã bập bẹ được những câu tiếng Anh đơn giản.

“Theo luật phải trục xuất thằng bé,” cán bộ Bình Ổn tuyên bố.

Tôi thấy chợn chạo, tôi hỏi vậy trục xuất đi đâu, kiểu gì.

“Không phải việc của bà, bà Sykes.” cán bộ Bình Ổn lại tuyên bố.

Vậy là tôi hỏi liệu Rafiq có bị chở ra ngoài Vành Đai rồi bỏ lại như một con chó hoang không, vì trong đầu tôi đoán vậy.

“Không phải việc của bà, bà Sykes,” cán bộ Bình Ổn lặp lại.

Tôi hỏi vậy làm sao để Rafiq ở lại hợp pháp trên Xứ Đầu Cừu.

“Nếu có một công dân Ireland chính thức nhận nuôi,” cán bộ Bình Ổn tuyên bố.

Thầm cảm ơn bản thân mình hồi trẻ đã xin quốc tịch Ireland, tôi nghe tiếng nói rằng tôi muốn nhận nuôi Rafiq.

“Vậy thì làng của bà lại phải chịu thêm một hộp khẩu phần,” cán bộ

Bình Ổn tuyên bố. “Bà sẽ phải được thị trưởng cho phép nữa.”

Martin đọc gương mặt tôi rồi nói, “Được rồi, tôi cho phép.”

“Và bà sẽ cần được một cán bộ Bình Ổn bậc năm trở lên phê duyệt. Tôi chẳng hạn.” Ông ta quét lưỡi giữa răng trước và cặp môi mím. Tất cả nhìn Rafiq, dường như cũng đang linh cảm rằng tương lai - cuộc đời của chính mình đang lửng lơ chông chênh. Tôi chỉ có thể nói với cán bộ Bình Ổn. “Xin ông làm ơn.”

Cán bộ Bình Ổn mở một kẹp hồ sơ đút sẵn trong áo. “Tôi cũng có con cái mà,” ông ta nói.

“Và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng,” đài radio rì rầm, “chúc mừng Jer và Maggs Tubridy ở Ballintober, Roscommon, vừa có con trai, bé Hector Ryan, nặng ba cân chín hoành tráng! Thật là xuất sắc, Maggs, chúc mừng cả ba người.” Rafiq nhìn tôi như muốn nói xin lỗi vì đã quá bi lụy, tôi nhìn cháu nuôi, ra ý không có gì mà phải xin lỗi cả, rồi tôi tiếp tục cắt lọn tóc bất trị quanh trán nó. Những bằng chứng ít ỏi có được cho thấy nhiều khả năng cha mẹ của Rafiq đã chết, và nếu chưa chết, tôi không biết họ sẽ làm thế nào để biết được tung tích con trai mình - khi Rafiq đến nhà Dooneen thì cả mạng Phi Châu và chính phủ Ma-rốc đều đã không còn nữa. Nhưng bây giờ thằng bé ở đây, Rafiq là một phần của gia đình tôi. Còn sống thì tôi còn cố hết sức chăm lo cho nó.

Nhạc hiệu chương trình tin tức của đài RTÉ vang lên, tôi chỉnh âm lượng lớn một chút.

“Chào buổi sáng, tôi là Ruth O’Mally với chương trình tin tức RTÉ lúc mười giờ, Thứ Bảy, ngày hai mươi tám tháng Mười năm 2043.” Nhạc hiệu tưng bừng quen thuộc chìm dần. “Tại cuộc họp báo ở Nghị Viện Leinster sáng nay ông Éamon Kingston, Thủ tướng thuộc Mặt trận Bình Ổn đã xác nhận rằng Công Ty Ngọc Tây đã đơn phương rút khỏi Hợp Đồng Thuê Đất ký năm 2028, theo đó cho phép hiệp hội các công ty Trung Quốc giao thương với thành phố Cork và Vùng Doanh nghiệp Tây Cork, còn gọi là Khu Đất Thuê.”

Tôi đánh rơi kéo cắt tóc, chỉ biết nhìn chăm chăm vào radio.

“Một người phát ngôn của Bình Ổn ở Cork xác nhận rằng quyền kiểm soát vùng Nhượng Địa Ringaskiddy đã được trao lại cho chính quyền Ireland lúc bốn giờ sáng nay, khi tàu chở hàng CNT lên đường cùng với một tàu khu trục hộ tống của Hải quân Giải phóng Nhân dân. Thủ tướng nói với phóng viên có mặt rằng sự rút lui của CNT đã được giữ bí mật để đảm bảo một cuộc chuyển giao quyền lực êm thấm, và khẳng định rằng quyết định của CNT là do những quan ngại về lợi nhuận. Thủ tưởng Éamon Kingston nói thêm rằng việc CNT rút đi không hề liên quan đến tình trạng an ninh, hiện nay vẫn ổn định ở tất cả ba mươi tư hạt. Quyết định của phía Trung Quốc cũng không hề liên quan đến rò rỉ phóng xạ từ Hinkley Point ở phía bắc Devon.” Vẫn còn các tin khác, nhưng tôi không nghe nữa.

Gà cục ta cục tác, rền rĩ, ngân nga trong chuồng.

“Bà Holly?” Rafiq sợ hãi. “đơn phương rút khỏi là sao?”

Tôi nghĩ đến đủ thứ hệ quả, nhưng một hệ quả đâm sầm trước mắt: insulin cho Rafiq.

• • •

“Ba nói là sẽ không sao,” Izzy O’Daly nói, “còn nói là Bình Ổn sẽ giữ yên vùng Vành Đai, như bây giờ.” Izzy và Lorelei chạy băng đồng trở về từ Trại Knockroe, gặp Rafiq, Zimbra và tôi trong căn bếp gọn gàng nhà Mo. Mo cũng đã nghe bản tin RTÉ như hai bà cháu, và chúng tôi nói với Rafiq là sẽ không có gì thay đổi nhiều, chỉ là bây giờ sẽ khó tìm được hàng Trung Quốc nhập khẩu hơn thôi. Hộp khẩu phần vẫn sẽ được Bình Ổn giao mỗi tuần, và người ta vẫn sẽ cấp phát thuốc đặc trị như cũ. Rafiq yên tâm hơn, hay cố làm bộ yên tâm. Declan O’Daly cũng giải thích tích cực như vậy với Izzy và Lorelei. “Ba nói là,” Izzy tiếp, “trước mười giờ sáng, Vành Đai là một hàng rào kẽm gai cao hơn bốn mét rưỡi, sau mười giờ cũng y vậy, không có lý gì mà quân của Bình Ổn lại bỏ hàng ngũ.”

“Cha con là người rất khôn ngoan,” tôi đáp.

Izzy gật đầu. “Ba với Max đã đi vào thành phố để coi tình hình cô của con.”

“Declan thật chu đáo,” Mo nói. “Mấy đứa à, tụi con cho Zimbra ra vườn chạy một lúc đi, bà sẽ làm bánh. Biết đâu bà còn chút bột ca-cao cất đâu đó. Đi đi, để bà với bà Holly yên một lúc, hả?”

Sau khi ba đứa ra ngoài, vẻ mặt Mo trở nên lo lắng, sốt ruột, Mo cố nối sợi mạng với bạn ở Bantry, nơi có đồn trú xa nhất về phía Tây Vành Đai. Bình thường các cuộc gọi tới Bantry nối sợi mạng rất dễ, nhưng hôm nay còn không hiện nổi tin báo lỗi. “Tôi có linh cảm rất xấu,” Mo nhìn màn hình trống trơn, “rằng mình có được Mạng chỉ vì sợi mạng được nối qua máy chủ ở Ringaskiddy, giờ đây người Trung Quốc đi rồi… thì cũng hết.”

Tôi cảm giác như có người vừa chết. “Không còn Mạng nữa sao? Không có thật sao?”

Mo nói, “Biết đâu tôi sai,” nhưng vẻ mặt của bà như nói, Không, hết thật rồi.

Trong phần lớn cuộc đời của tôi, thế giới thu nhỏ lại, công nghệ tiến bộ: lẽ thường là thế. Ít ai nhận ra rằng cái “lẽ thường” đó hoàn toàn nhân tạo, rằng một thế giới mỗi lúc một xa xôi khi công nghệ đi giật lùi không chỉ chỉ là chuyện khả dĩ, mà còn là chuyện chắc chắn sẽ xảy ra. Bên ngoài ba đứa nhỏ chơi đùa với chiếc đĩa ném còn lớn tuổi hơn cả ba - nhìn cho kỹ, ta sẽ nhận ra bóng ma lờ mờ của biểu tượng Olympics London 2012. Aoife đã mua cái đĩa bằng tiền tiêu vặt. Hôm đó là một ngày nóng nực trên biển ở Broadstairs. Izzy chỉ cho Rafiq cách tiến một bước về trước rồi ném đĩa thật nhuyễn. Tôi tự hỏi liệu chúng có đang vờ vô tư trước cái kết của Thời Đất Thuê, rằng thực ra chúng cũng sợ như chúng tôi, sợ trộm cướp, phiến quân, bọn giành đất, và có Chúa mới biết là gì nữa sẽ tràn qua Vành Đai. Zimbra bắt được đĩa ném, Rafiq ném một cú tốt hơn, nhờ có gió đẩy lên. Lorelei phải nhảy lên cao mới bắt được, để lộ đoạn hông cân đối. “Thuốc men cho người bệnh mãn tính là một chuyện,” tôi nói ra suy nghĩ của mình, “nhưng cuộc sống của phụ nữ sẽ ra sao, nếu mọi thứ cứ tiếp diễn như vậy? Sẽ ra sao đây nếu Dónal Boyce là thứ tương lai tốt đẹp nhất mà mấy đứa con gái trong lớp của Lol có thể hi vọng được? Đàn ông lúc nào chẳng vậy, tôi biết, nhưng ít nhất trong thời của tụi mình, phụ nữ còn có được một kho vũ khí của những quyền lợi pháp lý. Thái độ người ta thay đổi dần dần, luật lệ mới xuất hiện, xã hội của tụi mình nhờ vậy mà văn minh. Giờ tôi lo là Thời Đen Tối sẽ quét sạch tất cả. Tôi lo là Lol sẽ chỉ thành nô lệ của một tên phát xít nào đó, chết dí ở một xứ Ả Rập Saudi mang màu sắc Gaelic lạnh lẽo, đói kém, ảm đạm, vô luật pháp.”

Loreli ném đĩa, nhưng cơn gió đông quật nó chệch hướng, đâm vào bụi hoa trà trên tường nhà Mo.

“Đổ bánh thôi,” Mo lên tiếng. “Tôi sẽ đong bột còn cô đập trứng. Năm người mình thì thì làm sáu cái là đủ, ha?”

“Tiếng gì vậy?” Izzy O’Daly hỏi, nửa giờ sau. Bàn trong bếp của Mo vương vãi tàn tích của bữa trưa. Mo đã tìm được một hũ bột ca cao nhỏ từ một trong những xó xỉnh bất tận trong nhà. Lần cuối cùng mẩu sô cô la Nga bạc màu xuất hiện trong hộp khẩu phần cũng dễ chừng đã một năm trước. Tôi và Mo không đụng đến, nhưng ngắm ba đứa ăn bữa trưa phủ sô cô la còn ngon hơn là được nếm. “Nghe không,” Izzy nói, “tiếng… lắc rắc đó. Không ai nghe gì sao?” Con nhỏ mặt mày lo lắng.

“Chắc là bụng Raf lại sôi đó,” Lorelei đáp.

“Em chỉ ăn nhiều hơn chị có một cái thôi mà,” Rafiq phản đối. “Mà…”

“Biết rồi, nhóc đang tuổi lớn, cả nhà biết mà,” chị thằng nhỏ đáp.

“Đang lớn thành một dị nhân ăn bánh.”

“Đó đó,” Izzy nói, đưa tay suỵt. “Nghe không?”

Cả nhà lắng nghe. Như một bà lão, mà đúng vậy còn gì, tôi nói, “Bà có nghe gì…”

Zimbra nhảy lên, rên ư ử ngay cửa. Rafiq la nó, “Yên nào, Zimbra!”

Con chó nằm im, rồi… nghe thật rõ. Một chuỗi những tiếng nổ inh tai rờn rợn. Tôi nhìn Mo, Mo gật đầu đáp: “Tiếng súng.”

Cả nhà chạy ra bãi cỏ xơ xác, lốm đốm bồ công anh nhà Mo. Gió vẫn thổi từ hướng đông, khiến tai chúng tôi ù đi nhưng rồi một loạt tiếng súng máy rộn lên, rõ mồn một, không xa lắm. Tiếng vọng vang tới sau vài giây từ phía Mizen Head bên kia mặt nước.

“Không phải từ Kilcrannog sao?” Lorelei hỏi.

Giọng Izzy run rẩy. “Ba đã đi vô làng.”

“Không lẽ nào Vành Đai đã sụp,” tôi buột miệng, rồi ước gì có thể nuốt ngay được những lời đó, vì một khi đã nói ra, tôi cũng góp phần khiến nó thành sự thật. Zimbra đang gầm gừ về phía thành phố.

“Con phải trở về trại thôi,” Izzy nói.

Mo và tôi nhìn nhau. “Izzy à,” Mo nói, “tới khi chúng ta biết rõ chuyện gì đang xảy ra, cha mẹ con hẳn muốn con cứ ở yên đây.”

Rồi chúng tôi nghe tiếng xe jeep, từ phía bên này thành phố, đang chạy dọc trên lộ chính. Hẳn không phải chỉ có một hai chiếc.

“Chắc là Bình Ổn đó,” Rafiq nói. “Mình họ có diesel. Phải vậy không?”

“Bà cũng là một người mẹ,” tôi nói với Izzy, “bà nghĩ con nên…”

“Con… con… con sẽ đi kín đáo, con sẽ cẩn thận, con hứa.” Izzy nuốt khan, rồi lẻn đi, biến mất qua khoảng trống giữa hàng dậu cao đầy hoa vân anh.

Tôi còn chưa kịp xua đi cái cảm giác khó chịu rằng tôi vừa nhìn thấy Izzy O’Daly lần cuối cùng thì cả nhà để ý thấy tiếng xe jeep đã thay đổi, từ nhanh chóng giận dữ sang cẩn trọng, từ tốn.

“Con nghĩ một chiếc xe jeep đang đi vô nhà mình,” Lorelei nói.

Mơ hồ, tôi tự hỏi ngày thu đầy gió này liệu có phải là ngày cuối cùng của tôi chăng. Nhưng không thể là ngày cuối cùng của bọn trẻ. Mo cũng có cùng suy nghĩ: “Lorelei, Rafiq, hai đứa nghe đây. Phòng khi đám này là phiến quân chứ không phải Bình Ổn, ta cần hai đứa đưa Zimbra ra chỗ an toàn.”

Rafiq hoảng hốt, khóe miệng thằng nhỏ vẫn còn vương chút bột ca cao. “Nhưng Zim với con là vệ sĩ mà!”

Tôi hiểu ý Mo: “Nếu là phiến quân thì họ sẽ bắn ngay Zim trước khi nói chuyện với mình. Kiểu họ là vậy.”

Lorelei hoảng sợ, cũng phải thôi. “Nhưng Ngoại sẽ làm gì chứ?”

“Bà Mo và ngoại sẽ nói chuyện với họ. Hai bà cứng lắm, không sao đâu. Nhưng mà…” chúng tôi nghe tiếng máy xe jeep gầm rú bỏ số thấp, rất gần, khiến tôi muốn chợn chạo “hai đứa đi đi. Cha mẹ hai đứa nếu còn cũng sẽ nói vậy. Đi đi.”

Mắt Rafiq vẫn còn trợn tròn, nhưng nó gật đầu. Chúng tôi nghe tiếng bụi cây lạt xạt va vào sắt thép rồi tiếng cành nhỏ bị bẻ gãy. Lorelei rõ là thấy không muốn đi, nhưng tôi thì thào, “Đi mà,” rồi nó gật đầu. “Thôi nào, Raf, Ngoại chỉ trông vào mình thôi. Tụi mình sẽ giấu nó dưới lán chăn cừu ở Bãi Trắng. Thôi nào, Zim. Zimbra. Đi đi!” Con chó khôn ngoan đang lo lắng nhìn tôi, bối rối.

“Đi đi!” Tôi xua nó. “Coi chừng Lol và Raf! Đi đi!”

Chần chừ, Zimbra để hai đứa kéo đi, và cả ba chạy hết vườn của Mo, biến mất sau bức tường sau nhà lưới trồng rau. Chúng tôi chờ chừng mười phút thì một chiếc xe jeep của Bình Ổn xồng xộc chạy vào con đường um tùm, thẳng lên lối vào nhà Mo, đất đá tung tóe. Chiếc thứ hai xuất hiện chỉ vài giây sau. Hai chữ “Bình Ổn” được phun sơn dọc theo thành xe. Sức mạnh của luật pháp và trật tự. Vậy thì tại sao tôi cảm giác mình như một con chim bị thương vừa rơi vào tay mèo?

Thanh niên trai tráng chui ra khỏi xe, mỗi chiếc bốn tên. Ngay cả tôi cũng nhận ra được đám này không phải là người của Bình Ổn: đồng phục của chúng tạm bợ, súng ngắn, súng máy, cung tên, lựu đạn, dao găm không hề đồng bộ, trông như ăn cướp, chứ không phải quân lính qua đào tạo. Tôi đứng cạnh Mo, nhưng chúng đi qua mặt cả hai như thể chúng tôi vô hình. Một đứa, có lẽ là đầu sỏ, đứng lùi lại và quan sát căn nhà khi những đứa còn lại tiến đến, tay lăm lăm súng. Tên này gầy gò, xăm trổ, chừng ba mươi, đội mũ nồi xanh của lính tráng, mặc áo khoác chống đạn như áo mà Ed ngày trước vẫn mặc ở Iraq, cổ đeo tượng thần có cánh như biểu tượng Roll Royce. “Còn ai ở nhà nữa không, bà già?”

Mo lên tiếng, “Chuyện gì vậy, anh bạn trẻ?”

“Nếu còn ai ở trong, thì sẽ không sống sót mà ra ngoài đâu. Chuyện là vậy đó.”

“Không còn ai nữa,” tôi nói. “Cất súng đi, trước khi có người bị thương, lạy Chúa.”

Hắn đọc vẻ mặt tôi. “Bà già nói không còn ai nữa,” hắn gọi với ra đám còn lại. “Nếu bà ta nói dối, bắn luôn. Chết ai là do bà ta hết.”

Năm tên phiến quân đi vào trong khi hai tên đi quanh nhà. Lorelei, Rafiq và Zimbra giờ này hẳn đang qua cánh đồng bên cạnh. Dãy táo gai sẽ che kín tụi nhỏ. Tên đầu sỏ lùi lại vài bước, nhìn mái nhà của Mo. Hắn nhảy lên bức tường quanh sân để nhìn cho kỹ.

“Các anh làm ơn nói giùm cho,” Mo lên tiếng, “các anh muốn gì?”

Bên trong nhà Mo, cửa đóng sầm. Bên dưới, trong chuồng, đám gà của tôi lục cục. Đằng bãi cỏ nhà O’Daly, một con bò rống lên. Từ con lộ ra cuối Xứ Đầu Cừu, xe jeep gầm rú. Một tên phiến quân từ nhà kho của Mo đi ra, lớn giọng, “Tìm được cái thang trong này, Hood. Đem ra luôn chứ?”

“Ừ,” tên đầu sỏ đáp. “Khỏi phải lấy thang của mình.”

Năm tên bước ra từ nhà của Mo. “Bên trong không có ai hết, Hood,” một tên to cao, râu ria lên tiếng. “Chăn mền và thức ăn, nhưng đồ trong kho dưới làng ngon hơn.”

Tôi nhìn Mo: tụi nó đã giết người ở Kilcrannog sao?

Đám phiến quân chuyên giết chóc. Có vậy mới gọi là phiến quân chứ.

“Tụi này chỉ lấy mấy tấm pin thôi vậy,” Hood nói với chúng tôi, “Hôm nay may thật đó, bà già à. Wyatt, Moog, cho tụi bây đó.”

Tấm pin? Hai đứa trong bọn, một tên chằng chịt sẹo di chứng cúm chuột, dựng thang vào đầu hồi. Chúng trèo lên, rồi chúng tôi hiểu ra chúng muốn gì. “Không,” Mo lên tiếng. “Các người không thể lấy pin mặt trời của tôi được”

“Dễ mà, có gì không được, lão bà,” thằng to con râu ria đáp, giữ vững thang. “Chỉ cần một cái kềm cộng lực, nhẹ nhàng đưa ẻm xuống, xong. Tụi này làm cả trăm lần rồi.”

“Tôi cần pin để thắp sáng,” Mo phản đối, “rồi để dùng máy bảng nữa!”

“Chỉ cần bảy ngày nữa,” Hood đoán, “bà sẽ chỉ mong trời tối. Có vậy mới thoát được bọn hôi của. Coi như tụi này làm ơn cho bà. Bà cũng sẽ không cần máy bảng nữa. Đất Thuê không có Mạng nữa. Thời xưa tốt đẹp đúng là tốt thiệt, nhưng qua rồi, lão bà à. Mùa đông đang tới.”

“Anh tự gọi mình là ‘Hood’, Mo nói, “nhưng anh là Hood cướp bóc, chứ không phải Robin Hood gì cả. Các anh cũng đối đãi với bà con lớn tuổi của mình như vậy sao?”

“Ưu tiên hàng đầu là sống sót,” Hood trả lời, nhìn đồng bọn trên mái nhà. “Mấy người đó chết rồi, ông bà già tôi cũng vậy. Thời họ sung sướng hơn thời tôi nhiều. Trạm điện, xe hơi, tiện nghi. Mấy người sống dai quá. Tới hạn tính sổ rồi. Ngay hôm nay,” trên mái nhà kềm cộng lực đang cắt tấm pin thứ nhất, “mấy người phải bắt đầu trả. Tụi này cũng giống dân đi đòi nợ.”

“Nhưng đâu phải chính tụi tôi phá hủy thế giới,” Mo nói. “Là lỗi hệ thống. Tụi tôi không thể thay đổi được.”

“Vậy thì cũng không phải chính tụi này lấy pin của bà,” Hood đáp. “Là lỗi hệ thống. Tụi này không thể thay đổi được.”

Tôi nghe có tiếng chó nhà O’Daly sủa, cách đó ba quãng đồng. Tôi cầu nguyện cho Izzy bình an; rằng những tay súng không làm gì mấy đứa con gái. “Các anh sẽ làm gì với mấy tấm pin?” Tôi hỏi.

“Thị trưởng Kenmare,” Hood đáp khi hai đồng bọn đang khiêng pin của Mo về xe jeep, “tay này đang xây pháo đài hoành lắm. Tường lớn. Vành Đai riêng, có camera giám sát, đèn đuốc. Chịu trả thức ăn và diesel đổi lấy pin mặt trời.” Kềm cộng lực cắt đến tấm pin thứ hai. “Đám này và luôn mấy tấm ở nhà dưới kia nữa…” hắn hất đầu về phía nhà tôi

“… sẽ được đưa tới cho thằng chả.”

Mo nhanh trí hơn tôi: “Hàng xóm tôi không có pin mặt trời.”

“Có người ba xạo,” tên to xác ngâm nga. “Ông Máy Bay nói có đó, ông Máy Bay có bao giờ xạo đâu.”

“Máy bay drone hôm qua là của các người sao?” Tôi hỏi, như thể hỏi vậy sẽ khiến chúng đổi ý.

“Bình Ổn đi tìm hàng,” tên to xác nói, “còn tụi này đi lấy hàng. Làm gì mà sững vậy, bà già. Bình Ổn cũng là một phiến quân thôi. Nhất là khi bọn Khựa đã đi rồi.”

Tôi tưởng tượng ra mẹ mình nói, Là người Hoa, đừng gọi là Khựa.

Mo hỏi, “Các anh có quyền gì mà lấy tài sản của tụi tôi?”

“Có súng thì có quyền,” Hood đáp. “Đơn giản vậy thôi.”

“Vậy là các anh thiết lập lại luật rừng hay sao?” Mo hỏi.

“Chính các người mới thiết lập lại đó chứ, mỗi khi đổ đầy thùng xăng thời trước.”

Mo đâm gậy xuống mặt đất. “Đồ trộm cắp, du côn, quân sát nhân!”

Hắn ngẫm ngợi, mân mê khoen xỏ chân mày. “Sát nhân: khi lựa chọn giữa giết người hay bị giết, thì đúng vậy, tôi là quân sát nhân. Du côn: thì ai chẳng có lúc này lúc kia, hả bà già. Trộm cắp: thực tình tôi cũng là dân đi buôn mà. Bà đưa pin mặt trời, tôi đổi cho tin tốt lành.” Hắn cho tay vào túi rồi lấy ra hai ống trắng ngắn. Tôi thấy nhẹ cả người vì không phải là súng. Tôi đưa tay đón khi hắn đưa ra. Tôi nhìn ống thuốc, nhìn đầu lâu xương sọ, chữ viết tiếng Nga trên đó. Giọng Hood không còn châm chích nữa. “Là cách giải thoát. Phòng khi đám hôi của tới, hay có dịch cúm chuột, hay gì gì nữa, mà không có bác sĩ. Thuốc chống nôn tức thời,” hắn nói, “và đủ pentobarbital để ra đi đàng hoàng trong ba mươi phút. Tụi này gọi là trái việt quất. Êm ái không đau đớn. Đựng trong ống niêm kín.”

“Tôi sẽ vứt thẳng xuống cống.” Mo nói.

“Vậy thì trả lại đây,” Hood nói. “Nhiều người muốn còn không được.” Tấm pin thứ hai của Mo bị tháo khỏi mái nhà, mang ra xe jeep ngay trước mắt chúng tôi. Tôi thảy cả hai ống thuốc vào túi áo: Hood trông thấy, nhìn tôi suy đoán. Tôi làm ngơ. “Có người ở nhà dưới không?” hắn hất đầu về phía căn nhà, “để tụi này còn biết trước?”

Tôi nhói lòng, thấy ghen tị làm sao khi nhớ lại cách Marinus có thể “huấn lệnh” người khác làm theo ý mình. Tôi chỉ có ngôn ngữ. “Anh Hood. Cháu tôi bị tiểu đường. Nó cần bơm insulin, phải sạc mỗi ngày. Nếu anh lấy pin đi, anh sẽ giết nó mất. Tôi xin anh.”

Trên đồi, cừu kêu be be, không hề để tâm những đế chế của con người trỗi dậy rồi lụi tàn. “Thật là xui xẻo, bà già à, nhưng cháu bà sinh ra trúng thời Mạt Vận. Nó bị giết bởi một tay trùm ở Thượng Hải, tay này tính ra được rằng, ‘Đất Thuê Tây Cork không làm ăn gì nổi.’ Nếu tụi này để lại pin cho bà, trong bảy ngày tới bọn hôi của cũng sẽ kéo tới lấy sạch.”

Văn minh cũng như kinh tế, như tiên nữ Tinkerbell: chỉ tồn tại khi người ta vẫn còn tin vào sự tồn tại đó. Mo hỏi, “Lương tâm các anh để đâu?”

“Ưu tiên số một là sống sót,” Hood lặp lại.

“Đó không phải là câu trả lời,” bà hàng xóm của tôi hừ mũi. “Đó là một trái việt quất mà anh nhồi vào họng chút lương tâm còn sót của mình.”

Hood tảng lờ Mo và với một động tác mềm mỏng khiến tôi bất ngờ, hắn ép bàn tay tôi dưới bàn tay hắn, ấn ống thuốc thứ ba vào lòng bàn tay. Hi vọng len lỏi dưới chân tôi. “Ở nhà bên dưới không còn ai nữa. Đừng bắn gà của tôi. Xin các người.”

“Tụi này còn không đụng tới một cái lông gà nữa, bà già à,” Hood hứa hẹn.

Tên lớn xác rậm râu mang cái thang đi xuống nhà Dooneen giữa chừng thì có tiếng nổ như xé tan buổi chiều im phăng phắc. Ai cũng rúm ró, căng thẳng - cả Mo và tôi.

Tiếng nổ từ Kilcrannog? Có tiếng vọng, rồi tiếng vọng của tiếng vọng.

Có người gọi ra, “Cái quỷ quái gì thế?”

Thằng nhóc mặt sẹo vì cúm chuột chỉ tay rồi nói, “Ở kia…”

Từ bụi cây vân anh bốc lên một làn khói đen như dầu mỏ, thoáng ánh cam như thần đèn đang bay ra, rồi bị gió cuốn ra xa về phía núi Caher. Một giọng lào khào lên tiếng, “Kho dầu chết tiệt!”

Hood đập tay vào tai nghe, lật microphone ra. “Tổng Hành Dinh, Rolls-Royce báo cáo, vị trí Dooneen, cách Kilcrannog một dặm về phía tây. Tiếng nổ đó là sao vậy? Hết.”

Bên kia quãng đồng rộ lên những tiếng súng dồn dập, kinh hãi.

“Tổng Hành Dinh, Rolls-Royce báo cáo - cần tiếp viện không? Hết.”

Qua mũ bảo hiểm của Hood chúng tôi chỉ nghe vọng ra một giọng nói thất thần, đứt quãng hoảng sợ.

“Tổng Hành Dinh? Rolls-Royce đây. Làm ơn trả lời. Hết.” Hood đợi, nhìn chăm chăm vào làn khói vẫn đang tràn lên từ dưới thành phố. Hắn lại vỗ vào tai nghe. “Audi? Rolls-Royce đây. Có liên lạc với Tổng Hành Dinh không? Dưới thị trấn có chuyện gì vậy? Hết.” Hắn chờ đợi. Tất cả chờ đợi, quan sát hắn. Im lặng nối dài. “Hoặc là đám nông dân nổi loạn hoặc là bọn khách vừa vượt Vành Đai sớm hơn mình tưởng. Đằng nào thì cũng về lại thị trấn ngay. Rút đi.”

Tám tên phiến quân trở lại xe jeep, không buồn ngoái nhìn tôi hay Mo. Chiếc xe chạy lùi dưới đường vào nhà Mo, rồi thình thịch trở lại con đường đổ ra lộ chính.

Từ phía Kilcrannog, tiếng súng mỗi lúc một dồn dập.

Vẫn còn sạc được bơm insulin của Rafiq, tôi chợt nghĩ ra.

Ít nhất là tạm thời: Hood đã nói đám hôi của đang trên đường tới. “Còn không cất thang vào cho tôi nữa,” Mo lẩm bẩm.

Đầu tiên tôi đi đón đám trẻ từ dưới Bãi Trắng. Những con sóng từ Vịnh Dunmanus như ngập ngừng không biết phải đổ theo hướng nào khi gió thổi từ phía đông. Zimbra chạy ùa ra từ nhà kho bằng tôn cũ kỹ, theo sau là Lorelei và Rafiq, đang hoàn hồn nhưng vẫn lo sợ. Tôi kể chuyện đám phiến quân và mấy tấm pin mặt trời rồi bà cháu đi bộ trở về nhà Dooneen. Tiếng súng vẫn còn lâm râm trong buổi chiều, trên đường về, có lúc chúng tôi thấy một máy bay không người lái đang lượn lờ trên làng. Sau một đợt súng kéo dài, cặp mắt tinh tường của Rafiq nhìn ra máy bay đã bị bắn hạ. Một chiếc xe jeep gầm gừ dọc con đường phía trên. Chúng tôi bắt gặp một cái nấm trứng khổng lồ ở rìa bãi cỏ, và mặc dù tâm trí tôi còn vướng bận nhiều chuyện hơn là ăn uống, chúng tôi vẫn hái cây nấm, Lorelei khiêng nấm về nhà như người ta ôm quả bóng. Thịt nấm thái mỏng chiên bơ cũng làm được món chính cho bốn người - Chúa mới biết khi nào mới có hộp khẩu phần nữa, (nếu vẫn còn có). Tôi còn thức ăn đủ chừng năm tuần cất trong nhà và ở vườn rau, nếu dè xẻn. Nếu không có thêm toán cướp vũ trang nào đến lấy đi.

Về lại nhà tôi thấy Mo đang cho gà ăn. Bà cố nối mạng với bạn dưới làng, ở Ahakista, ở Durrus và Bantry, nhưng Mạng thực sự đã chết hẳn. Radio cũng vậy: ngay cả đài RTÉ. “Im lặng chết chóc, như nhà mồ.” bà nói.

Làm gì bây giờ? Tôi không biết phải làm gì: che chắn kỹ rồi nấp hết vào trong, hay gởi hai đứa trẻ đến chỗ nào hẻo lánh, chẳng hạn ra ngọn hải đăng, hay đi thăm nhà O’Daly dưới Trại Knockroe, xem thử Izzy và gia đình ra sao, rồi làm gì nữa? Chúng tôi không có vũ khí gì, nhưng thực lòng với số lượt súng nổ trên Xứ Đầu Cừu chiều nay, có một khẩu súng trong tay còn dễ bị chết hơn là không có gì. Tôi chỉ biết rằng, trừ khi lại có hiểm họa chạy xe jeep dọc đường Doneen, tôi vẫn thấy đỡ hoang mang hơn nếu có Lorelei và Rafiq ở bên cạnh. Đương nhiên nếu mấy bà cháu cùng bị nhiễm đồng vị phóng xạ thì cũng chẳng còn gì để nói nữa, nhưng lo hết nạn này rồi hẵng tính nạn tiếp.

Thứ chúng tôi cần nhất là tin tức. Súng đã ngừng nổ dưới làng, nhưng cho đến khi nắm rõ tình hình, vẫn không nên đến đó. Nhà O’Daly hẳn biết nhiều hơn chúng tôi, nếu Declan đã trở về an toàn. Trong buổi chiều bạo loạn, trại của họ như xa xăm hơn, nhưng Lorelei và tôi vẫn lên đường. Tôi dặn Rafiq ở lại nhà với Zimbra để trông chừng Mo, nhưng dặn thêm rằng có chuyện gì xảy ra đi nữa, nhiệm vụ đầu tiên của thằng nhỏ là làm sao sống sót. Hẳn gia đình của nó ở Ma-rốc cũng chỉ muốn vậy: vì thế mà họ đã cố đưa nó đến Na Uy. Có lẽ dặn như vậy chẳng hay ho gì, nhưng nếu trên đời có một cuốn sách tựa đề Những Việc Đúng Đắn Phải Làm Khi Văn Minh Nhân Loại Sụp Đổ, thì tôi vẫn chưa được đọc tới.

Hai bà cháu theo bờ biển đến Trại Knockroe, qua khỏi bãi đá nơi tôi vẫn nhặt rong biển và tảo, rồi băng qua quãng đồng cỏ bên dưới của nhà O’Daly. Đàn bò Jersey lơ thơ tiến lại gần, muốn được vắt sữa: có chuyện chẳng lành. Sân trại im ắng đáng sợ, Lorelei phát hiện mấy tấm pin mặt trời trên nóc chuồng ngựa cũ đã biến mất. Ban nãy Izzy có kể rằng Declan và Max con trai lớn đã đi vào làng lúc sáng, nhưng Tom, Izzy hay Branna mẹ chúng hẳn phải có nhà. Cũng không thấy Schull, con chó chăn cừu đâu, rồi cả Phil gã mục đồng người Anh cũng vắng mặt. Cánh cửa bếp mở đập trong gió, tay Lorelei nằm gọn trong tay tôi. Cánh cửa bị đá vào trong. Hai bà cháu đi qua bãi phân ngựa, qua sân, giọng tôi run run gọi vào bếp, “Có ai ở nhà không?” Không lời đáp. Gió thổi cái lon lăn lông lốc.

Chuông gió của Branna leng keng ngay cạnh cửa sổ mở hé. Lorelei cố hét thật to: “IZZY! MÌNH ĐÂY NÈ!” Tôi sợ phải đi vào sâu trong nhà.

Đĩa ăn sáng vẫn còn trong chậu rửa.

“Ngoại ơi?” Lorelei cũng sợ như tôi. “Có khi nào…”

“Ngoại không biết cưng à,” tôi đáp. “Con đứng ngoài đợi, ngoại sẽ…”

“Lol? Lol!” Là Izzy, theo sau là Branna và Tom, đang băng qua khoảng sân sau lưng chúng tôi. Tom và Izzy có vẻ không bị thương, nhưng run rẩy hoảng sợ, nhưng Branna O’Daly - năm mươi tuổi, tóc đen, trực tính thì có máu vấy đầy trên tạp dề. Tôi muốn hét lên, “Branna! Cô có bị đau không?”

Tôi càng hoảng, Branna càng ngơ ngác, rồi nhận ra: “Ui trời ơi, không phải đâu bà Holly, không phải bị trúng đạn, mà là bò của tụi này vừa đẻ con. Bò đực của nhà Connolly xộc vào bãi cỏ hồi mùa xuân rồi, khi nãy bò nhà tụi này chuyển dạ. Đúng lúc ha? Nó đâu có biết là Vành Đai đã bị phá, mấy băng cướp du đãng đang hoành hành khắp vùng, dí súng lấy hết pin mặt trời. Đã vậy còn đẻ ngược nữa, lôi thôi lắm. Nhưng mà nó đẻ bê cái, vậy là mình có thêm một con lấy sữa nữa.”

“Tụi nó lấy mấy tấm pin mất rồi,” Lorelei nói.

“Cô biết mà, cưng. Cô đâu làm gì được. Tụi nó có ghé qua Doneen không?”

“Tụi nó cũng lấy pin của Mo,” tôi nói, “nhưng khi có tiếng nổ thì rút hết, trước khi lấy pin nhà tôi.”

“Ừa, đám ở đây cũng rút đi chừng đoạn đó.”

Tôi hỏi Branna, “Declan và Max thì sao?” Cô ta nhún vai, lắc đầu.

“Vẫn ở dưới làng chưa về,” Tom đáp, rồi tiếp, vẻ bực tức, “Má không để con đi tìm hai người.”

“Hai trong số ba đàn ông nhà O’Daly trong vùng chiến sự đã là quá đủ.” Branna rõ là lo lắng muốn phát bệnh. “Ba đã dặn con ở nhà canh nhà kia mà.”

“Má bắt con đi trốn,” giọng mười sáu tuổi của Tom vỡ lào khào, “trốn với Izzy trong kho chứa cỏ chết tiệt! Đó đâu phải canh nhà.”

“Má bắt con trốn trong cái gì kia hả?” Branna hỏi, lạnh lùng.

Tom nhăn nhó, cũng lạnh lùng như vậy. “Trong kho chứa cỏ với Izzy. Nhưng tại sao…”

“Tám thằng ăn cướp với súng máy Trung Quốc đời mới nhất,” Izzy nói, “đối lại một thiếu niên với cây súng săn ba chục tuổi. Đoán tỉ số thử coi Tom. À mà nghe như có tiếng xe đạp. Đúng là vừa nhắc đã thấy ngay hả?”

Tom chỉ kịp nói, “Gì kia?” trước khi Schull sủa ra phía cổng trại, ngoắt đuôi, anh Max của Tom cưỡi xe đạp leo núi đi vào.

Max dừng xe cách đó vài mét. Thằng bé bị cắt vài đường sâu trên gò má, cặp mắt thất thần. Hẳn đã có chuyện rất tệ.

“Max!” Branna lo lắng. “Ba đâu rồi? Có chuyện gì vậy?”

“Ba… ba…” giọng Max run rẩy, “còn sống. Mọi người không sao chứ?”

“Không sao, tạ ơn Chúa, nhưng mắt con kìa!”

“Không sao mà má, chỉ là chút đá từ… Kho xăng dầu bị nổ tanh tành, bỏ mẹ rồi…”

Người mẹ ôm chặt lấy Max khiến nó không nói được. “Tự dưng con cái nhà này ăn nói gì lạ vậy?” Branna nói, vòng qua vai thằng bé. “Ba và má đâu có dạy dỗ tụi bây ăn nói như du đãng chết tiệt vậy hả? Giờ kể đầu đuôi thử.”

Trong khi tôi lau vết cắt trên má của Max trong bếp nhà O’Daly, thằng bé uống một ly rượu nhà nấu đục ngầu để dằn người lại, rồi thêm một tách trà bạc hà để gột vị của thứ rượu nhà nấu. Mãi nó mới bắt đầu được. Rồi một khi đã bắt đầu thì nói không dừng. “Ba và con vừa tới nhà cô Suke thì thằng Sam con lớn nhà Mary de Búrka qua gọi, nói là có họp làng khẩn cấp ở Hội Trường Lớn. Lúc đó chừng khoảng trưa. Gần như cả làng có ở đó. Martin đứng lên trước, nói là triệu tập cuộc họp vì Vành Đai đã bị phá này kia. Ổng nói mình nên tập trung Quân đoàn Bất thường của Xứ Đầu Cừu - ai có súng ống gì dùng nấy - để mà đi canh chốt chặn đường trên đường Durrus với đường Raferigeen, để mà lỡ bọn hôi của có tới, thì mình cũng không ngồi im mà đợi như gà tây đợi vô lò mùa Giáng Sinh. Hầu hết mấy đứa con trai cũng đồng ý vậy. Tới lượt Cha Brady phát biểu, Cha nói là Chúa đã để Vành Đai bị phá vì mình đã đặt lòng tin sai chỗ, tin vào hàng rào kẽm gai và người Trung Quốc, rồi nói là việc đầu tiên cần làm là chọn ra một thị trưởng mới, một người được Chúa phù hộ. Pat Joe và mấy đứa nữa nói, ‘Mẹ kiếp, lúc này mà còn tranh cử nữa!’ vậy là Muriel Boyce ré lên rằng tụi nó sẽ bị chết cháy, chết cháy cả đám trong hỏa ngục bởi vì đứa nào nghĩ rằng một đám dân mục đồng cầm súng rỉ có thể ngăn được Ngày Tận thế thì đúng là cái đồ ngu xuẩn chết tiệt, rồi cũng sẽ chết toi luôn. Rồi Mary de Búrka, á á…” Max nhăn nhó khi tôi dùng nhíp rút ra một mẩu đá nhỏ từ vết cắt.

“Xin lỗi,” tôi nói. “Miếng cuối cùng rồi đó.”

“Cảm ơn bà Holly. Mary de Búrka nói là sẽ không có hại gì nếu ta làm theo nguyên tắc, rằng Chúa giúp những kẻ biết tự giúp mình, rồi có tiếng máy xe, nhiều lắm, chạy về đó. Như Xe Công Ty ngày thứ Sáu nhưng ồn hơn, ồn hơn nhiều. Hội trường vắng tanh, hai mươi xe Jeep và một xe bồn chạy vào quảng trường. Mỗi chiếc vậy có bốn, năm, sau thằng. To con lắm, má à. Du đãng to con. Lính Bình Ổn đi cùng phiến quân, rõ là ở bên ngoài Vành Đai. Tương quan lực lượng hai bên ngang nhau, nhưng đánh đấm gì nổi. Bọn nó vũ trang tận răng, được huấn luyện để giết người. Một thằng người Dublin lớn xác bò ra khỏi xe jeep, bắt loa nói. Nói rằng hắn là Tướng Drogheda, rằng Vùng Đất Thuê Tây Cork cũ giờ đã được thiết quân luật sau khi Vành Đai sụp đổ. Mặt trận Bình Ổn Cork gởi hắn tới đây để trưng thu hết thảy pin mặt trời trên Xứ Đầu Cừu cho chính phủ, rồi thay mặt Bình Ổn trưng dụng luôn chỗ diesel vừa chuyển tới hôm qua. Lúc đó tụi con nhìn nhau, nghĩ, ‘Quên mẹ mày đi.’ Nhưng rồi thằng Drogheda nói mọi sự chống cự sẽ bị xem như tội phản quốc. Mà tội phản quốc, theo như Điều Gì Đó của Luật Bình Ổn Năm Nào Đó, sẽ bị xử bằng đạn bắn vô đầu. Martin Walsh đi tới xe jeep của Tướng Drogheda, giới thiệu mình là thị trưởng Kilcrannog rồi yêu cầu xem lệnh trưng thu từ Tổng Hành Dinh Cork. Thằng đó rút súng ra, bắn xuống đường giữa hai chiếc giày của Martin. Martin giật nảy người, điếng cả hồn vía. Drogheda, không biết có phải tên thật không, nói tiếp, ‘Xem vậy được chưa, ông Thị trưởng?’ Rồi hắn nói nếu có hảo hán nào cố cản, bọn hắn sẽ khoắng sạch kho thực phẩm, tới mùa đông mình chỉ còn ăn được đất đá.”

“Bình Ổn chắc không làm vậy,” Branna nói. “Phải không?”

Max uống rượu, nhăn mày rồi nhún vai. “Không ai biết chắc chuyện gì nữa. Sau khi Drogheda nói xong, chừng mười chiếc jeep rời khỏi làng chạy dọc theo lộ chính về phía Dooneen, mười chiếc nữa chạy theo rìa thị trấn, bắt đầu ra tay, đám còn lại ở nguyên đó. Rồi tụi nó lấy thang từ sau xe jeep ra, từng nhóm leo lên mỗi mái nhà có pin mặt trời. Hai thằng đứng ở dưới, mân mê súng ống, ý để dằn mặt trước. Trong khi đó, chiếc xe bồn rút hết xăng từ kho. Cả đám tụi con tức điên, lầm bầm, chửi - cái đồ ăn cướp chết tiệt, cướp hết diesel! nhưng nếu cố ra tay chặn lại có khi tụi nó đã bắn chết cả đám, đằng nào tụi nó cũng lấy mấy tấm pin đi. Ai cũng biết vậy, mà không làm được cái quỉ nữa. Dần dần xe bồn đầy lên, mái nhà bị lột sạch pin, xe jeep đổ về quảng trường, đợi mấy chiếc từ dưới Knockroe trở về. Rồi… có chuyện. Con không thấy đoạn đầu, nhưng lúc đứng với ba và Sean O’Dwyer con nghe có tiếng om sòm từ xe của Tướng Drogheda…”

Dè dặt, tôi chặm vết thương của Max bằng kem sát trùng, thằng bé nhăn mặt.

“Drogheda đang la hét một tên phiến quân. Thằng này có đeo biểu tượng xe Audi trên đầu, nói hắn mới là tổng tư lệnh, nếu thằng kia không thích thì cứ việc… Nói gì tới mẹ nó… Sao đó… Lúc đó gió lặng, tiếng la hét vọng khắp quảng trường, rồi con thấy một thằng phiến quân bặm trợn hơn đi từ phía sau Drogheda rồi…” Max nhướng mày, nuốt khan, cố không khóc, nhưng vô ích, giọng nó vỡ òa. “Bắn bể sọ nó. Bắn tỉnh khô. Ngay… ở đó.”

“Ôi lạy Chúa,” Izzy thì thầm.

“Tội nghiệp con,” Branna. “Con tận mắt thấy sao?”

Max giấu mặt sau bàn tay, cố kìm lại trong vài giây, hít thở sâu. “Chừng đó chưa ăn thua gì, má à. Đám Bình Ổn và phiến quân lao vào nhau như chó, như chó cầm súng. Cảnh tượng như mưa đá, nhưng thay đá bằng đạn.” Thằng bé tức tối vì nghẹn ngào. “Như trong phim chiến tranh cũ, có người ta rớt trên mái nhà xuống, người ta bò ngổn ngang trên vỉa hè…” Max nhìn ra xe, nhắm mắt lại để không nghĩ tới nữa, nhưng vô ích. “Đám dân làng cố tản ra, nhưng… má à… Seamus Coogan bị trúng đạn.”

Tôi không kìm được: “Seamus Coogan bị thương sao?” Max bắt đầu run bần bật, nó lắc đầu.

Tom hỏi, mắt thảng thốt, “Seamus Coogan chết rồi sao?”

Max chỉ gật đầu. Izzy, Branna, Lorelei, Tom và tôi nhìn nhau, cùng cảm nhận ngọn gió lạnh lẽo của tương lai gần. Tôi vừa nói chuyện với Seamus Coogan hôm qua đây. Max nốc cạn rượu nhà nấu, rồi tiếp tục nói, như thể nếu không nói tiếp thì sẽ hóa dại, mà có lẽ đúng vậy. “Con… con cố… nhưng mọi thứ chớp nhoáng.” Max nhắm mắt lại, lắc đầu, huơ tay trong không khí. “Ba kéo con lại, hét là mình không làm gì được cho Seamus nữa. Cả đám lê lết ra phía sau nhà Fitzgerald rồi trốn trong garage. Chỉ vừa kịp. Xe bồn trong quảng trường bị trúng đạn và… chắc ai cũng nghe được?”

“Có khi ở Tipperary cũng nghe được nữa,” Branna nói.

“Cả đám ngồi im chờ,” Max nói, “con không biết chờ bao lâu nữa. Có nghe tiếng súng, thấy một đứa bị bắn chết ngay trên đường vô nhà Fitzgerald… Chừng một tiếng đồng hồ? Chịu. Chắc không lâu vậy, nhưng đột nhiên, đám xe jeep kéo đi hết, lên đường núi hướng về ghế đá Fin MacCool, rồi… Rồi im lặng trở lại. Có tiếng chim hót. Cả đám chui ra từ chỗ nấp… choáng váng, như, như… như không tin được chuyện vừa xảy ra? Ở ngay đây? Ngay Kilcrannog?” Mắt Max lại ầng ậng nước. “Đúng vậy. Xác chết, người bị thương, chứng cứ đó. Bernie Aitken ôm súng, cố giữ cho được mấy tấm pin, nhưng bị bắn. Ổng bị thương nặng lắm. Con nghĩ chắc ổng chết thôi, má à. Quảng trường… rất… rất là… Đừng đi ra đó,” Max dặn Tom, Izzy và Lorelei, “đừng đi ra đó. Đợi khi nào dọn dẹp xong, khi nào mưa rửa sạch đã. Con… con… con ước gì mình chưa từng thấy cảnh đó. Phải đào chừng hai ba chục huyệt. Vài tên phiến quân bị thương, không đi được. Có đứa nói là hay quăng xác tụi nó xuống biển quách, vì mình mà chết thì tụi nó cũng làm vậy…” Mặt Max giận dữ, trong thoáng chốc không còn hoảng hốt, “…nhưng bác sĩ Kumar làm hết sức cứu tụi nó. Nhưng chắc tụi nó không qua khỏi. Chỗ kho xăng giờ thành hố bom, cửa sổ bắn vương vãi khắp quảng trường. Mặt tiền nhà Josey Malone tan tành. Quán rượu giờ cũng tan hoang không ra gì.”

Mơ hồ, tôi lo lắng về Brendan: những trận giao tranh giành giật như vậy hẳn đang diễn ra trên khắp châu Âu, chỉ khác nhau về đồng phục và quang cảnh. Tôi tự hỏi Hood và tên to xác râu ria giờ đang ở đâu: đã chết, đang bỏ chạy, hay đang chết dần trong trạm xá của bác sĩ Kumar. Đang nuốt một trái việt quất chăng.

Branna nhẹ nhàng hỏi, “Giờ ba đang làm gì hả Max?”

“Đang giúp Mary de Búrka điều động dọn dẹp. Martin Walsh và vài người nữa đã đạp xe lên Ahakista bàn chuyện chốt chặn đường. Giờ lại càng khẩn thiết hơn. Có lẽ sẽ tự làm Vành Đai ngắn của mình: từ Durrus qua Coomkeen, rồi theo lộ dọc xuống Boolteenagh ở phía Bantry. Thì đúng là cho đến khi mình làm được hàng rào, đào được hào, thì cũng chỉ là vài đứa có súng canh trong lều, nhưng giờ súng máy rất nhiều, rồi bà con của Martin đang ở dưới chốt Derrycahoon nữa. Không biết còn ở đó không. Người của Bình Ổn cũng cần có nơi yên ổn cho gia đình họ. Thôi, con phải trở lại đây, cầm theo vài cái xẻng nữa.”

“Không được, Max” Branna nói. “Con còn sốc lắm. Nằm yên đó. Ngày mai làm cũng được mà.”

“Má,” Max đáp, “nếu mình không dựng sẵn chốt chặn đường thì có khi còn không có ngày mai. Còn nhiều việc phải làm lắm.”

“Vậy thì em đi với anh,” Tom l?