- 2 - BƯỚC ĐI MỘT BƯỚC
ĐỨA CON GÁI ĐỨNG ĐÓ, TRƯỚC MẶT tôi. Thân hình nó chuột nhắc, gầy, mỏng và thẳng đứng như một cây tăm tre Việt nam. Bàn tay nó nắm chặt lấy quả đấm thành cửa, cánh tay duỗi thẳng thành, góc thước thợ với chiều người.
Cánh cửa bị bàn tay nhỏ xíu của đứa nhỏ giữ khựng, chỉ hé mở một phần khít khao vừa mình nó đứng, và đứa nhỏ đứng đó, nó chiếu thẳng lên tôi một cái nhìn thơ dại nhưng không khiếp hãi chút nào. Ánh đèn từ trong nhà hắt đẩy hình bóng nó ngã vượt qua người tôi, ra thật xa, nhòa lẫn vào lòng con ngõ trũng, trên đó đang dữ dội trút xuống, trong thấp thoáng bóng tối, màn nước trắng xóa của một trận mưa chiều ào ạt.
Đôi mắt, đôi mắt đứa nhỏ, tôi nhủ thầm: Thế kia kìa. Thật mẹ nào con nấy, trộn không lẫn được. Vực mắt sâu. Đuôi mắt sếch và sắc. Lông mày thưa, sống mũi ngăn chia làm hai miền rõ rệt. Tròng mắt ánh sáng một ương ngạnh tính trời, mê đắm thì nung nấu, phản kháng thì âm thầm. Đôi mắt dám khóc, nhưng dám sống, như cửa ngõ tâm hồn của một đời sống riêng biệt mà thuần phục chỉ là giai đoạn, còn thực ra là phá vỡ và thoát đi. Tôi đang nhớ lại. Đã nhận được ra. Hai cuộc đời nhưng một cá tính. Đôi mắt đứa con nay cũng là đôi mắt người mẹ xưa.
Chừng đứa nhỏ vừa gội đầu hay ngịch mưa. Những sợi tóc đen nhánh lướt thướt dính bết trên hai gò má. Bộ quần áo lấm tấm những chùm hoa màu tím bay bay trên cái thân hình khẳng khiu, quá mỏng manh trước buổi chiều cuối năm gió mưa lạnh đầy đang lan trùm kín khắp một vùng ô Phú-Nhuận. Tôi rũ rũ. Mưa đọng trên người lộp bộp rụng xuống hàng hiên nhỏ chật. Đứa nhỏ vẫn đứng đó, im phắc. Nó thao láo nhìn tôi, nín thinh.
- Nhà bà Tuyền đây phải không cháu?
Nó gật. Gật thôi. Con cóc nhỏ xíu này chưa chịu mở miệng.
- Mẹ đâu?
- Đi phố.
- Bác đến thăm mẹ. Cho bác vào chứ.
- Không vào được.
Cánh cửa thu hẹp lại. Mắt nó mở lớn hơn. Tôi bật cười:
- Sao thế?
Đứa nhỏ đáp, ngon lành, như nó đã thuoc-5 lòng từng câu nói, như câu nói này nó đã nói thật nhiều lần, với thật nhiều người, đã tới, lúc mẹ nó đi vắng:
- Cấm không cho người lạ mặt vào nhà. Mẹ dặn thế.
Tôi cúi xuống xoa đầu đứa nhỏ, lấy giọng thân mật.
- Riêng bác thì mẹ không dám cấm đâu. Cấm thì ăn đòn liền. Để bác vào. Mẹ đi vắng bác ngồi chờ mẹ về.
Xem chừng nó vẫn nhất định không chịu mở rộng cánh cửa. Tôi ngồi xuống ngang tầm nó, dịu dàng:
- Hiền là cháu, đúng không?
Gật.
- Không bao giờ mẹ nói chuyện với cháu đến bác Thiết sao?
- Có. Mẹ có nói.
- Như thế nào.
- Mẹ bảo bác Thiết là a nh ruột của mẹ. Mẹ bảo hồi mẹ còn con gái, bác Thiết thương mẹ nhất nhà. Nhưng mẹ lại bảo bác Thiết không bao giờ thèm tới đây đâu. Bác Thiết, ông bà và họ hàng khinh mẹ, coi mẹ như chết rồi, không bao giờ thèm nhìn mặt mẹ con mình nữa.
Tôi bùi ngùi cảm động:
- Sao nữa.
- Mẹ chỉ nói thế. Rồi mẹ khóc.
Tôi kéo đứa cháu gái lại gần, ôm lấy nó, ôn tồn:
- Mẹ nói bậy quá thể. Bậy thế mà cháu cũng tin. Không ai có quyền khinh mẹ con cháu hết. Bác đến rồi đó. Bác là bác Thiết. Không gạt cháu đâu.
Ánh mắt đứa bé còn thoáng gợn một hoài nghi nửa vời. Nhưng rồi nó nới lỏng cánh tay giữ cửa, né sang một bên cho tôi bước vào.
Ngọn đèn treo ở giữa nhà đong đưa theo chiều gió lọt. Căn buồng ngăn nắp, sáng láng, nhưng phảng phất một thứ không khí âm thầm nhẫn nhục nào đó.
Một cái bàn gỗ mộc trên đặt một cái khay và một bình trà. Góc nhà, một cái máy may Singer kiểu cổ. Bên cạnh, một cái tủ áo lồng kính, ở trong là mươi cái áo dài, tôi đến gần nhìn đều là hàng lụa trơn, mầu nhạt. Nhớ được đó là những mầu áo Tuyền hằng ưa thích thuở còn thiếu nữ. Góc buồng đối diện, một tấm mùng trắng buông thả kín trùm một cái nôi mây trẻ con. Tôi dắt tay bé Hiền đi về phía góc nhà đó. ‘‘Ai đó?’’
‘‘Em Hoàng.’’
Vạch mùng ngó vào: một hài nhi đỏ hỏn ngủ bằn bặt giữa một đống tã lót, mầu hồng nhạt. Tôi nhìn đứa trẻ mớỉ sinh, nghỉ thầm:
‘‘Kết quả bước đi thứ hai của Tuyền đây.’’
Chừng như bé Hiền đã muốn tỏ ra thân mật với tôi hơn. Nó cẩn thận khép lại cửa mùng, nói nghiêm trang như một người chị lớn:
- Mẹ cấm không cho ai vào, mẹ bảo vì kẻ lạ vào sẽ bắt mất em Hoàng.
Tôi bật cười:
- Mẹ con cháu đúng là chiếm giải vô địch về nói bậy. Để em ngủ. Ra đây. Bác cháu cùng chờ mẹ về.
Mưa đã ngớt ở bên ngoài. Âm thanh dịu nhẹ mợ hồ trên mái. Tôi ngồi xuống ghế, kéo đứa cháu nhỏ vào lồng. Nó ngoan ngoãn tựa vào người tôi và chúng tôi cùng im lặng trong giây lát. Căn buồng mang khuôn mặt bình dị trống trơn của đời sống hàng ngày không hoa bướm không một dấu tích sửa soạn, trang hoàng cho cái Tết chỉ vài đêm nữa là tới đêm giao thừa. Khung cảnh đời sống phơi bầy hết vẻ khốn khó tối tăm là cảnh nhà của đứa em gái thoát ly nhiều năm không gặp mặt làm tôi ngậm ngùi xúc động.
Mưa dịu dàng rơi trên mái dẫn đưa trí nhớ tôi trở lại với một chuyện buồn của gia đình tôi nhiều năm về trước. Chuyện buồn đó bắt nguồn từ vụ gả chồng cho Tuyền. Tuyền đi lấy chồng.
Người ta bảo cha mẹ nào cũng rất mực thương con. Thương như Thái Sơn, chín tầng chất ngất. Thương như nước ở trong nguồn, nước ở trong nguồn càng chảy càng đầy. Có điều tôi nhận thấy, tình thương ấy ở mỗi gia đình lại hàm chứa một cách thế riêng tư, ở từng cha mẹ là từng biểu hiện khác biệt. Song thân chúng tôi thương con đứt ruột, cũng có cái lối thương, cái kiểu thương riêng biệt của các người. Lạ lắm. Nhà con đàn mà thương con đàn như con một, không chia không san, mà nhân mà cộng, từng đứa đẻ ra đã từ nôi hồng sơ sinh thương đến trưởng thành. Cặp mắt các người chỉ biết nhìn con cái mãi mãi ấu thơ, không chịu nhận tới một lúc nào, con cái lớn khôn, phải được tự nó định đoạt cuộc đời của nó. Thương như thế không khỏi lãng quên thật nhiều điều. Như tính người ta là tính trời. Như tâm hồn người ta là cái phần tự do tuyệt đối, kẻ khác dẫu là cha mẹ, tài trời cũng không uốn nắn, không làm khác được. Cha mẹ tôi lo lắng cho phần đời sống của con, lại muốn lo toan luôn đến cả phần tình cảm phần tâm hồn của chúng nữa. Trường hợp này đã xảy đến cho Tuyền. Bằng cái việc quan trọng nhất của đời Tuyền, Là gả chồng cho Tuyền.
Tôi nhớ bấy giờ là vào khoảng mùa thu 1946. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, xua giạt gia đình chúng tôi ra khỏi năm cửa ô Hà-nội, về một thôn ấp vùng quê. Thời thế tao loạn, cảnh nhà con đàn, chất lên, nơi cha mẹ tôi, thành trăm ngàn lo lắng ưu tư, và Tuyền trở thành nguồn lo âu lớn nhất. Năm đó Tuyền hai mươi hai tuổi. Cha mẹ tôi nghĩ thế là đã lớn, Tuyền phải lấy chồng. Thái bình còn ở Hà-nội, việc đó dể lắm. Bạn học của nó, bạn hữu chúng tôi, thiếu gì người cho Tuyền có thể gặp, yêu và được yêu. Nhưng tản cư về một vùng thôn quê xa lạ hẻo lánh, mọi quen thuộc từ trước bị chặt đứt hoàn toàn, cha mẹ tôi nhìn quanh, bàng hoàng không ngó thấy một khuôn mặt thanh niên nào có thể trở thành người rể tương lai. Có lẽ bởi thế mà các người thấy là cái việc hôn nhân của con gái không thể khó khăn không thể lựa chọn được.
Thế là, khi có một người ngỏ ý hỏi Tuyền, cha mẹ tôi bàn tính qua loa với nhau rồi nhận lời tức khắc.
Sau này, thương em gái, thương cho cái việc lớn lao trọng đại nhất đời của nó đã lầm đã hỏng, tôi rũ thoát mọi trách nhiệm, gạt bỏ một mặc cảm phạm tội, đã thầm trách Tuyền tại sao tự nó không lên tiếng, không biết phản đối, chỉ thụ động, chỉ nín thinh. Trách em như thế để khỏi trách mình. Là chẳng muốn hiểu em tâm tính bản chất thế nào, dẫu tôi vẫn cho tôi là người hiểu nó nhất nhà. Người ta phải được sống đời mình, được quyền làm chủ đời mình, mới tới được sự biết phản kháng trước những cái trái ngược với những điều mình mong muốn. Khi lấy chồng, Tuyền đã được sống cuộc đời nó đâu. Giáo dục gia đình nhà tôi chỉ dạy cho con cái, nhất là con gái, sự thần phục ngoan ngoãn, sự vâng lệnh đến cùng. Cho nên nó cũng chỉ biết nhỏ những giọt lệ thầm, giấu kín tâm sự và lẳng lặng nghe theo.
Một đêm trăng, trước ngày cưới Tuyền ít lâu, hai anh em ngồi với nhau ở ngoài vườn. Bao nhiêu năm về sau, trí nhớ tôi còn lưu giữ không phai mờ hình ảnh đêm trăng trong vườn hôm ấy. Trăng xanh biếc dãi ngọc trên những đầu cành ướt sương. Những chùm lá ngủ trong mùi hương dịu dàng một loài hoa đêm phảng phất. Căn vườn đẹp huyền ảo. Những bóng ìỉnh lung linh. Im lặng đầy và lớn. Tôi nhìn đứa em gái, thấy nó đã lớn. Như tôi, hai anh em đã đi hết một tuổi vàng, đã bỏ lại thật xa khuất sau lưng, những tháng ngày nhỏ dại. Bây giờ nó sắp đi xa, về một phía bờ bãi bên kia và trong chuyện vui mừng sắp tới lại như thoáng một nỗi buồn lẫn lẫn. Trong đám anh em, Tuyền hợp và gần tôi nhất. Kỷ niệm tuổi nhỏ giữa nó và tôi, kể có hàng nghìn, kể lại không hết.
Ngày bé, tôi nổi tiếng nghịch ngầm nhất nhà. Sáng vừa trở dậy, thoáng một cái đã lẻn đi. Phơi nắng. Lang thang ngoài đồng, trong bờ trong bụi. Đi quên bữa ăn. Đi lạc đường về. Bị đánh, bị mắng thế nào vẫn chứng nào tật ấy.
Những cuộc đi hoang trong thời thơ ấu ấy bao giờ cũng có thêm Tuyền. Lần nào, tôi vừa mắt trước mắt sau lẻn ra khỏi nhà, quay lại là y rằng đã thấy nó bụ bẫm chạy theo sau. Nhiều lần tôi quắc mắt làm dữ, đuổi: ‘‘về’’. Nó đứng lại, mắt đã rưng rưng chực khóc. Tôi đuổi quá, nó liều lĩnh dọa lại: ‘‘Không cho em đi, về mách mẹ cho mà xem.’’ Thế là tôi lại đành cho nó đi theo.
Tuyền thích được nhập vào những cuộc phiêu lưu tuổi thơ như thế. Nhưng thích mà vẫn sợ. Nó sợ đủ thứ. Sợ lạc đường. Sợ về nhà phải đòn. Sợ rắn rết dưới hố sâu. Sợ cọc nhọn, gai ngầm trong bụi. Một tiếng động lạ tai trong cỏ, đang vui thích chạy theo tôi, đứng sững lại, mắt mở đến đứt kẽ, mặt mũi tái nhợt. Tôi vò đầu giậm chân, mắng: ‘‘Giời ơi: sợ thế mà cứ đòi đi.’’ Nó hoàn hồn, nhoẻn miệng cười: ‘‘Sợ nhưng mà thích.’’
Những đứa em khác của tôi thẩy đều tinh khôn đáo để. Riêng Tuyền nhu mì hiền hậu nhất nhà. Và cũng xinh đẹp nhất nhà. Hai anh em, sau những cái Tết, những đồng tiền mừng tuổi, những giỗ chạp, lớn dần lên. Cho đến đêm trăng trong vườn hôm ấy, đứa em gái nhỏ của tôi đã thành thiếu nữ, nó sắp lên xe hoa về nhà chồng, tôi nhìn nó bằng một cái nhìn mến thương vô hạn, tôi nghĩ bản chất nó dịu dàng, tâm hồn nó trung hậu, những ý nghĩ của nó chỉ hướng đến cái tốt, tính không có cái ác, cái xấu, nó phải được sung sướng, nó hơn ai hết trong anh em chúng tôi, có quyền được sống một cuộc đời sung sướng, ở thật xa những vùng giọt lệ, ở thật khuất những miền khổ đau.
Lạ thay, Tuyền sắp lấy chồng, mà tôi còn nhớ như in, nó ngồi đó trước mặt tôi, khuôn mặt dịu dàng tắm đẫm ánh trăng không hề ánh lên một dấu hiệu vui mừng nào của người thiếu nữ sắp nhìn thấy hạnh phúc qua màu hồng pháo cưới. Tôi bắt đầu linh cảm thấy có chuyện gì đó. Và tìm hiểu bằng một câu nói đùa:
- Chú Bảy xem ra hiền như đất. Cái loại đàn ông dễ bị vợ bắt nạt như bỡn. Cô có bắt nạt chú ấy, cũng một vừa hai phải thôi đấy nhé!
Tuyền phác một một cười gượng gạo, không đáp. Chúng tôi cùng yên lặng một lát rồi Tuyền cúi đầu xuống hỏi nhỏ, giọng run run:
- Thầy mẹ đã... nhận lời người ta hẳn chưa anh?
Tôi ngạc nhiên:
- Rồi. Sao?
Tuyền quay mặt, nhìn vội đi chỗ khác đáp nhanh:
- Em hỏi cho biết. Không sao hết.
Phải thật dịu dàng, thân mật, như hai anh em từ thuở nhỏ không có điều gì giấu giếm không nói cho nhau hay, tôi mới khám phá được cái tâm sự thầm kín, cái sự thật của Tuyền. Một sự thật làm tôi bàng hoàng xúc động. Tuyền cho tôi biết tâm sự nó bằng cái lối cho biết của nó, y như hồi nhỏ. Là khóc. Nó gục đầu lên cánh tay òa khóc nức nở.
Phút đó, tôi biết cha mẹ tôi lo toan cho đời con gái, đã lầm rồi. Tuyền không yêu Trác. Nó nhìn cuộc hôn nhân thảm thê như nhìn thấy cái chết thê thảm đến gần. Nhưng không muốn và không dám hé răng. Như hồi nhỏ sợ con thằn lằn, lớn, nó sợ sự giận dỗi của người lớn. Đóng khuôn trong phục tòng. Tuyền không biết thế nào là phản kháng. Không dám nghĩ mình phải có quyền làm chủ tâm hồn mình, Tuyền không hề một phút nào nghĩ cho Tuyền cái quyền được lựa chọn, được chối từ, nghĩa là được sống.
Và tôi, hèn nhát, thỏa hiệp, đã trở thành đồng lõa với sự lầm lỡ của cha mẹ tôi. Từ hôn mang tiếng lắm. Cha mẹ tôi sẽ buồn. Cha mẹ đã buồn nhiều, không nên để cha mẹ buồn thêm. Nhìn Tuyền khóc, tôi thương nó vô tả, nhưng tôi nghĩ cái lối nghĩ hèn đớn như vậy. Trác là con một người có thế lực trong vùng. Nó về làm rể nhà mình, ít nhất em gái cưng được yên thân về đường vật chất, ngộ nhỡ có bất hạnh gì xảy ra, cũng nhờ gia đình Trác mà dễ bề đối phó. Vả lại ngày cưới đã gần, mọi sự đổi thay đều muộn rồi. Tôi nghĩ một cách ngu xuẩn như vậy. Thế là đáng lý phải lên tiếng, đòi hủy bỏ cho bằng được cuộc hôn nhân không có bởi tình yêu kia, tôi đã khuyên giải Tuyền cho nó đành lòng ưng thuận.
Đám cưới Tuyền được có. Đúng ngày. Đúng như ý muốn của Nín Thinh, Vô Trách Nhiệm, của Thỏa Hiệp và Lầm Lỡ Kẻ Khác, có thể đã rất thương yêu rất thành tâm lo lắng cho cái mai sau của đời Tuyền, mà hóa ra đã thẳng tay xô ngã tan tành đời Tuyền xuống vực. Riêng tôi, thỏa hiệp, nặng hơn, không thể tha thứ. Thỏa hiệp hàm chứa ý nghĩa một đồng lõa hèn đớn, Bởi tôi biết. Biết cuộc hôn nhân gượng ép đã đẩy sấp Tuyền vào lưu đầy bi thảm. Đám cưới cực kỳ linh đình. Riêng tôi nhìn thấy sự tang tóc. Riêng tôi nhìn thấy cõi chết hiện hữu, cõi chết trá hình. Rượu, hoa, chúc tụng. Như mọi đám cưới. Nhưng mà giết người. Một người bị giết. Đúng như thế vì bị tước đoạt cái quyền được làm chủ đời mình. Trong bộ áo cô dâu mầu hồng lộng lẫy, Tuyền không để chảy xuống trên khuôn mặt tái xanh một giọt lệ nào. Tội nghiệp lạ. Bé, nó hay khóc. Nhưng có lẽ nó đã nghĩ, lớn, nó không có cả quyền được khóc nữa. Nhìn và đành. Cái thứ đành vậy thảm thương của hàng đã trao tay, ván đã đóng thuyền. Khi sánh vai cùng chồng đi chào mọi người, đến trước mặt tôi, thốt nhiên Tuyền đứng lại, nhìn tôi thật lâu. Cái nhìn yên lặng, buồn bã, dịu dàng mà như một trách móc thầm kín. Và tôi nhớ, giữa đám tiệc cưới hôm ấy, cái nhìn của Tuyền đã làm tôi cúi gầm mặt xuống. Sau này, nghĩ đến sự bất động hèn đớn của mình, tôi liên tưởng hoài đến trường hợp Montgomery Cliff trong kiệt tác Une place au soleil. Cliff bị kết án tử hình. Cliff đã ngồi yên trên thuyền, nhìn người đàn bà có mang với Cliff chết đuối.
Hồi đó, Trắc làm phó chủ tịch ủy ban hành chính kháng chiến tỉnh. Lấy vợ, y về ở chung với gia đình tôi. Tuyền sống bên chồng, khoan thai bình tĩnh. Tôi theo dõi cuộc chung sống, thấy thái độ em gái như thế, mừng thầm trong lòng. Nghĩ: vợ chồng chúng xem chừng hòa thuận với nhau, thế là yên. Tôi lầm. Hòa thuận thì đành là hòa thuận. Nhưng lẽ sống của một đời người đâu chỉ đơn thuần là sự hòa thuận bên cạnh một đời sống khác. Trước khi lấy chồng, Tuyền sống. Lấy chồng, nó chết thiếp đi. Chính là bắt nguồn từ sự chết thiếp đi ấy, mà em gái tôi, bởi vẫn có những mầm hạt đời sống tiềm ẩn trong tâm hồn, đã từ từ tỉnh dậy. Đuôi mắt sếch và sắc của nó bắt đầu vẽ lên những đường hằn phản kháng. Tôi nghĩ Tuyền muốn phản kháng, muốn lên tiếng đòi cái quyền được sống, được làm chủ tâm hồn mình, nhưng chưa biết thể hiện thể nào thành hành động thì một cơ hội khách quan đã đến, giúp Tuyền cởi trói. Trác nhận được lệnh thượng cấp đổi lên hoạt động ở khu Mười, đúng lúc Tuyền có mang được ba tháng. Đứa con chưa thành hình trong bụng, tuyệt thật, đã mang cái đời sống chưa thành giúp cho người mẹ thoát ly. Có mang làm sao đi bộ hàng tháng đường trường ròng rã vượt núi qua rừng? Thế là Trác phải đi Việt Bắc một mình. Thời kỳ kháng chiến miền nọ với miền kia nghìn trùng cách trở, tin tức gián đoạn. Mãi gần hai năm sau, Trác mới gửi được thư về. Trong thư yêu cầu cha mẹ tôi bắt mẹ con Tuyền phải lên. Khi đó, cháu Hiền đã được hơn một năm. Mẹ đi được, đứa con lại nhỏ dại quá với mưa nắng hành trình. Mặt khác Tuyền đã quyết định. Thoát ly. Làm lại cuộc sống khác. Nó chưa từng biết thế nào là mặt mũi tình yêu. Nó phải được biết thế nào là mặt mũi tình yêu. Để sống. Thầy mẹ tôi giận dữ: ‘‘Cháu nhỏ cũng phải đi’’. Tuyền bình tĩnh: ‘‘Con không đi vì cháu nhỏ’’. Cha mẹ tôi ném ra một thứ lẽ phải bất biến:‘‘ Vợ phải theo chồng’’. Các người quên rằng Tuyền đâu có được quyền lựa chọn. Nó nín thinh không dám cãi. Nhưng ỳ ra không đi. Đến hiệp định Genève. Thầy mẹ tôi ngọt ngào dụ dỗ con phải ở lại chờ chồng về. Tuyền: ‘‘Con vào Nam với cả nhà’’. Cha mẹ tôi nạt lớn: ‘‘Mày đi một mình’’.
Tuyền làm đúng như thế. Nàng bồng con lên một chuyến máy bay khác. Vào Sài Gòn, đi ở riêng.
Thầy mẹ tôi bản tâm nhân hậu có thể tha thứ được Tuyền mau chóng, nếu không có cái việc mà quan niệm luôn lý cổ truyền của các người không thể chấp nhận. Đó là, chỉ sáu tháng sau, Tuyền đã lấy chồng khác. Tôi nhớ, Tuyền có đưa chồng về chào thầy mẹ tôi và chúng tôi một lần. Vào một dịp giỗ Tết gì đó. Thấy mẹ tôi giận đứa con gái liều lĩnh và rắn đầu, nín thinh không hỏi. Tự đó, Tuyền không bao giờ về thăm nhà nữa.
Và đứa anh ruột là tôi, không gặp lại đứa em gái đã bước đi một bước, một bước thật. Tuyền đến buổi chiều mưa cuối năm này, đã chẵn bốn năm.
Một tiếng giầy. Tiếng giầy ngừng lại ngoài hàng hiên nhỏ chật. Bé Hiền: ‘‘mẹ’’. Cửa mở. Tuyền bước vào.
Em gái tôi đã già đi nhiều. Thật nhiều. Tôi có cảm tưởng như, nếu tuổi thiếu nữ ngày xưa ở Tuyền là cái hình ảnh của một biển đầy, thì biển đầy đó không còn đầy nữa. Ngọn triều sự sống đã rút xuống, và bao nhiêu bãi bờ đã hiện ra. Những năm tháng lầm than trong âm thầm cô đơn làm lại đời mình, con đường đó, con đường của một kiếm tìm muộn màng sự hợp lý cho tâm hồn, một lẽ sống cho đời sống, con đường đó ở Tuyền là một vách núi đứng thẳng. Em tôi đã leo được tới đâu trong leo tới cái đỉnh hạnh phúc chói lòa cao ngất? Tôi không đoán được. Nhưng tôi đã thấy tất cả dấu vết của cuộc hành trình liều lĩnh. Những đường nhăn. Mỗi đường nhăn là một vệt buồn. Em tôi đi, như thế. Gai nhọn của hằng hà trở lực đâm nát lòng chân. Dùng bàn tay nhỏ yếu của nó, bờ vai mảnh khảnh của nó, đánh đuổi liên miên những vùng bóng tối dầy đặc, vượt qua những bãi lầy, những mù sương, đi trong hoảng sợ, đi trong âm thầm, nghiến răng mím môi, gạt nước mắt mà đi, và đi như thế, không có một bàn tay thân yêu nào đỡ cho, đẩy cho đi tới. Nó đi tìm hạnh phúc một mình. Một mình nó đi tìm cho nó một chân trời, một mặt trời mới. Đi như thế thì đi là một sự bị thường xuyên quật đập xô ngã. Làm sao mà toàn vẹn được hình hài, tươi trẻ được tâm linh?
Có điều, và điều đó, cũng cảm thấy ngay trong thoáng nhìn thứ nhất: ở Tuyền đã mãn khai, đã chiếm vững một sự trở thành. Nó không chỉ còn là em gái tôi. Dã thôi rồi thiếu nữ. Đã trở thành một người đàn bà, hait ay giữ vững được đời mình, làm chủ công khai được đời mình. Buồn. Nghèo. Bận tâm trăm điều. Lo toan đủ thứ. Nhưng chững chạc, đường hoàng. Và độc lập sống.
Hai anh em chúng tôi im sững nhìn nhau, như hai người lạ mặt. Nhưng lạ mặt cũng chỉ trong khoảng khắc ngắn ngủi của một tích tắc đồng hồ thôi. Bay vút về những thời gian và những không gian xa cũ, hai anh em đã gặp lại được những kỷ niệm và những liên hệ tuổi vàng, tuổi vàng của những buổi phiêu lưu qua bờ qua bụi, của những trái ổi chia đôi, của những tháng ngày thơ ấu.
Tuyền chớp mắt:
- Anh lại chơi.
Tôi tìm cách phá tan cái không khí đột ngột mất tự nhiên, bằng một lời đùa cợt:
- Tưởng cô chết rồi. Vẫn sống nhăn răng ra. Có gì lạ không?
Tuyền cúi đầu không trả lời, nét mặt nghiêm trang. Nó đi về phía chiếc nôi, vạch mùng, bồng đứa nhỏ lên, ôm đứa nhỏ thật chặt trước ngực như tìm kiếm ở cái hài nhi đỏ hỏn ấy một nguồn che chở, một sự trấn tĩnh. Đoạn Tuyền trở lại, kéo ghế, ngồi đối diện tôi. Ngẩng lên, mắt Tuyền đã nhòa lệ.
- Thầy mẹ và các anh các chị coi em như chết thật rồi mà. Ngờ đâu chiều nay anh còn nhớ đến thăm người chết.
Tôi hỏi Tuyền, rành rọt từng tiếng:
- Cô có cho cô chết thật rồi không?
Một phút im lặng. Tuyền như xoay chuyển với một ý nghĩ trong đầu. Xong rồi. Nó nhìn thẳng vào mắt tôi.
- Không.
Tôi dịu dàng:
- Thế là đủ. Mình biết mình thế nào là đủ. Sống không phải là hợp lý với người khác. Sống là hợp lý với chính mình. Anh đến thăm mẹ con Tuyền để bảo cho Tuyền biết không ai muốn coi Tuyền như đã chết. Thầy mẹ cũng thế, nhưng Tuyền cũng đừng sống mãi mãi với một niềm kiêu hãnh quá độ, một tâm trạng giận hờn không bao giờ cởi bỏ. Đừng tự đầu độc đời mình. Chuyện ngày xưa, lâu dần rồi ai cũng cảm thấy có lỗi với Tuyền một phần. Bây giờ, ai cũng chỉ mong cho Tuyền được sung sướng.
- Chú ấy đâu?
- Nhà em đi làm đêm. Sáng mai mới về.
- Hôm khác anh sẽ trở lại thăm chú ấy. Bây giờ anh đưa mẹ con Tuyền về thăm nhà. Tuyền đừng sợ. Chính thầy mẹ bảo anh xuống đón Tuyền về chơi. Mẹ biết Tuyền đã có con. Mẹ muốn xem mặt cháu Hoàng.
Chưa từng lần nào trong đời đứa em gái tôi, một câu nói có thể làm cho nó ngạc nhiên và sung sướng đến thế. Tôi nhìn cái hạnh phúc bất chợt, cái hạnh phúc bàng hoàng, cái hạnh phúc bao nhiêu năm không thể nghĩ còn có, bây giờ đã có, cái hạnh phúc được đón nhận trở lại mái gia đình, và lúc này tôi nghĩ cuộc đời lại đáng sống quá chừng, tôi nghĩ đến một thứ lương đời phong phú vô tận thừa đủ để chia cho tất cả, bởi thực ra có ai đòi hỏi nhiều lắm ở nhau đâu, một chút khoan dung thôi, một chút tha thứ, là cái khuôn mặt não nuột của bất hạnh đã bị lật nghiêng đi thành cái khuôn mặt hạnh phúc chan hòa rực rỡ, là đời lại có nắng ấm từng guồng, mật ngọt từng khối, là lại gió thổi hồn vui, chim hót trong lòng trời xanh và buổi sáng trời hồng và mây bay. Tuyền sung sướng cái lối sung sướng của nó, như nó buồn khổ cái lối buồn khổ của nó. Bằng cách nức nở khóc. Bé Hiền thất thanh kêu lên:
- Mẹ.
Tôi ôm đứa cháu vào lòng, mỉm cười:
- Không sao đâu. Để mặc cho mẹ khóc.
Và Tuyền ngồi đó, ôm chặt đứa con mới sinh mà khóc. Khóc thật tận cùng, khóc thật thỏa thuê, khóc thật sung sướng.
Khi Tuyền bồng cháu Hoàng và tôi dắt tay cháu Hiền từ căn nhà nhỏ đi ra, mưa đã ngớt hẳn. Lác đác trên đầu tiếng nước rụng trên chùm lá tối. Lòng con ngõ lầy lội. Những vũng nước thấp thoáng. Tôi cẩn thận dò tìm những chỗ cao, bảo cho bé Hiền bước theo. Nhưng mắt người lớn không tinh bằng mắt trẻ con. Tôi bước hẫng vào một vũng nước. Nước bắn tung tóe. Bé Hiền giật giật tay tôi, cười với mẹ nó đi bên: ‘‘ Bác Thiết bước vào nước rồi mẹ à.’’ Tuyền kêu khẽ:‘‘ Chết. Đường xấu quá. Có sao không anh?’’.
Tôi cúi xuống, bẹo tai đứa nhỏ:‘‘ Thích lắm đấy hả. Không sao hết. Chỉ hỏng mất đôi giầy mới’’. Đôi giầy mới. Đôi giầy mới chợt làm tôi nhớ một câu chuyện giáo khoa, học từ thuở nhỏ. Câu chuyện của người đi đường mang đôi giày mới, đôi giày mới tinh đi trên con đường lầy lội. Chuyến đi là hình ảnh cuộc đời. Đôi giầy mới là tượng trưng cho lương tri người đi đường.
Chuyện tuổi nhỏ dạy rằng bước lầm một bước, đôi giầy lấm bùn tức là lương tri sa đọa tự đó. Và bước lầm một bước tức là sẽ lỗi lầm mãi mãi, như đôi giầy lấm bùn một lần, sẽ từ đó lấm mãi lấm thêm. Tôi ngạc nhiên với chính mình, không hiểu tại sao trí nhớ còn lưu giữ được bài học giáo khoa tự thuở vỡ lòng với cái thứ luân lý sơ đẳng ấu trĩ của bài học ấy. Tuyền đã bước lầm mất một bước. Nó liền bước một bước khác. Bước lầm thứ nhất trở thành kinh nghiệm cho bước thứ hai đúng và đẹp hơn. Đời không đóng cửa người. Chỉ người tự đóng cửa mình. Vấn đề là dám phá vỡ, dám làm lại. Đi nữa. Đi về trước mặt. Cho tới khi thấy. Thấy cái mình muốn thấy. Thấy cái mình muốn sống.
Đến lượt bé Hiền bước hẫng vào một vũng nước. Không ai bảo ai, hai bác cháu chúng tôi cùng bật cười lớn. Và chỉ bằng một cái hất đầu tôi đã hất bắn được cái hình ảnh khả ố của đôi giầy mới tinh lấm bùn ra khỏi đầu óc.