Chương 12
Thật ra thì căn gác trọ của Minh không phải chỉ mới có ba người đàn bà đến thăm như ông Sửu vừa kể. Bà Truyền, mẹ của Minh, cô Nhi, em họ của Minh và hôm nay là Duyên, đều ghé đây vào ban ngày nên ông Sửu mới nhìn thấy. Ông không muốn thấy, ông cũng vẫn thấy, bởi sạp hàng của ông đối diện với căn gác của Minh, chỉ cách một con đường hẹp ngang. Những người khác từng đến với Minh nhiều lần, nhưng ông Sửu không biết vì họ đến ban đêm lúc ông đã dẹp quầy mũ về nghỉ. Các đồng chí của Thành Bộ như nhóm Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Văn Lân, hoặc từ Tổng Bộ như Lê Hửu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân, từng ăn ngủ hội họp, thảo truyền đơn trên căn gác nhà Minh vài lần mà tất nhiên Minh không kể cho ông Sửu nghe.
Ông Sửu rót nước trong phích ra hai cái cốc thủy tinh vàng đục và hỏi:
- Cô ấy chắc là người nhà của thầy?
Minh hơi bực mình vì có cảm tưởng như ông Sửu đi quá đà, lúc nào cũng tò mò tìm hiểu về những người gặp gỡ của Minh. Nhưng anh lại tự giải thích ngay giùm ông Sửu: Người ta có quí mình thì người ta mới lo lắng cho mình! Anh gật đầu:
- Vâng! Cô ấy là vai em họ, mới dưới Hải Ninh lên. Thầy mẹ tôi bảo cô ấy lại đến gặp tôi, nhắn tí việc! Người lạ thì tôi đâu dám cho biết chỗ ở của mình! Thời buổi này, biết tin ai!
Ông Sửu nghiêm giọng đáp:
- Thầy ạ! Tôi là kẻ văn dốt vũ dát, lại bị trời bắt tội, hỏng mất một chân, chả làm được gì cho đại sự nữa. Hèn mọn như tôi mà được thầy chiếu cố cho ngồi nói chuyện ngang hàng với thầy là tôi cảm kích lắm rồi …
Minh vội vàng gạt đi:
- Không dám, sao ông lại nói thế!
- Chả phải tôi khách sao đâu! Tôi nói là để thầy hiểu rằng lúc nào tôi cũng qúi trọng những người như thầy. Và càng quí thầy thì tôi lại càng lo, chỉ sợ chuyện chẳng lành xẩy đến cho thầy. Tôi muốn đền đáp cái ơn tri ngộ mà thầy dành cho tôi, nên lúc nào tôi cũng nhắc nhở thầy, mong thầy đừng giận. Tôi nghiệm ra rằng: Chín mươi phần trăm bắt bớ Quốc Dân Đảng xẩy ra gần hai năm nay, đều là do nội phản cả, chứ chả phải do mật thám có tài điều tra! Thầy nghĩ lại mà xem!
Minh chớp mắt thở dài:
- Vâng! Quả có thế! Ông muốn tôi tránh giao tiếp với người lạ chứ gì?
Ông Sửu nhấn mạnh:
- Ngay cả với người quen thầy ạ. Người quen cũng phải đề phòng!
Minh cười:
- Vậy là tôi phải đề phòng ngay cả ông nữa! Vì ông là người quen!
Nói câu nửa đùa nửa thật ấy, Minh chợt nhớ đến lời của Lê Hửu Cảnh. Theo Cảnh thì rõ ràng Quốc Dân Đảng đang bị vỡ vì nội phản, nhưng cũng có thể thêm bàn tay Đông Dương Cộng Sản Đảng nhúng vào. Cảnh chỉ không biết việc tố giác hoạt động của Quốc Dân Đảng với thực dân Pháp là chủ trương của Tổng bộ đảng Cộng Sản hay chỉ là hành vi riêng lẻ của một số cá nhân đảng viên. Vài lần Cảnh từng nói đến điều này với Nguyễn Thái Học, nhưng lần nào cũng bị đảng trưởng gạt phăng đi vì cho rằng Cảnh nghi oan những người đồng chí hướng. Mới đây, gần đến ngày tổng khởi nghĩa, Cảnh càng bồn chồn nóng ruột, chạy đi tìm cô Giang trên Yên Bái để bày tỏ nỗi lo ngại ấy thì xem chừng cô có vẻ xiêu lòng, đồng ý với Cảnh. Cô ưu tư bảo Cảnh:
- Anh Học thì thẳng thắn lắm. Anh ấy cứ lấy lòng quân tử mà đo bụng kẻ tiểu nhân. Nếu em không trưng được bằng cớ gì cụ thể thì khó mà làm cho anh Học tin.
Cảnh chì chiết:
- Chờ có bằng chứng cụ thể thì mình bị bắt hết rồi còn đâu!
Ngẫm nghĩ một chút, cô Giang nhìn Cảnh tội nghiệp nhắc lại:
- Anh đừng nói gì cả. Anh cứ để cho em. Các anh ở Tổng Bộ đang nghi là người cầm đầu phe chủ hòa. Huống chi anh cũng biết anh ghét Cộng Sản cho nên anh có nói ra, người ta cũng sẽ bảo anh vì thành kiến mà vu oan cho đảng Cộng Sản!
Cảnh khổ sở gật đầu. Anh không muốn nói nhưng cứ phải nói. Không thuyết phục được các đồng chí ở Tổng Bộ thì anh tâm sự với những người thân tín như Minh để dặn dò họ phải đề phòng.
Riêng ông Sửu ngồi một chỗ thì những tin tức ông thu lượm được chỉ cho ông thấy một đìều đau lòng là Quốc Dân Đảng đang bị nội phản quá nhiều. Ông chưa bao giờ nghĩ đến việc Đông Dương Cộng Sản Đảng cũng là thủ phạm góp phần bán đứng Quốc Dân Đảng cho giặc.
Minh vỗ vai ông và nói:
- Dù sao tôi cũng cảm ơn ông. Ông dặn thì tôi phải nghe, vì ông trãi đời hơn tôi rất nhiều!
Dứt lời, Minh uống cạn tách trà và đứng dậy cáo từ, băng qua đường …
Hôm sau, Duyên dậy sớm hơn thường lệ. Cả đêm cô chập chờn thao thức nhớ đến Minh. Đời Minh, đó là lần đầu tiên cô có dịp gặp riêng một người con trai mà cô ấp ủ tình cảm từ lâu. Gặp riêng trong căn phòng vắng, tuy chưa nắm bàn tay nhau, thậm chí chưa nói được một câu tình tứ nào, nhưng Duyên đã thấy xao xuyến như mở ra một chân trời yêu đương rực rỡ làm cô trăn trở không ngủ được. Không ngủ được vì bên cạnh niềm vui bất ngờ là gặp được Minh. Duyên lại thấy xót xa vì nhìn rõ hoàn cảnh éo le bế tắc. Cho dù Minh có thiện cảm đậm đà với Duyên đi chăng nữa rồi cũng chẳng đi đến đâu bởi Duyên đang mang nặng lời thề hiến thân cho đoàn thể, không cách nào bỏ cuộc được!
Nằm lăn qua lăn lại, nghĩ quanh nghĩ quẩn, có lúc Duyên tự trách mình quá mềm yếu. Cô từng là Bí thư chi bộ, giảng bài động viên các đồng chí, thế mà giờ đây lại chùn bước thoái lui chỉ vì một chuyện tình vớ vẩn! Duyên thấy cần phải phấn đấu, quên phứt Minh để quay về với nhiệm vụ. Nhưng nghĩ là một chuyện. Trái tim đang rung động chan hòa, không cách nào Duyên có thể gạt được hình ảnh Minh ra khỏi lòng mình!
Sáng thức dậy, đôi mắt còn cay nhưng Duyên không thấy mệt mỏi, trái lại có một niềm vui sâu kín làm cô nao nức như bắt gặp ánh bình minh chan hòa khởi đầu một ngày nắng đẹp. Cô đun nước pha trà cho ông Chu như thường lệ. Lại nấu thêm một bình thủy nước sôi để sẳn ông dùng cả ngày. Rồi cô ra sân trước chẻ mớ củi, trải đều ra phơi. Thời gian trôi quá chậm, cô vào dọn dẹp nhà bếp một lúc, nắng mới bắt đầu xuyên qua cửa sổ. Mọi việc xong xuối, cô đi tắm, thay quần áo và xách giỏ đi chợ. Dĩ nhiên cô đi vòng, tốn thêm khoảng nửa giờ để có dịp đi ngang qua căn gác của Minh, hy vọng Minh có nhà và kéo cô vào ngồi nói chuyện. Đêm hôm qua, cô đã tính đi tính lại và thấy không có cách nào gặp được Minh, ngoại trừ mỗi ngày đi chợ, ghé vào chốc lát cho đỡ nhớ. Nhưng Duyên đảo tới đảo lui ba lần, cánh cửa dẫn lên cầu thang và cửa sổ trên gác đều khép kín vì Minh đã đi làm. Biết trước như thế mà Duyên vẫn thở dài buồn bã, lầm lũi quay lại chợ.
Những ngày kế tiếp vẫn như thế. Cô đến tìm Minh không gặp, mà Minh cũng chẳng thèm ghé vào nhà thuốc Vĩnh An Đường lần nào nữa.
Sáng chủ nhật, Duyên hồi hộp lắm. Cô nhớ lời Minh dặn lúc chia tay: Chủ nhật Minh ở nhà không đi đâu. Cô lo thu dọn mọi công việc cho ông Chu rồi đội nón xách giỏ ra đi. Ông Chu đứng sau quầy thuốc nhìn theo và dặn một câu mà ông đã nói đến chục lần:
- Đi nhanh nhanh lên. Đừng có la cà lâu ở ngoài chợ, ngộ nhỡ có ai quen nom thấy! Mua bó rau hoặc mớ cá, ăn tạm được rồi!
Duyên không trả lời. Cô nhận thấy gần đây ông Chu có những đổi thay không che giấu được. Tuần lễ đầu tiên, ông rất lịch sự với Duyên, một điều chị, hai điều chị, giữ đúng tác phong đồng chí cư xử với nhau. Tuần thứ hai ông bắt đầu chuyển hướng, cố tình tỏ ra gần gũi thân mật với Duyên. Có lẽ cái khung cảnh vắng vẻ chỉ có hai người dưới một mái nhà, đã tạo điều kiện cho ông bịến chất. Đêm đêm Duyên nằm trên cái chõng tre kê ở một góc bếp. Có đêm đã khuya lắm, cô thấy ông Chu bưng đèn vào, tưởng Duyên đã ngủ say, đứng lặng nhìn cô rất lâu làm cô hồi hộp lo sợ muốn đứng tim. Nhiều tối, Duyên đã thu dọn và tắm gội xong, sắp lên giường nằm thì ông cứ lân la nói chuyện vớ vẩn không cần thiết, mục đích chỉ để kéo dài thì giờ ngồi bên Duyên. Duyên nhìn rõ âm mưu của ông.Ông chưa làm gì cả. Nhưng rõ ràng lòng ông đã bùng lên những ham muốn xác thịt. Nếu Duyên ở đây thêm một thời gian nữa mà vợ ông vẫn vắng nhà thì thể nào ông cũng tiến xa hơn vì khó có thể kìm hãm được. Khổ nhất cho Duyên là nhà này không có buồng tắm.Mảng sân sau, chỗ rửa rau, rửa bát cũng chính là nơi mọi người đứng tắm bên cạnh lu nước. Duyên cứ phải chờ trời tối hẳn, rồi lấy chiếc chiếu buộc lên làm màn che cái cửa ăn thông từ nhà bếp ra sân sau cho kín đáo. Dù vậy, đứng xối nước, cô vẫn thấy tông hốc khó chịu lắm, nhất là cô luôn e ngại ông Chu đứng trong bếp nhìn qua kẻ vách. Đoán được tâm trạng của ông, Duyên cũng không nói chuyện với ông nhiều như mấy hôm đầu nữa. Chẳng những Duyên không muốn ông hiểu lầm là cô có thiện cảm với ông, mà còn cố ý tỏ ra lạnh lùng để ông phải dừng lại.
Bước ra thềm, Duyên thấy hối hận vì hôm giã từ Hải Ninh, chỉ mang theo ba bộ quần áo cũ, toàn màu nâu đậm để dễ lăn lóc trên đường cách mạng. Có ngờ đâu bây giờ cần hẹn hò với Minh thì chả nó bộ nào coi được!
Đến trước nhà Minh, cô bước chậm hẳn lại, ngước mắt nhìn lên gác, vui mừng thấy cánh cửa sổ đã mở toang. Cô đi đi lại lại hai ba lần, nhưng chẳng thấy Minh ra. Cô làm bộ ngồi xuống ngay bên vỉa hè, tháo chiếc guốc mộc, xoay qua xoay lại làm như quay guốc sắp bị đứt, cần phải kiểm tra lại. Vẫn chả thấy Minh đâu. Cô đánh liều bước lại gõ nhẹ vào cánh cổng. Bên trong vẫn im lìm. Thất vọng quá toan bỏ về thì may quá Minh từ bên quầy mũ của ông Sửu chạy sang. Duyên thở phào mừng rỡ, khẻ gật đầu chào. Minh không nói gì, chỉ chớp mắt ra hiệu rồi đi thẳng lại cổng, đẩy nhanh cánh cửa và lẻn vào. Anh nhìn sang bên kia đường và yên tâm thấy ông Sửu không chú ý theo dõi. Duyên bước nhanh theo sau Minh, cùng leo lên gác. Hai người vào nhà khép cửa lại. Minh nói cho có chuyện:
- Mới sáng sớm, vừa đẩy cửa sổ ra thì ông Sửu bên kia đường vẫy tay gọi sang, đãi bát bún riêu. Từ chối mãi không được!
Duyên hơi ngạc nhiên. Cô cứ nghĩ người học thức như Minh thì chả khi nào lại ngồi chung với giới lao động bình dân như ông Sửu. Tuy vậy, cô không nói ra điều ấy. Cô bỏ nón, ngồi xuống mép giường và đặt cái giỏ mây bên cạnh. Cô để ý thấy nhà Minh hôm nay thu dọn gọn ghẽ hơn. Nghĩa là những tờ báo, những cuốn sách được đặt chồng lên nhau và đẩy sát vào vách. Cô hỏi:
- Hôm nay chủ nhật, anh không đi đâu?
Minh đã nấu sẳn ấm trà, rót ra mời Duyên và đáp:
- Tại tôi đoán trước là cô sẽ ghé thăm, thành ra ở nhà để chờ!
Duyên cảm động nói nhỏ:
- Em cảm ơn anh!
Nhân tiện, Duyên thêm:
- Hôm qua em cũng đi ngang qua đây, cả hôm kia nữa, nhưng anh không có ở nhà! Hôm nay em cũng cứ sợ là không gặp anh!
Minh kêu lên:
- Thế à! Tiếc quá! Hai hôm nay nếu biết là cô đến thì tôi đã ở nhà chờ! Công việc của tôi có bắt buộc phải lại tòa báo đâu!
Điều này thì Minh nói thật. Anh chỉ cần viết bài nộp cho chủ báo là xong nhiệm vụ. Sở dĩ gần đây, anh luôn luôn cố gắng hiện diện tại tòa soạn mỗi ngày là để tránh sự ngờ vực của đồng nghiệp. Họ đều là người thân, gặp nhau tay bắt mặt mừng nhưng Minh chẳng dám tin ai trong giai đoạn vàng thau lẫn lộn này. Họ chưa biết Minh là đảng viên Quốc Dân đảng, cho nên cái tông tích ấy anh cần phải giữ kín tối đa.
Duyên nói:
- Em cũng biết là ngày thường anh phải đi làm. Nhưng em cứ đi qua đây cầu may thôi! Vì đàng nào em cũng phải đi chợ!
Minh biết là Duyên nặng tình với mình lắm. Anh hỏi:
- Thế hôm nay cô có muốn đi ra bờ hồ không? Tôi đưa cô đi. Cả ngày hôm nay, cô muốn đi đâu cũng được!
Duyên nén tiếng thở dài:
- Em ghé thăm anh một tí rồi phải về ngay chứ làm sao đi được! Chả có cớ gì để nói với người ta! Gặp anh như thế này là đã vi phạm qui định rồi!
Minh chép miệng than:
- Phiền nhỉ! Thế công tác của cô bây giờ là làm gì? Người ta gọi cô xuống đây để nấu cơm thôi hay sao?
Duyên ngượng ngùng khai hết cho Minh nghe:
- Em còn bực hơn anh ấy chứ! Chả là thế này. Nhà thuốc Vĩnh An Đường chỉ là cái trạm giao liên thôi. Em đến đây một hai ngày rồi sẽ có người đưa đi chỗ khác. Nghe nói là Hải Phòng hay Hòn Gai gì đó. Đi làm công tác vô sản hóa trong giới thợ thuyền. Nhưng xuống đến đây thì bất ngờ tình hình khó khăn vì bị mật thám theo dõi. Thành ra họ nói với em là nán lại chờ ở hiệu thuốc Bắc. Chả biết đến bao giờ!
Minh cười chen vào:
- Thành ra bỗng dưng hiệu thuốc Vĩnh An Đường có người đi chợ thổi cơm!
Duyên cũng cười theo:
- Nhưng cũng nhờ thế mà em gặp được anh!
Minh bưng tách trà trao cho Duyên và bảo:
- Cứ như cô thì không khéo nay mai cô sẽ không còn ở đây nữa. Chừng ấy biết bao giờ mới gặp lại cô!
Duyên đỡ cốc nước, miệng nói “Em xin anh!” rồi buồn rầu cúi xuống bảo:
- Đêm qua nằm mãi chả ngủ được, em cũng nghĩ như anh. Nhưng em tự an ủi, em xuống Hà Nội chả có ai quen biết, gặp được anh như thế này cũng quí lắm rồi. Chuyện mai sau biết thế nào mà lường! Không khéo rồi em lại gặp chị Hậu em trong Hỏa Lò cũng chưa biết chừng …. À! Lâu nay hình như anh không về Hải Ninh? Hay là anh về mà không cho em biết!
- Vâng! Lâu rồi tôi không có về. Mẹ tôi có xuống tận đây thăm tôi hai lần. Mẹ tôi bảo lão lý Bân được lệnh theo dõi tôi, thành ra khuyên tôi đừng về! … Cô uống nước đi kẻo nguội!
Duyên đưa tách nước trà lên nhấp từng ngụm nhỏ. Minh nhắc lại:
- Vậy là cô không đi xem cảnh Hà Nội được! Tiếc nhỉ!
Duyên đứng dậy, khom người đặt tách nước trên bàn trước mặt Minh và nói:
- Thôi, em phải đi chợ. Nắng lên rồi. Em phải đi để kịp về thổi bửa trưa. Em xin phép anh!
Cô cúi xuống xach giỏ rồi cầm nón bước ra. Minh vội vàng ra trước, chạy xuống cầu thang đứng chờ Duyên. Anh đẩy cánh cửa nhìn hai bên theo thói quen, rồi quay lại bảo Duyên:
- Tiếc quá cô chả ngồi lâu được! Đành chờ đến chủ nhật sau vậy!
Duyên gật đầu, đội nón lên. Cô nhìn Minh tha thiết rồi bước nhanh ra đường.
Gần trưa, Duyên ở chợ về, đang ngồi lặt rau đay ở sân sau thì một người đàn bà tuổi khoảng ngòai ba mươi, gánh đôi quang gánh đi thẳng từ ngoài cửa chính vào tận bếp. Duyên ngẫng lên ngơ ngác nhìn nhưng chưa kịp hỏi thì ông Chu tất tả chạy vào và nói:
- Nhà về đấy ư? Sao chuyến này đi lâu thế? Tôi đợi sốt cả ruột!
Hóa ra đó là Tịnh vợ ông Chu, vắng nhà từ hôm Duyên đến đây. Tịnh đặt quang gánh, cầm nón quạt mồ hôi lia lịa. Chị không đáp lời chồng mà chỉ đăm đăm nhìn Duyên, Duyên buông bó rau vào rổ, đứng dậy, cúi đầu chào:
- Em chào chị!
Ông Chu giải thích với vợ:
- Các anh ấy gửi ở đây để chờ nhận công tác!
Sát tường có cái lu nước lớn chứa nước mưa, Tịnh bước lại, cầm cái gáo dừa múc nước uống ừng ực. Đi bộ từ nhà ga về đây, mồ hôi loang loáng trên mặt, dính bết vào hai bên tóc mai và đẫm ướt lưng áo. Chị buông cái gáo và hỏi:
- Lâu chưa? Mấy hôm rồi?
Ông Chu đưa cái khăn vải cho vợ lau mặt và đáp:
- Từ hôm nhà vừa đi!
Duyên chen vào:
- Thưa, ba tuần rồi!
Tịnh khẽ kêu lên kinh ngạc:
- Ba tuần rồi, lâu thế cơ à!
Cùng với câu nói ngắn ngủn ấy, Tịnh đăm đăm nhìn Duyên dò xét. Duyên tuy là cô gái quê, nhưng trẻ trung và mặn mà, đến ở nhà chị đã ba tuần lễ chỉ có chồng chị bên cạnh ngày đêm. Tịnh thoáng thấy lo lắng vì ngờ vực. Chồng Tịnh, ông lang Chu, vốn không phải là người đứng đắn, bằng chứng là đã từng bỏ vợ con để lấy Tịnh. Huống chi, ông Chu cũng chẳng phải là người có nhiệt tình cách mạng đích thực. Chỉ vì lấy Tịnh mà ông tham gia và nhận làm giao liên cho đoàn thể. Nhà thuốc Vĩnh An Đường là nơi tiếp nhận các đồng chí thoát ly để chờ bố trí công tác. Nhưng từ trước đến nay, mới chỉ có bốn người mà toàn là đàn ông. Mà bốn người ấy chỉ ngủ qua một hai đêm rồi đi ngay. Duyên là phụ nữ đầu tiên đến ở đây, lại kéo dài đến ba tuần lễ trong lúc Tịnh vắng nhà! Biết đâu, trong lúc nửa đêm về sáng, thằng chồng của Tịnh chả mò mẫm vào giường của Duyên!
Trong hòan cảnh trốn tránh như thế này, dù Duyên có bị ông Chu làm càn thì cô cũng đành cắn răng im lặng chớ chả nhẽ chạy đi kêu đội xếp để tự tố cáo lạy ông tôi ở bụi này
Ông Chu chưa kịp lên tiếng giải thích thêm về trường hợp của Duyên thì phải bỏ lên nhà vì có khách vào mua thuốc. Duyên tiếp tục ngồi xuống lặt rau. Tịnh đứng nhìn một chút rồi cũng kéo cái ghế thấp lại ngồi bên cạnh Duyên và gợi chuyện:
- Cô nấu gì đấy?
- Em nấu bát canh rau ngót với tôm nõn.
- Thế à! Tôi cũng đang thèm ăn canh rau ngót. Anh Tự với anh Cảnh cũng thích ăn canh rau ngót lắm. Lần nào ghé đây cũng đòi ăn cho bằng được! Cứ bảo ăn vào mát ruột!
Tịnh ngừng lại vì chợt nhớ ra là không nên tên những đồng chí lãnh đạo Thành Bộ. Duyên có biết Ngô Gia Tự và Nguyễn Đức Cảnh là ai đâu mà đề cập đến họ. Tịnh đổi đề tài:
- Quên chưa hỏi, cô tên gì?
- Em là Ly. Vũ Thị Ly.
- Thế có ai liên lạc, giao công tác gì chưa?
- Thưa chưa. Em chờ sốt cả ruột. Anh Chu bảo, đường dây giao liên bị mật thám theo dõi, tạm thời phải ngưng mọi hoạt động. Ai ở đâu, tạm thời cứ ở đấy!
Tịnh gật đầu nhất trí:
- Đúng đấy cô ạ! Đáng lẽ tôi về từ tuần trước kia. Mấy lần mua vé xe hỏa rồi, lại phải bỏ. Có hôm tôi ra ga, leo lên tàu rồi, lại phải leo xuống!
- Sao thế hở chị?
- Thấy có đứa khả nghi nó theo dõi, là mình phải tìm cách nào tháo thân ngay. Cũng có khi mình đóan nhầm, nhưng cẩn tắc vô áy náy! Tôi để ý thấy mật thám nó không bắt mình ở ga lớn. Nó chờ mình xuống ga nhỏ dọc đường nó mới bắt. Trường hợp anh Túc với chị Nghiêm đều như thế cả. Mật thám nó theo từ Ga Hàng Cỏ. Nó có biết chắc là người của mình nhưng nó chờ dọc đường mới bắt!
Rồi nhân tiện, Tịnh giảng cho Duyên những kinh nghiệm công tác của mình trong mấy năm qua, bao nhiêu lần thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc. Duyên ngồi yên lắng nghe, nghĩ đến Hậu trong Hỏa Lò, rồi lại miên man nghĩ đến chính mình, chả biết mai này trên đường cách mạng có thoát được màng lưới của mật thám hay không?
Hai chị em đang nói chuyện thì ông Chu từ nhà ngoài bước vào, lấy những gói hàng từ hai cái thúng của vợ, chất lên giường. Đó là những bao thuốc Bắc gói trong giấy báo, cùng với vài xấp vải, thêm ít khoai lang, đậu phọng chưa bốc vỏ. Nói chung, những thứ ấy chỉ để che mắt mật thám, làm như Tịnh thật tình đi buôn bán mà thôi.
Ông Chu mở một gói thuốc Bắc và quay sang hỏi vợ:
- Bao giờ nhà lại đi?
Sẳn mối ngờ vực trong lòng, Tịnh gắt nhẹ:
- Vừa mới về đến nhà, ngồi chưa nóng đít lại hỏi bao giờ đi!
Duyên mĩm cười không nói gì. Thấy Tịnh về, Duyên mừng lắm vì từ nay không phải sống một mình với ông Chu. Nhưng Duyên lại giật mình lo ngại. Nếu Tịnh giành lấy công việc đi chợ hằng ngày, thì Duyên không còn cơ hội nào để gặp Minh nữa!
Tịnh phủi tay đứng dậy và bảo:
- Cô ở nhà nấu cơm nhé! Tôi phải chạy đi một tí!
Dứt lời, Tịnh cầm nón bước nhanh ra cửa.
Ông Chu buông gói thuốc chạy nhanh theo vợ, gọi giật lại và hỏi:
- Nhà đi đâu đấy?
Tịnh đứng lại trong khung cửa, gắt nhẹ:
- Đi gặp người ta chứ còn đi đâu!
Ông Chu hiểu hai tiếng “người ta” tức là các đồng chí lãnh đạo Thành Bộ Hà Nội mà Tịnh có nhiệm vụ báo cáo tình hình ở biên giới. Nhưng ông Chu lại kéo hẳn vợ vào sau quầy thuốc và gắt lại:
- Chỉ được cái nhanh nhảu đoảng! Cơ quan đang bị theo dõi, không đến đấy được nữa. Anh Lê Tiến bị bắt rồi! Thành Bộ tạm thời mỗi người trốn một nơi, đến đấy là chui đầu vào rọ ư!
Tịnh lặng người đứng yên, ông Chu giục:
- Thôi. Vào nhà tắm đi, rồi ăm cơm!
Tịnh vẫn đứng yên, tay buông rơi cái nón xuống chân. Khá lâu chị mới run run hỏi lại:
- Anh Lê Tiến bị bắt rồi ư? Bị bắt ở đâu?
Cùng với câu hỏi não nuột ấy, chị nhớ lại những lần Lê Tiến cùng các đồng chí ở Tổng Bộ kéo lại đây ăn cơm và sôi nổi bàn chuyện hoạt động. Nhớ nhất là cái dạo Tiến công tác ở biên giới, sang Quảng Châu gặp Tịnh đang bị sốt rét nặng. Tiến nấu cháo cho Tịnh ăn mấy hôm liền trước khi Tiến trở về Hà Nội. Tiến thua Tịnh vài tuổi, có nụ cười và ánh mắt hiền hòa nhất trong đám những người cách mạng mà Tịnh từng giao tiếp. Cho nên cái tin Tiến bị bắt không khỏi làm Tịnh bàng hoàng trong khoảnh khắc. Bàng hoàng vì thương Tiến đã đành, mà còn vì sợ Tiến khai ra địa chỉ nhà thuốc Vĩnh An Đường, làm liên lụy luôn đến vợ chồng Tịnh. Tịnh nhắc lại:
- Có biết bị bắt ở đâu không?
- Nghe nói ở ngõ Lò Rèn!
Tịnh lại sửng sốt kêu lên lần nữa:
- Chết! Ngõ Lò Rèn ư? Thế thì ông Mão, ông Kiệt chắc cũng bị bắt cả rồi!
Chu yên lặng gật đầu. Nhà ông chính là trạm giao liên từng nhận Kiệt và Mão từ thôn quê thoát ly xuống đây – giống như Duyên hiện nay – tá túc ở nhà Tịnh cả tuần lễ trước khi bố trí về cơ quan in truyền đơn ở Ngõ Lò Rèn. Những cơ quan, những địa điểm hoạt động của đảng viên, thường thì chỉ có các đồng chí ở Thành Bộ được quyền biết. Riêng Tịnh vì là nhân vật giao liên nồng cốt, thường đưa người theo sự bố trí của Thành Bộ, nên Tịnh cũng nắm được một vài địa chỉ trong nội thành.
Tịnh thở dài cầm nón quay vào bếp. Duyên đã nhặt xong rổ rau, đang múc nước ra chậu để rửa. Thấy Tịnh, Duyên ngẩng đầu lên bảo:
- So với anh Chu, chị trẻ quá! Em thật không ngờ! Em cứ tưởng chị phải … lớn hơn nhiều! Hóa ra nom chị chỉ mới …. ngoài hai mươi!
Nghe lời khen mà Tịnh đoán là thật lòng, Tịnh bổng thấy có thiện cảm ngay với Duyên. Chị vui vẻ kéo khúc củi trong bếp ra, ngồi xuống nói chuyện với Duyên. Tịnh hãnh diện kể:
- Trẻ gì nữa cô ơi! Hơn ba mươi rồi! Ông bà mình có câu “gái ba mươi tuổi đã toan về già” cơ mà! Với lại, dầm mưa giãi nắng như tôi, trẻ thế nào được mà trẻ! Cô tính xem, ngủ bờ ngủ bụi, lắm khi phải trốn chui trốn nhủi, có đêm thức trắng không chợp mắt, giữ được mạng sống, không để lọt vào tay giặc là may rồi, chứ còn nói gì đến nhan sắc
Duyên gật đầu cảm phục:
- Chị giỏi thật! Giỏi mà gan dạ! Em phục chị lắm!
- Cảm ơn cô! Tôi bị sốt rét ngã nước mất hai năm, da cứ vàng bủng đi, nom sợ lắm. May mà có thuốc của anh Chu nên bây giờ mới dứt hẳn!
- Vâng. Nom chị hồng hào như thế này, ai mà biết được đã có thời chị bị sốt rét!
Tịnh rất hài lòng về lời khen kín đáo của Duyên. Chị đổi đề tài:
- Cô ở đây cả mấy tuần lễ, chắc cũng sốt ruột lắm, phải không? Trường hợp của cô là lâu nhất đấy. Những ngừờ khác chỉ ghé đây một hai hôm, nhịều lắm là một tuần lễ!
- Vâng! Anh Chu cũng bảo thế!
Duyên vừa dứt câu thì trên nhà có khách vào. Nghe tiếng nói chuyện giọng đàn ông quen quen. Tịnh đứng dậy khom người nhìn lên và nhận ra người khách ấy chính là một đồng chí đến gặp Chu để đưa tin tức. Duyên cũng đứng dậy tò mò trông lên và trố mắt theo dõi dù khoảng cách khá xa, không nghe rõ câu chuyện. Duyên chỉ nhận ra đó là anh chàng kéo xe cách đây ba tuần lễ đã đón cô từ nhà ga về đây. Tịnh bảo Duyên:
- Cô cứ làm việc đi, để tôi chạy lên xem!
Tịnh vào hẳn trong quầy, đứng sát bên chồng. Anh thanh niên kéo xe bỏ nón vải, tay cầm lọ thuốc y như một khách hàng đang nài trả giá. Anh nhìn ra cửa và khi biết chắc không có ai chung quanh, anh hạ giọng nói nhỏ:
- Anh chị bảo chị Ly sửa soạn đi Hải Phòng. Sáng mai tôi đem xe lại đón, kịp chuyến tàu hỏa sớm.
Ông Chu hỏi lại:
- Nhà tôi cần phải đưa chị ấy đi không? Nhà tôi vừa mới về …
Anh kéo xe lắc đầu:
- Không cần. Chị cứ ở nhà. Chị Ly đi một mình được rồi. Đảng bộ Hải Phòng sẽ bố trí người đón chị ấy ở sân ga.
Dứt lời, anh cầm nón úp lên đầu và quay ra. Chờ anh kéo xe đi khỏi. Tịnh quay xuống nhà, vui vẻ bảo Duyên:
- Cô có công tác rồi. Mừng cho cô, sáng mai đi Hải Phòng.
Duyên giật mình, nghĩ ngay đến Minh, sửng sốt kêu lên:
- Sáng mai hở chị?
- Ừ! Sáng mai sẽ có người đến tận đây đưa cô ra ga xe hỏa. Đến Hải Phòng sẽ có người đón ở dưới ấy!
Duyên vừa nhóm bếp, lặng người ngồi yên nhìn ngọn lửa bập bùng trước mắt. Cô nhớ lại những ngày mới đến đây, cô chỉ nóng lòng muốn đi công tác, bất cứ công tác gì, bởi thời gian chờ đợi làm Duyên mệt mỏi chịu không được. Nhưng rồi Duyên lại gặp Minh. Tự dưng cô thấy lưu luyến Hà Nội, chẳng muốn đi đâu nữa. Thôi thì cứ ở đây đóng vai người làm mướn không công cho ông Chu, miễn là mỗi chủ nhật đến ngồi với Minh là hạnh phúc lắm rồi. Hóa ra trời không chiều lòng người. Mới nối lại chút tình xưa đã vội chia ly. Duyên nao nao buồn muốn trào nước mắt. Ngẫm nghĩ một chút, Duyên mạnh dạn bảo Tịnh:
- Mai đi rồi ạ! Chị có vội gì không? Không thì chị nom hộ em nồi cơm. Em chạy ra chợ một tí!
Tịnh đang lấy quần áo, định đi tắm. Chị ngừng tay hỏi lại:
- Mua bán gì mà ra chợ? Đi công tác, đừng có khuân vác nhiều cho nặng!
- Không! Em chỉ mua vài thứ lặt vặt thôi.
Tịnh vắt cái quần đen và cái áo cánh nâu lên giây phơi, tiến lại sau lưng Duyên, ngồi xuống và bảo:
- Ừ! Cô để đấy cho tôi. Cô đi đi! Nhớ là đi đường xa, càng nhẹ nhàng càng tiện. Không phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái đâu! Tôi đã có lần lên xe hỏa, ngồi được một lúc rồi, lại phải giả vờ đi giải rồi bỏ trốn vì thấy có hai thằng khả nghi ngồi cùng toa với tôi. Tôi đoán là mật thám, nên phải tìm cách thoát thân. Hành lý tôi quăng hết cả lại
Duyên hững hờ đáp:
- Thế à chị! Em chả mang gì nhiều đâu! Có mấy bộ quần áo thôi!
Rồi Duyên đứng dậy, lấy nón đi thẳng ra cửa, không nói với ông Chu lời nào. Cô bước thật nhanh tới nhà Minh, mặc dù trong lòng không hy vọng gì gặp được Minh. Cô hồi hộp cắm đầu đi như chạy, không thèm nhìn phố xa hai bên.
Đến trước nhà Minh, Duyên ngước lên và mừng thầm vì thấy cửa sổ vẫn mở. Cô trông sang bên kia đường. Ông Sửu ngồi một mình đang cặm cụi khâu mũ. Cô mạnh dạn tiến lại, đẩy cánh cổng gỗ và leo cầu thang lên gác. Cô gõ mấy tiếng nhè nhẹ rồi nghe giọng của Minh hỏi vọng ra:
- Ai đấy?
Duyên hồi hộp ghé sát miệng vào cánh cửa và đáp:
- Em đây, anh Minh! Mở cửa cho em với!
Minh đang cởi trần ngồi viết bài, vội mặc áo, tiến lại tháo then cửa. Khi cánh cửa mở hẳn ra, anh sửng sốt thấy Duyên, vội kéo cô vào hẳn bên trong và đóng cửa lại. Anh ngơ ngác chưa nói được lời gì thì Duyên đã vội vàng bỏ nón và run run bảo:
- Em lại chào anh. Mai em đi rồi!
Vừa nói, Duyên vừa uể oải ngồi xuống mép giường. Minh kéo cái ghế lại gần hơn, ngồi đối diện Duyên và hỏi:
- Mai đi rồi ư? Đi đâu?
Duyên thở mạnh, giọng bùi ngùi:
- Chả cần biết là đi đâu! Chỉ cần biết là em đi rồi thì không biết có còn gặp anh được nữa hay không! Thành thử em mới đánh liều chạy lại đây!
Nói được có bấy nhiêu, Duyên thấy nghẹn ngào trong cổ, đôi mắt chớp nhanh như sắp khóc. Minh kéo cái ghế lại gần hơn chút nữa rồi xúc động nắm lấy bàn tay Duyên đang đặt trên đùi. Minh tưởng vậy là đã đi quá xa rồi, không ngờ Duyên rút bàn tay ra và bất ngờ ôm choàng lấy Minh, ghì thật chặt và ngả đầu trên vai Minh. Minh đứng dậy, kéo Duyên đứng lên theo. Anh nhè nhẹ lôi Duyên nằm xuống chiếc giường nhỏ trải manh chiếu cói đã sờn nát từng mảng khá lớn. Duyên mềm người buông xuôi. Hai người nằm nghiêng, quay mặt vào nhau. Duyên vừa cảm động vừa xấu hổ, hai mắt cứ nhắm nghiền lại. Minh thấy rõ toàn thân Duyên đang run rẩy trong tay anh. Lâu lắm, Duyên mới thủ thỉ:
- Sáng mai em đi sớm! Em cứ tiếc là mới gặp anh thì phải xa anh!
Minh mủi lòng nói:
- Thôi. Không nhắc đến việc ấy nữa!
- Vâng. Không nhắc đến nữa. Cả tuần nay em cảm động lắm. Đêm nằm, em nhớ anh không tài nào ngủ được! Anh đã cho em được những ngày hạnh phúc! Dù mai này ở đâu, làm gì, suốt đời em sẽ không quên được ngày hôm nay!
Bàn tay Minh xoa nhè nhẹ trên lưng Duyên qua lớp vải thô. Anh hỏi một câu thừa thãi:
- Hoãn lại, đừng đi vội, được không?
- Làm thế nào hoãn lại được. Lấy cớ gì mà hoãn?
Minh thọc hẳn tay vào hai lớp vải áo của Duyên. Anh thấy Duyên rùng mình nổi da gà khi tay anh đưa từ thắt lưng cô lên gần tới cổ. Rồi Minh nằm lùi xuống, úp mặt vào ngực Duyên. Duyên vẫn không có phản ứng gì và Minh cũng không tiến xa hơn nữa. Hai người cứ ôm ghì nhau một lúc, rồi Duyên buông ra và buồn bả ngồi dậy:
- Thôi, em phải về. Đi lâu quá không được!
Minh ngơ ngác hỏi:
- Ô hay! Mới lại đây có một tí mà đã đòi về!
Duyên lau nước mắt, nghiêm mặt nói:
- Em có muốn về đâu! Em muốn ở bên anh suốt đời, nhưng không được. Thôi thì đành vậy!
Minh cũng ngồi lên, thòng hai chân xuống sàn. Duyên cắn mạnh vào vai Minh và cầm nón lên:
- Thôi, em đi anh nhé!
Minh vẫn ngồi trên giường, giằng cái nón trong tay Duyên, quăng sang bên cạnh. Rồi hai tay anh nắm hai bàn tay Duyên, kéo cô xuống. Giọng anh tha thiết:
- Ở lại với anh một tí nữa! Biết bao giờ mới gặp lại!
Duyên xuôi theo, nằm úp trên người của Minh. Duyên bảo:
- Em đi vài hôm, chắc anh quên em ngay chứ gì! Đàn ông các anh có biết thương nhớ là gì đâu!
Nói dứt câu, Duyên trườn xuống, nằm nghiêng quay mặt về phía Minh. Minh quàng tay ôm lấy lưng Duyên, bàn tay từ từ đưa xuống đặt trên mông Duyên. Trước giờ chia ly, anh thấy cần phải nói với Duyên những lời nồng nàn vì biết chắc chuyện hai người sẽ không đi đến đâu. Anh bảo:
- Nếu em sợ anh là kẻ xa mặt cách lòng thì tốt nhất là em đừng đi. Cứ ở lại đây với anh
Duyên cảm động trào nước mắt:
- Được thế thì còn gì bằng! Em chỉ xin hứa với anh một điều rằng: Từ hôm nay, em xem như em đã có chồng. Nếu trời không cho em làm vợ anh, thì chả bao giờ em lấy ai nữa!
Minh biết đó là những lời chân tình xuất phát từ tâm khảm của Duyên làm anh, tuy không yêu Duyên lắm, mà vẫn thấy cảm động. Anh bảo:
- Anh hiểu lòng em rồi! Thôi thì đành phó thác cho định mệnh vậy!
Rồi hai người cùng im lặng. Một lúc sau, Duyên cương quyết vùng dậy giã từ. Minh lại níu kéo:
- Đàng nào sáng mai cũng đi rồi, ở luôn đây với anh đến tối. Về làm gì cơ chứ?
Duyên trố mắt nhìn:
- Ơ hay! Rồi ăn nói làm thế nào với người ta! Em bảo với chị Chu là em chạy ra chợ một tí rồi về ngay! Từ nãy đến giờ cũng lâu lắm rồi!
Minh chả bịết nói làm sao, đành bùi ngùi đưa Duyên xuống tận chân thang và ân cần dặn:
- Dù đi đâu, làm gì, cũng phải hết sức cẩn thận. Em cố gắng giữ gìn, mai kia thế nào mình cũng có ngày gặp lại nhau!
Duyên gật đầu, đội nón lên và đẩy cửa bước ra ngoài.
Những ngày cuối năm 1929, Tỉnh Đảng Bộ Quốc Dân Đảng Bắc Giang phải đối phó với một cơn khủng hoảng nặng nề. Khởi đầu là do xưởng chế bom tại nhà đồng chí Lương Văn Trạm ở làng Mỹ Điền bị phát nổ, chẳng những gây thiệt hại cho nhân mạng cho ba đảng viên đang cặm cụi tai chỗ, mà ngay sau đó, hàng loạt người quen vẫn thường lui tới nhà đồng chí Trạm đều bị theo dõi và sa lưới mật thám. Bắc Giang, cách Hà Nội hơn 50 cây số, là quê hương của Nguyễn Khắc Nhu, của chị em cô Bắc cô Giang, cho nên khí thế cách mạng lúc nào cũng chan hòa trong quần chúng. Đó là một trong những cái nôi chủ yếu đang vội vã chuẩn bị sản xuất vũ khí và in ấn truyền đơn cho ngày tổng khởi nghĩa gần kề.
Khi màng lưới mật thám cùng với hương lý địa phương rầm rộ bủa vây Bắc Giang thì Xừ Nhu đang ở Sơn Tây cùng với Nguyễn Thái Học. Cô Giang đang làm công tác binh vận trên Yên Bái. Còn Phó Đức Chính thì đang có mặt ở nhà Nguyễn Tiến, tức Lý Cả, bên làng Võng La, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, chờ gặp Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu để thảo kế hoạch cụ thể cho ngày trọng đại sắp tới. Phú Thọ cách Sơn Tây chỉ có con sông Đà. Làng Võng La nằm sát bờ sông, đại đa số dân chúng và ngay cả các hương chức trong làng đều là cơ sở nuôi dưỡng lực lượng chống Pháp, triệt để ủng hộ Quốc Dân Đảng. Vì vậy, Nguyễn Thái Học mới hẹn với Phó Đức Chính và Nguyễn Khắc Nhu họp mặt tại vùng an toàn này.
Hôm ấy, từ Sơn Tây, Xừ Nhu và Nguyễn Thái Học đón chuyến đò ngang qua sông. Họ đi chung một con thuyền, nhưng làm như không biết nhau để tránh chuyện bất trắc. Nguyễn Thái Học mặc quần áo nâu, đầu đội nón lá, đi chân đất, gánh hai thúng củ nâu xuống thuyền. Từ sau vụ Bazin, bị hồi đồng đề hình tuyên án khiếm diện, Nguyễn Thái Học bôn ba nay đây mai đó, liên tục cải trang, đóng đủ các vai trò từ trí thức đến lao động để qua mắt các trạm kiểm soát. Ở Bắc Ninh, có lần sau buổi họp bị lính khố xanh bao vây, ông điềm nhiên thay áo dài khăn đống, cắp cặp che ô, tự xưng là nho sinh Huyện cử xuống làm biên bản. Đám lính hòan toàn không ngờ vực. Ông lợi dụng lúc chúng không để ý, tìm đường tắt trốn ra khỏi làng. Hôm khác, ở Hải Dương, ông ngủ tại nhà một nông dân, bị mật báo, đích thân quan Huyện Kim Thành dẫn lính cơ xuống bắt. Ông thay quần áo nhà quê, đầu đội nón lá, vác cuốc ra làm việc chung với nông dân. Lính tráng hò hét sục sạo quanh nhà. Ông ung dung đi ngay trước mặt mà chúng không biết. Lần khác, ở Hải Phòng, chính ông làm người kéo xe cho đồng chí Nguyễn Văn Chấn vào thành phố. Bao nhiêu lần ông thoát hiểm trong đường tơ kẻ tóc nhờ sự bình tỉnh, gan dạ và ứng xử vô cùng nhạy bén. Có khi ông giả làm nhà sư đi khất thực. Có lúc ông làm thợ đóng cối len lỏi từ làng này sang làng khác. Bản tính tự tin lắm khi đến độ liều lĩnh, giúp ông hoạt động đắc lực cho đảng, nhưng cũng làm nhiều đồng chí khác lên ruột. Lê Hửu Cảnh thường lên tiếng trách ông:
- Vận mệnh của đãng, tính mệnh của hàng nghìn đồng chí nằm trong tay anh. Mong anh đừng khinh xuất!
Nói chung, ai cũng lo cho ông và cho đảng. Nhưng ông lại có lý luận khác. Ông thường nhắc đi nhắc lại:
- Lãnh đạo không thể cứ ngồi yên một chỗ mà chỉ tay năm ngón! Chúng ta làm cách mạng chứ chúng ta không nắm chính quyền. Nắm chính quyền thì có thể ra lệnh. Làm cách mạng thì phải đồng lao cộng khổ với quần chúng!
Ý nghĩ ấy luôn luôn dẫn giắt hành động của ông, khiến ông miệt mài lên đường, lao vào những chỗ hiểm nguy mà không đắn đo. Phải nói thêm rằng, Nguyễn Thái Học nhiều phen thoát nạn cũng vì được quần chúng hết lòng đùm bọc. Thậm chí trong trường hợp nguy kịch bủa vây tứ phía, có những người yêu nước thầm lặng còn sẳn sàng đóng vai Nguyễn Thái Học giả, hy sinh thay thế cho đảng trưởng.
Hôm nay, trên chuyến đò ngang, Nguyễn Thái Học giả làm người đi bán củ nâu vì nghề này đang rất thịnh lúc bấy giờ ở bất kỳ thôm xóm nào.
Nguyễn Khắc Nhu thì mặc áo the thâm, cắp tráp đen, giả làm thầy lang, vừa đi bắt mạch bốc thuốc, vừa xem bói cho thiên hạ. Qua sông, đặt chân lên bờ Võng La là yên lòng rồi vì làng này nằm trong vòng tay che chở của quần chúng.
Bước vào nhà Nguyễn Tiến, Xứ Nhu xăm xăm đi thẳng lên hè. Phó Đức Chính đang đứng chờ sẳn, đưa mắt nhìn ra đường, ở đó có những thanh niên chia nhau canh gác, vừa là thông tin vừa là bảo vệ cho cách yếu nhân của đảng. Xứ Nhu theo Phó Đức Chính vào nhà. Chủ nhân Nguyễn Tiến đang ngồi hút thuốc lào trên sập gụ, vội đứng dậy bước xuống đón:
- Quan bác đi đường có vất vả lắm không? Chúng em chờ sốt cả ruột!
Xứ Nhu đặt cái tráp trên bàn và cười thoải mái:
- Cảm ơn ông Cả hỏi thăm. Nhờ giời, êm xuôi cả! Anh Học cùng đi một chuyến đò với tôi. Nhưng lúc lên bờ tôi bảo anh ấy chậm lại một tí, để tôi dò đường trước. Chắc cũng sắp đến nơi!
Phó Đức Chính rót nước chè vào bát và góp tiếng:
- Cẩn thận như thế là phải! Tuần trước ở Hải Phòng, ông Tùng với ông Ngọc cùng đi công tác trên một chuyến xe hỏa. Ngồi chung một toa, nhưng người đầu này người đầu kia. Không ngờ mật thám theo dõi và nhận diện được ông Tùng. Chúng bắt trói ngay trên xe. Lúc chúng dẫn đồng chí Tùng đi ngang qua trước mặt ông Ngọc, đồng chí Tùng lờ đi làm như không quen biết. Nhờ thế mà ông Ngọc mới thoát!
Nghe nhắc đến việc đồng chí của mình bị bắt. Xứ Nhu buồn vời vợi. Cả ngày chỉ toàn là hung tin đến dồn dập. Ông toan lên tiếng thì Phó Đức Chính nhìn ông nói đùa:
- Bác Xứ đóng vai thầy bói mà chưa bói cho tôi một quẻ nào. Hay là nhân tiện đây, bác thử gieo thử một quẻ xem vận hạn tôi lành dữ thế nào!
Xứ Nhu cũng vui vẻ cười theo:
- Tôi gieo quẻ thì quẻ nào cũng thấy mình giết được giặc Tây! Ấy vậy mà thực tế thì mình chưa làm gì được nó, nó lại cứ giết hại người của mình! Thành ra tóm lại chả nên xem bói nữa!
Xứ Nhu lên ngồi xếp bằng trên sập gụ, đỡ tách nước chè từ tay Phó Đức Chính và hỏi:
- Chú sang đây lâu chưa?
Phó Đức Chính kéo cái điếu bát lại trước mặt, vừa vê thuốc lào vừa đáp:
- Thưa. Em ở đây đã hai hôm. Anh Lý Cả với em cứ lóng ngóng mãi, chỉ sợ anh với anh Học gặp chuyện bất trắc dọc đường!
Lý Cả tức Nguyễn Tiến chen vào:
- Vâng. Quả có thế. Ngày nào chúng em cũng bắt tụi nó ra đón ở bến Chài. Hôm qua, anh Chính giả vờ ngồi câu cá cả ngày ở ngoài ấy để chờ Quan Bác và anh Học.
Phó Đức Chính cười phụ họa:
- Ngồi câu cá cả ngày mà chả được con cá nào!
Xứ Nhu cảm động nhìn người đồng chí đáng tuổi em út mình:
- Đi câu kiểu Lã Vọng thì làm gì có cá!
Phó Đức Chính cười nhũn nhặn:
- Anh cứ nói thế chứ em làm sao sánh được với ông Khương Tử Nha ngày xưa! Vả lại, Lã Vọng xưa ngày rộng tháng dài, ngồi câu trên sông Vị đến 70 tuổi mới được vua đến đón về giao quyền cao chức trọng. Anh em mình làm gì có thì giờ như thế! Tình hình dầu sôi lửa bỏng, biến đổi từng ngày. Hôm nay còn gặp nhau, biết sao ngày mai thế nào!
Lý Cả cắt ngang:
- Ấy chết! Chớ có nói gở! Nó vận vào người!
Phó Đức Chính lắc đầu:
- Tôi chả tin! Gở với may cái gì, làm cách mạng thì chuyện bắt bớ là thường. Đã biết trước như thế cơ mà!
Phó Đức Chính gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng ngay từ buổi đầu mới thành hình năm 1928. Lúc đó ông đã tốt nghiệp trừơng cao đẳng công chánh, là công chức của chính phủ Đông Dương Việt Miên Lào, làm việc tại Savanakhet. Sau vụ Bazin, hàng loạt nhân sự chủ chốt của đảng bị bắt và đưa ra hội đồng đề hình. Phó Đức Chính cũng nằm trong đó, nhưng vì là công chức, lại không có bằng chứng cụ thể dính dáng đến vụ ám sát Bazin, nên ông chỉ bị hai năm tù treo và bãi chức. Từ đó, ông thừơng đi sát bên cạnh Nguyễn Thái Học cùng với Lê Hửu Cảnh. Tính tình ông hợp với Nguyễn Thái Học và Xứ Nhu hơn là Lê Hửu Cảnh, bởi ông nóng nảy, chủ trương bạo động chớp nhoáng trong khi Cảnh tuy cũng gan dạ nhưng thường suy tính đường dài.
Giờ này thì Lê Hửu Cảnh không còn gần gũi bên cạnh đảng trưởng nữa. Phó Đức Chính trở thành cánh tay mặt, trực tiếp thảo kế hoạch tấn công trong ngày tổng khởi nghĩa sắp tới. Ký Con Đặng Trần Nghiệp cũng thường đi với đảng trưởng, nhưng từ mấy tháng nay anh phải gấp rút lo công việc chế bom ở Hà Nội.
Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính đang nói chuyện về tình hình mấy kho thuốc nổ bên Bắc Giang thì có người đàn ông gánh hai thúng củ nâu từ ngòai cổng xồng xộc tiến vào. Chủ nhà không nhận ra Nguyễn Thái Học, nhưng Xứ Nhu vui vẻ bảo Phó Đức Chính:
- Thôi! Anh Học đến kia kìa. Chờ anh ấy vào ta bàn luôn thể!
Nguyễn Tiến và Phó Đức Chính cùng ra hẳn ngoài hiên đứng đón, Nguyễn Thái Học đặt quang gánh trên thềm, tháo cái nón lá quạt mồ hôi phành phạch. Ông vốn là người tầm thước, đầy đặn. Thế mà mấy tháng nay lưu lạc trốn tránh, ăn ngủ bất thường làm mặt ông hốc hác thấy rõ. Hàm răng bẩm sinh đã bị hô, giờ đây càng đưa ra nhiều hơn vì má hóp sâu xuống. Chủ nhà mời ly trà nóng, nhưng đảng trưởng xua tay bảo:
- Uống cái này thì chả bõ khát! Để tôi ra hè làm gáo nước mưa!
Dứt lời, ông xăm xăm bước lại đầu nhà, lấy gáo dừa múc nước trong vại, ngửa cổ tu ừng ực. Ở thôn quê thì nhà nào cũng có những cái chum chứa nước mưa, nhất là những nhà lợp ngói, đặt máng xối cho chảy xuống để lấy nước nấu quanh năm. (Cha Ngạn này, nhà ngói, nhà lá gì mà không hứng nước mưa. Có khi nước mưa nhà lá còn ngon hơn nhà ngói nữa. Vì sao, nhà lá có mùi vị quê hương hơn!!). Đã khát rồi, Nguyễn Thái Học quay lên nhà, bắt đầu cuộc họp kín với Xứ Nhu và Phó Đức Chính. Lý Cả chờ Nguyễn Thái Học hút xong điếu thuốc rồi ân cần bảo:
- Quan bác đi tắm một cái cho mát nhé! Để em bảo nó lấy bộ quần áo của em, quan bác mặc tạm! Mồ hôi mồ kê nhễ nhại thế kia thì khó chịu lắm!
Nguyễn Tiến vẫn có cái lối nói chuyện thân tình như vậy với người trong đảng, mặc dầu lúc ngồi ghế lý trưởng, ông cũng ra oai trước mặt quần chúng y như bao nhiêu viên chức khác. Với những người lớn tuổi hơn như Xứ Nhu, hoặc ngay cả những người ít tuổi hơn nhưng được trọng vọng như Nguyễn Thái Học, ông đều gọi là quan bác, hai tiếng mà ông học được từ khi bắt đầu đi coi hát ả đào.
Nguyễn Thái Học cười xòa:
- Anh Cả cứ vẽ làm gì! Mặc thế này, ngộ nhỡ có phải chạy cũng tiện!
Thực sự thì nhiều hôm Nguyễn Thái Học mặc đến hai ba lớp áo màu khác nhau. Nếu nghi ngờ bị mật thám theo dõi, ông sẽ chạy vào một chỗ vắng, cởi lớp áo ngoài, để chúng khỏi nhận diện. Có khi ông gắn râu, đội nón, đeo kính râm hoặc kính cận. Nói chúng là thiên biến vạn hóa, mới có thể bôn ba hoạt động cách mạng khắp Bắc Kỳ. Ông chủ trương gần gũi đảng viên, cho nên hầu như chi bộ nào ông cũng có ghé thăm, ăn chung, ngủ chung với anh em để động viên tinh thần.
Ngồi trên sập gụ, Nguyễn Thái Học xoay người ngó ra cửa sổ, quan sát mảnh vườn rau. Những gốc mít cổ thụ, những cây bưởi um tùm, tỏa bóng mát quanh năm cho căn nhà xây lợp ngói. Cơ ngơi khá đồ sộ này là do công lao gây dựng của Nguyễn Tiến một phần và một phần nhờ thừa hưởng bổng lộc của cụ thân sinh vốn là một bá hộ giàu có nhất nhì làng Võng La.
Nguyễn Thái Học quay sang bảo Xứ Nhu và Phó Đức Chính:
- Mình bắt đầu đi thôi!
Nguyễn Tiến hiểu ý, gật đầu bảo mọi người:
- Thôi thế các bác cứ ở yên trong này. Để em ra cổng xem chúng nó canh gát như thế nào. Có động tĩnh gì thì các bác cứ phóng ra ngõ sau, có đến mấy lối nhỏ dẫn ra cánh đồng làng. Những anh em đang cuốc đất làm cỏ phía sau nhà, đều là người của mình cả!
Dứt lời, Tiến bước nhanh ra sân.
Trên sập gụ, ba người ngồi xếp bằng chụm đầu vào nhau, mặt ai cũng đăm chiêu nghiêm trọng. Phó Đức Chính cầm cái xe điếu, vạch những đường tưởng tượng trên mặt pan như người vẽ bản đồ chỉ đường. Ông trình bày kế hoạch tổng khởi nghĩa mà ông đã suy tính kỹ lưỡng từ mấy hôm nay, chỉ chờ gặp Nguyễn Thái Học và Xứ Nhu để xin ý kiến. Chính đang hăng say thuyết giảng thì Lý Cả từ ngoài sân chạy vào hân hoan báo tin:
- Đồng chí tham mưu trưởng binh vụ đến!
Trái với nét vui mừng của chủ nhà, Nguyễn Thái Học và Xứ Nhu cùng giật mình đưa mắt nhìn nhau. Rồi ngay sau đó, lập tức cả ba đều ngó ra sân.
Tham mưu trưởng binh vụ mà Lý Cả vừa nhắc đến là đồng chí Phạm Thành Dương, hạ sĩ quan không quân của Pháp mà người ta thường gọi là Đội Dương, hiện là trưởng ban Binh Vụ của Quốc Dân Đảng, thay thế đồng chí Trần Văn Môn đã bị mật thám bắt. Dương gia nhập Quốc Dân Đảng từ năm 1928, do Vũ Đình Phú, một đảng viên ở Hải Dương giới thiệu. Lúc ấy Dương đang theo học lớp hạ sĩ quan tại đồn Thông, Sơn Tây. Vì chủ trương cách mạng bạo động, nên Nguyễn Thái Học thấy sự đóng góp của nhà binh là tối quan trọng. Bởi vậy, ông đích thân đến gặp Phạm Thành Dương để vận động và mời tham gia Quốc Dân Đảng. Dương cảm động nhận lời đảng trưởng. Tổng Bộ giao trọng trách lớn cho Dương bởi cấp bậc “Đội tàu bay” của Dương được chỉ huy một số binh sĩ thuộc hạ. Quả nhiên Phạm Thành Dương không làm Tổng Bộ thất vọng. Ông tuyên truyền và kết nạp được một số khá đông binh lính khi ông về phục vụ tại phi trường Bạch Mai, Hà Nội. Ngoài nhiệt tình cách mạng, Dương còn được anh em nễ nang vì trình độ học vấn khá cao. Dương từng học trường Bưởi, trường y khoa trước khi đăng tên đi lính không quân. Tất nhiên theo qui chế thời ấy thì người Việt chỉ được theo học lớp hạ sĩ quan mà thôi. Vì thế, cấp bậc của Dương được kể là cao lắm rồi!
Nhưng có một điều mà Nguyễn Thái Học và Tổng Bộ không ngờ là lòng dạ của Dương đã thay đổi từ cuối năm 1929. Cả Vũ Đình Phú, cái người giới thiệu Dương cho Nguyễn Thái Học cũng đã phản bội đảng, làm tay sai cho Pháp!
Khởi đầu, động cơ thúc đẩy Dương từ bỏ Quốc Dân đảng xuất phát từ áp lực của thân phụ Dương, tức thầy giáo Phạm Huy Du dạy trường tiểu học Hàm Long. Khi biết tin con là đảng viên Quốc Dân Đảng, Du rùng mình sợ hãi, sợ cho con và sợ cho mình. Vội chạy đi báo ngay cho xếp của mình là Léonet, giám đốc nha tiểu học Pháp Việt, để nhờ ông này đưa tin cho mật thám biết. Mặt khác, giáo Du gọi Dương về, nghiêm khắc mắng:
- Mày mở mắt ra mà xem, từ đầu năm cho đến bây giờ, bao nhiêu đứa theo hội kín Quốc Dân đảng đều vào tù tuốt! Mày có chịu nổi đòn sang-ta hay không? Rồi còn liên lụy đến cả tao, đến cả anh em vợ con mày nữa! Tao là công chức nhà nước bảo hộ, mày mặc áo nhà binh, chả gì cũng đến chức đội! Ăn cây nào rào cây nấy! Sao lại giở trò làm giặc là thế nào? Liệu hồn thì bỏ ngay, tao giắt ra đầu thú để tránh hậu họa cho cả nhà!
Dương lúc đầu còn phân vân vì có lời thề với đảng. Nhưng giáo Du cứ thúc giục mãi làm Dương cũng nhụt chí. Giữa lúc đang giằng co thì một hôm, do lời đề nghị của chánh sở mật thám Amoux, phủ toàn quyền gửi giấy mời cha con Phạm Thành Dương lên trình diện. Dương hãi lắm, nhưng không ngờ đích thân toàn quyền Pasquier long trọng trao tấm huy chương cao quý của chánh quyền bảo hộ cho Phạm Huy Du, kèm với một hàm tước khá lớn, vốn chỉ dành cho những công bộc hết lòng phục vụ nhà nước bảo hộ Đại Pháp. Pasquier lại gia ân cho Phạm Thành Dương 1000 ngoại phí mỗi tháng. Bổng lộc trọng hậu ấy làm cho Phạm Thành Dương không thể quay lại với Quốc Dân đảng được nữa. Hai cha con hoan hỉ đón nhận, gập mình bái tạ và hứa sẽ xứng đáng đền đáp lại công ơn mưa móc của Phủ Toàn Quyền. Pasquier bảo Dương:
- Bỏ đảng giặc là đáng khen. Nhưng hợp tác với chính quyền bảo hộ để bắt cho bằng được Nguyễn Thái Học thì công lao của hai cha con mới thật sự là to lớn!
Từ đó, hai cha con Phạm Thành Dương nhận lời làm tai mắt chỉ điểm cho sở liêm phóng, giống như Vũ Đình Phú, người đã tiến cử Dương với Nguyễn Thái Học, cũng đã làm tay sai cho mật thám Pháp từ cả năm nay. Thế là Dương đã đổi lời thề trung thành với đảng thành lời thề trung thành với giặc!
Ngày 7 tháng 12 năm 1929, Vũ Đình Phú do được tin Nguyễn Thái Học sẽ về họp tại Võng La liền chạy đi báo tin cho mật thám và đề nghị việc này chỉ có thể giao cho Phạm Thành Dương, vì lúc này Dương chưa lộ mặt phản bội. Sở mật thám khen là diệu kế, cơ hội bằng vàng để bắt Nguyễn Thái Học và Xứ Nhu. Bàn bạc xong, Phú phóng về tìm Dương và bảo:
- Đây là cơ hội ngàn năm một thuở để anh lập công với ngài Tòan Quyền. Tôi đã báo cáo cho sở mật thám biết. Sở sẽ cử thanh tra Riner dẫn quân đến Võng La bao vây làng Võng La. Anh có nhiệm vụ phải đến nhà trước, cầm chân Nguyễn Thái Học ở nhà Lý Cả. Chờ Riner đưa lính ập vào bắt! Giờ này, bọn Quốc Dân Đảng chưa đứa nào biết anh đã bỏ chúng nó. Chưa đứa nào nghi ngờ gì cả, anh gặp chúng nó rất dễ. Nhưng tôi dặn anh cái này: Võng La cả làng đều theo giặc, ba phía có người canh gác. Chỉ có phía bờ sông là bỏ ngõ. Anh là lính mật thám cứ theo ngõ ấy mà vào nhà Lý Cả. Thể nào phen này cũng xong việc lớn! Anh mà bắt được Nguyễn Thái Học thì bổng lộc cha con anh không biết thế nào mà kể!
Phạm Thành Dương mừng lắm, gọi thêm một gã mật thám người Việt cho mặc đồ nhà binh đi kèm để lên tinh thần. Dương đi trước, Riner dẫn lính theo sau, tất cả đều đổ ra bờ sông tiến vào làng Võng La, huyện Thanh Thủy.
Vào nhà Lý Cả, Dương cố giữ vẻ điềm tỉnh. Các toán canh gác đều không chặn hỏi vì ai cũng tưởng Dương vẫn còn là nhân vật chủ yếu của đảng.
Trong nhà, Phó Đức Chính hỏi Nguyễn Thái Học:
- Anh gọi ông Dương đến đây ư?
Đảng trưởng vừa trả lời vừa đưa mắt nhìn Xứ Nhu dò hỏi:
- Không! Gọi đồng chí ấy đến làm gì?
Xứ Nhu cũng lắc đầu:
- Từ lâu rồi, tôi cũng chả liên lạc với đồng chí ấy!
Phó Đức Chính ngơ ngác hỏi:
- Anh em mình hẹn nhau ở đây, không có ai biết, tại sao đội Dương lại biết mình ở đây nhỉ?
Xứ Nhu hạ giọng chen vào:
- Mà đội Dương lại đem theo cả người lạ nữa! Như thế thì phải đề phòng!
Xứ Nhu dứt câu thì đội Dương cũng vừa tới thềm, dựng xe đạp, bước vào cửa, gật đầu kính cẩn chào và giới thiệu người quân nhân lạ mặt:
- Thưa các anh. Đây là một đồng chí trong lực lượng cách mạng, tôi mới kết nạp. Từ nay anh sẽ là người bảo vệ, đi bên cạnh tôi.
Phải nói rằng, trong số những kẻ bỏ đảng làm tay sai cho giặc thì Phạm Thành Dương là đứa táo bạo nhất. Những kẻ khác thì chỉ dám giấu mặt chỉ điểm, cung cấp tin tức cho mật thám. Còn đội Dương thì ngang nhiên dẫn mật thám đến bắt đồng chí cũ của mình như trường hợp hôm nay. Sở dĩ Dương làm thế là vì món tiền ngoại bổng ngàn đồng hàng tháng và nhất là vì món tiền thưởng mà Amoux hứa sẽ ban cho Dương nếu mật thám bắt được các lãnh tụ Quốc Dân đảng. Dương vốn mê cờ bạc, nợ nần thường xuyên chồng chất. Dạo ấy, Dương đang học trường thuốc, túng tiền bỏ sang Vientien làm thư ký cho tòa Khâm Sứ bên Lào. Vì tung tay quá trớn, Dương lại trốn nợ, bỏ về Hà Nội và đang lính không quân, thường gọi là lính tàu bay ở Bạch Mai. Nhờ học lực khá, Dương được cất nhắc cho đi học lớp hạ sĩ quan ở Sơn Tây. Thời ấy, qui chế sĩ quan chỉ dành cho người Pháp. Quân nhân Việt Nam lên đến chức Đội, tương đương với trung sĩ sau này, là cao cấp nhất rồi!
Hôm nay Phạm Thành Dương đến gặp Nguyễn Thái Học ở Võng La – giống như môn đồ Juda hai ngàn năm trước, ước hẹn với người Do Thái gặp Chúa Giêsu sau bửa tiệc ly, để Juda ra ám hiệu cho người Do Thái bắt Chúa – Dương cố ăn nói tự nhiên, nhưng không giấu được nét lúng túng nhất là ánh mắt chứa đầy lo lắng. Gã thanh niên mặc quân phục cũng lấm lét nhìn quanh xem có người phục sẳn trong hai căn buồng bên không.
Xừ Nhu kéo Phó Đức Chính đứng dậy, sang ngồi cùng băng với Nguyễn Thái