← Quay lại trang sách

- 7 - LÁ CỜ ĐỎ CHÓI

NHỮNG NGÀY CUỐI NĂM, BUỔI SÁNG xanh, lạnh, làm nhớ đến những tinh sương mùa thu miền Bắc, buổi trưa ấm hơi trong da thịt ngỡ ngàng xao động, và buổi chiều, buổi chiều thấp thoáng chuyên chở trong nó hình ảnh phần đời tàn tạ bắt đầu, tôi thường từ trong xóm thấp vượt qua con đường liên tinh, sang tới bãi cỏ đó, ngồi với tôi, một mình, trên cái chiếu cỏ mênh mông nuột nà xanh biếc, Và nghĩ.

Quá khứ xa đắm lùi giạt sau tầm chạm đụng mịt mùng của trí nhớ phản phúc, hiện tại như con đường liên tinh băng qua, tương lai sát gần và hạn hẹp thảm thương chỉ còn như một nối dài lung lay của trí nhớ và quá khứ đã lấp trùm trên toàn diện thân thế thiêm thiếp lắng đọng, tôi sống những chuỗi tháng ngày cuối cùng không còn với gì hơn là những ý nghĩ của mình. Sống. Sống bằng ý nghĩ. Phải, tôi chi còn có thế. Tôi chẳng còn gì. Tôi đã mất sạch. Người ta bảo tuổi già là một trạng thái khoan thai uy nghi của con sư tử có cặp mắt hiền từ mà vẫn dư thừa quyền lực, bởi vì con sư tử hiền lành vẫn làm cho chung quanh rừng thẳm nín thinh, tuổi già trầm lặng trong khốc liệt, thư thái mà chói lọi, bởi nó nung nấu trong nó ngọn lửa vĩ đại âm thầm ấy là cả một đời người đã trải qua, và tụ đọng lại, tuổi già như một đời cổ thụ với những đường nhăn là những gân xanh và những máu hồng mới, nhưng tuổi già ở tôi không phải như vậy. Tuổi già chỉ là một khúc ruột thừa, một nhành gỗ mục, sự lăn lóc vô ích, sự bất động trống không, không ra khối hình cũng chẳng thành hình bóng. Tuổi già chính là cái bất toàn, khó coi và quái gở nhất của một đời người. Sống. Sống bằng ý nghĩ. Thế là sống đó sao? Không. Tôi đã chết rồi. Tôi chỉ còn những ý nghĩ vật vờ của tôi như những cặp mắt ráo hoảnh ngó sang đời sống. Đời sống vẫn gần gụi đó. Chung quanh đây. Tôi còn tỉnh táo. Tôi còn tinh tường. Vành tai còn lắng đoán và ghi nhận được những tiếng động thầm thì nhất. Tròng mắt còn in dấu được những hình ảnh hư ngụy nhất. Chân tôi còn đi. Da tôi còn thở. Nhưng đời sống là hàng xóm rồi. Và nhà láng giềng với ông lão già thì đã có một hàng giậu ở giữa.

Phút này, tôi cũng lại đang sống với cái thứ đời sống chán nản ngây ngây thuần bằng những ý nghĩ, ở đây, trên cái ngai cô độc vô hình là bãi cỏ hoang, dưới cao vút và lồng lộng trời chiều vây bọc. Mỗi buổi, mỗi ngày, tôi chỉ còn có trời cao trên đầu vây bọc. Như những sự vây bọc khác của cô độc, lặng im, và bóng tối. Còn thì tất cả không còn vây bọc nữa, tất cả đã xa lảng rồi, tất cả đã đâu đâu.

Đứa con gái cuối cùng của tôi vừa đi lấy chồng. Đám cưới nó đã được cử hành sáng nay. Anh em nó đã đem vợ con cháu chắt về nhà tôi, căn nhà nhỏ đầy tràn, đông đặc, hỗn loạn, tôi sống suốt một buổi sáng bàng hoàng thảng thốt trước cái cảnh tượng xô lận choáng váng, nhưng rồi đến buổi trưa, cái ngọn triều ấy chỉ trong chớp mắt đã tan biến, đã rút đi thật xa, để làm đầy, để dâng lên ở những bến bờ nào khác, ném trả tôi lại, một mình, như một con cá ươn nằm thoi thóp trên một bãi khô tịnh không có một dấu vết, một hiện hữu nào hơn là con cá ươn phơi mình tênh hênh. Và tôi lại ngắm nghía, lủi thủi, lẩn thẩn cái tuổi già xa lạ của mình qua từng cái vẩy, qua từng cái vây, của con cá chết.

Tôi yêu nhất nó. Vì nó là đứa con gái cuối cùng. Tình yêu chỉ mãnh liệt và tuyệt vọng khi nó diễn ra trong một tâm trạng lo hoảng đánh mất. Tôi yêu thương đứa con gái út của tôi như thế, hơn đám anh chị nó, chỉ bởi vì nó là mối dây cuối cùng còn buộc lấy đời tôi. Nhưng tuổi trẻ không phải là tuổi già. Nó có cánh. Cánh nó đã lớn. Và đẫy gió. Thế là nó cũng bay đi.

- Sáng mai chúng con sẽ về thăm thầy.

Nó nói với tôi ở bên cạnh bàn thờ, trong ánh mắt nó thương mến nhìn tôi, có ánh nến từ trên bàn thờ cao chiếu xuống. Tôi nhìn nó thật lâu. Chỉ với một chiếc áo cưới trắng toát tinh khiết, và một gã trẻ tuổi đứng xắm nắm bên cạnh, máu huyết ruột thịt của tôi kia đã trở thành một cuộc đời lạ mặt. Lạ. Như chưa từng nhìn thấy bao giờ. Và tôi ngẩn ngơ, tôi đã nhìn nó thật lâu.

- Thầy mừng cho chúng con.

Mừng? Tôi nhìn cái người đàn bà lạ mặt, hớn hở, đột ngột, và tôi không trả lời được. Tôi không biết. Không biết. Và tôi không trả lời được. Nó nhắc lại, một câu đã nói, hơi khác đi vài chữ:

- Sáng mai con và nhà con sẽ về thăm thầy.

Tới đó thì tôi nghĩ tôi có thể nói được. Mà không thể nói. Tôi muốn nói mày đi ngay đi, ra khỏi cửa thật gấp, đi ngay đi và không nhìn trở lại, không còn sáng mai nào hết, mày đừng nên trở lại làm gì, mày chỉ có nghĩa ở đây, không bằng sự sáng mai trở lại, hãy để tôi yên, từ phút này, từ sáng mai, trong nấm mộ này. Thật tình, phút đó tôi đã nghĩ và đã muốn nói như thế.

Đám cưới tan. Đoàn xe đậu kín cửa nối đuôi nhau từ trong xóm quay đầu chạy ra, leo lên con đường liên tỉnh. Con cháu tôi đã lũ lượt bỏ đi như khi chúng đến, lũ lượt, thoáng chốc đã đầy chật quanh mình, và căn nhà thấp, tối chỉ còn mình tôi, vang mãi, vang mãi, cho đến khi lắng dịu dần, một thứ âm thanh kỳ lạ. Sau cùng, tôi thở ra được. Chớp mắt được. Nhúc nhích được. Bước được một vài bước. Đưa được cánh tay lên. Mọi sự bừa bãi đã được chúng nó chìa tay nhau thu dọn lại. Nhưng cái đám cưới, cái buổi họp mặt ồn ào ban nãy vẫn còn ngổn ngang dấu vết. Những bông hoa lăn lóc trên mặt chiếc khăn bàn xô lệch. Những tách nước uống dở. Một điếu thuốc lá rớt xuống tự bao giớ, nằm trên nền đất. Tôi bước đến, cúi xuống, nhặt điếu thuốc lên, đặt ngay ngắn trên mặt bàn, đứng tần ngần. Đến mầu hồng mơn mởn của những cánh hoa cũng thoát chốc trở thành một sắc mầu xa lạ. Tôi đặt bàn tay trên nền vải trắng, miết nhẹ từng ngón. Những ngón tay gầy guộc, khô teo, bò đi, trong dáng điệu đặc biệt lạc lõng của kẻ mù lòa, rồi đứng lại. Tôi rút tay. Tần ngần. Tôi buông thõng tay. Tần ngần. Im lặng chung quanh đăm đăm ngó nhìn không chớp. Ông lão già, ông không còn gì hết, ông chỉ còn những người đã chết. Thật thế sao? Tôi không còn gì nhưng tôi vẫn còn được những người đã chết? Cũng được. Tôi chỉ mong còn được một cái gì. Một cái gì đó ngoài tôi. Thế giới bên kia, tại sao không, tôi nghĩ thế và lật đật trở lại trước bàn thờ. Ngọn nến đã tắt. Tôi hấp tấp châm lửa, đốt luôn một lúc hai ngọn mới. Những thẻ hương đã tàn. Lửa. Một thoáng khói, một thoáng hương, và một mùi thơm tín ngưỡng đã tỏa lan từ những que gầy rung rinh. Thành kính trong tâm hồn, hèn mọn trong một nỗ lực cảm thông và tín mộ sôi nổi, tôi đã cúi đầu xuống, tìm kiếm cái đời sống kia của những người lánh khuất xưa trước đã có một tuổi già như tôi. Lạ thay. Chẳng có một va chạm siêu hình gợn gợn. Chẳng có một tiếp nối thần thánh đấy đấy. Thì ra cái thế giới của người chết chỉ có với người sống. Kẻ đã tựa lưng vào cõi biếc, cõi biếc chính là người. Cõi biếc không có nữa.

Đám trẻ nhỏ từ bên kia con đường trải đá xanh tụ tập ở đâu, từ lúc nào không rõ, thình lình xuất hiện. Thằng nhỏ dẫn đầu, cầm trên tay một lá cờ mầu xanh, lá cờ lấp lánh nắng, phấp phất theo nhịp chân líu díu dồn gấp. Theo sau nó, một đứa con gái, thấp hơn thằng chạy trước một cái đầu. Đứa con gái tóc cắt ngắn, mặt mũi tròn quay, cổ tay cổ chân mập mạp, quần sắn tới đầu gối, cầm một lá cờ đỏ chót. Chúng dẫn đường cho chừng mười đứa nhỏ khác, trai gái lẫn lộn, cùng nối đuôi nhau chạy theo một đường chạy vòng vòng lượn lượn, và sang tới bãi cỏ, đột ngột tỏa rộng, hỗn độn, không hàng lối, không phương hướng, như trước đó một phút, sự di động tập thể ấy vẫn tuân theo một hướng dẫn vô hình và hướng dẩn ấy bất ngờ hất tung đám trẻ về nhiêu phía khác biệt. Thoắt chốc, những thước không khí lặng lờ lắng đọng như một trạng thái thiêm thiếp lim dim nhốn nháo thức tỉnh bởi một xao động điên cuồng. Với hai lá cờ và rất nhiều tưởng tượng thần thánh vô hạn của tuổi nhỏ, đám trẻ ào tới, vây lấy ông già giữa một vùng la thét đinh tai nhức óc. Không hiểu chúng đang chơi với nhau một thứ trò chơi nào. Không hiểu. Chúng đến từ nghìn dặm. Từ đầu đời bên kia, thấp thoáng một thế giới khác, mịt mùng một vùng trời khác, xa lạ một tuổi tác khác, và ông lão già, vẫn bất động như một tảng đá mềm nhũn, ngó nhìn cái vòng tròn quay đảo hoa mắt bằng cái nhìn mà kinh hoàng tột điểm đã tê liệt, thành một đờ đẫn rưng rưng. Nắng chiều tỏa đầy trên cái nhìn đó, trống không, mù loà và tối đen, với tròng mắt không đáy để lọt qua không ghi nhận không ngăn giữ một ảnh hình nào. Đám trẻ ở sát gần. Có đứa gần quá, đụng cả vào ông lão già. Ngọn cờ xanh, ngọn cờ đỏ phất phới qua lại, phía trước, phía sau, bên tả, bên hữu. Những thân cỏ rạp xuống. Nắng từng đợt, từng phiến, từng giòng nhễ nhại óng ánh tràn chẩy, rớt rụng trên những mái tóc, những cánh tay thơ ấu, giữa những nếp quần áo phần phật đập theo gió, theo sự giẫm đạp không ngừng của những gót chân chong chóng đan nhau. Đám trẻ vừa chạy vừa hò hét. Chúng hét đến đứt hơi. Chúng la đến khàn tiếng. Nhưng, như cặp đồng tử mù lòa im sững, vành tai của người già chừng như đã khép lại, và tiếng la thét dội đập vào một cánh cửa cài then đóng kín, chỉ còn là một thứ âm thanh xôn xao, vật vờ, thứ âm thanh rì rào, mất tăm từng hồi, hiện ra từng lúc, của một vùng biển ở rất thấp và rất xa, vọng lên qua bao nhiêu ngọn đồi, bao nhiêu cánh rừng mỏi mệt, âm thanh đó lăn đi tới đâu mất dần tới đó, cuối cùng chỉ còn là một dấy động hắt hiu nghe từ trong ra, nghe từ đâu phả tới, một thứ dấy động mơ hồ và tưởng tượng.

Đám trẻ nhỏ với thứ trò chơi lạ lùng và khó hiểu của chúng hung hang được một lát. Rồi sự cuồng nhiệt cũng giảm sút dần theo đà chân chậm lại. Ngọn cờ xanh hạ thấp xuống. Ngọn cờ đỏ hạ theo. Những tiếng la thét rời rạc đứt quãng. Những cái vòng tròn quay múa chóng mặt tan rời và phân chia thành nhiều mảnh nhỏ. Đứa con gái phục phịch ngừng chân trước nhất. Nó cắp lá cờ đỏ trong tay, đi lững thững, vừa đi vừa thở. Mái tóc nó dính bết. Hai bên thái dương lấm tấm mồ hôi. Rồi nó thốt lên một tiếng kêu ngắn, rất lạ tai và ngồi phịch xuống. Đám bạn nó lần lượt ngồi xuống theo. Nắng chiều nghiêng xuống bãi cỏ mênh mông chợt mang hình ảnh phẳng tắp cửa một mặt biển cứng lạnh như một mặt kim khí xanh biếc, trên đó lác đác những đứa trẻ ngồi khoanh chân như từng hòn đảo tý hon. Ông già ngồi ở giữa chúng nó. Ông già không phải là một hòn đảo. Ông già chỉ là một phiến đá, một nhành củi mục.

Đứa nhỏ ngồi gần nhất ngước cặp mắt đen láy nhìn ông già. Nó nhăn mặt ngộ nghĩnh và lân la lại gần. Phần lớn những đứa kia cũng bắt chước làm theo như thế. Bóng chúng nó vây quanh nối liền với bóng ông già ngồi giữa. Và những câu hỏi bắt đầu, như một cuộc truy kích tuần tự:

- Ông già, ông ngồi làm gì đó?

Im lặng. Im lặng với tôi là nẻo mới tôi đang trở về. Im lặng với tôi là cửa hầm tôi lách tới, lưỡi tôi ở phía bên kia cổ họng thu nhỏ, tôi không biết nói nữa, nói là ngôn ngữ của trẻ nhỏ, của loài người. Tôt đã ván thiên, tôi đã mộ chí. Tôi chỉ còn là một búp khói rung rinh trên một thân hương gầy guộc. Đang làm gì ư? Tôi đang làm cỏ. Tôi nhòa vào chiều. Tôi là phiến linh hồn ngất ngư phiêu bạt, tôi là mảnh tâm linh băng hoại lang thang của buổi chiều này. Và đứa con gái cuối cùng của tôi cũng đã bỏ đi, và nó đã nói: sớm mai chúng con trở lại thăm thầy. Sớm mai. Những sớm mai nào mặt trời thức dậy. Đang làm gì ư? Đang làm hư không.

Không thấy ông lão trả lời, đứa con gái sấn gần hơn nữa. Nó thân mật đặt bàn tay mụ mẫm trên cái đốt xương nhọn hoắt ấy là đầu gối ông lão, vầ phất qua phất lại lá cờ màu đỏ trước mặt ông ta. Nhưng cặp mắt ông lão thì vẫn trừng trừng mở cứng. Chỉ một thoáng mi động ảnh dịu dàng.

- Ông ở đâu tới?

Thằng cầm cờ đỏ, buông rớt lá cờ trên mặt cỏ. Mầu xanh của cờ chìm nhòa vào mầu xanh của cỏ. Nó nhặt lá cờ lên, chỉ thẳng cây cờ trước mặt, như một điểm hồng tâm, nheo mắt ngắm, và trả lời thay cho ông lão:

- Bên kia đường. Trong xóm. Nhà có đám cưới hồi sáng đó.

- Nhà ông mới có đám cưới sao ông buồn thế ông lão?

Những chiếc xe kết hoa trắng toát chở người đi vào cuộc đời, người đi về kẻ chợ, về ngã tư, về biển lớn lấp lánh những điểm lân tinh mộng tưởng chan hòa, và những chiếc xe hoa hóa thân theo hiện tượng nhị trùng bản ngã của người đã chở hư không về một hướng khác, tôi trôi theo hoa trôi vào khoảng biếc, tôi đã đến gần lắm với vùng âm thanh rì rào đời kiếp ấy xuất lên và vang ngân lạ thường từ vũng biển kia, xuất lên và vang ngân qua không biết bao nhiêu núi rừng mỏi mệt:

- Ông ấy điếc chúng mày!

- Ông ấy câm.

- Ông ấy mù chúng mày!

- Sao ông không trả lời chúng cháu, ông lão. Cho ông lá cờ xanh này, ông lão, Lá cờ đỏ này nữa, cờ dẫn đường và cờ chạy đầu đó, cho ông đó, ông lão.

Hai lá cờ từ trên tay hai đứa nhỏ được đặt xuống, ngay ngắn, cân đối trong hai lòng tay nhăn nhúm của ông già xòe mở song song trên đùi, như hai nhành hoa chết hai cái chết mở rộng và hướng tới, từ dưới thấp mặt cỏ lên trời xanh trên đầu.

Vô hiệu. Tuổi già thành tượng trên bãi cỏ là một khối lừng lững bất khả xâm phạm không thả ra một dấu tích sự sống bé nhỏ nào. Đám trẻ con đưa mắt nhìn nhau. Trò đùa mới của chúng nó thật chán ngắt. Trò đùa như tình yêu. Chỉ có, nếu được đáp lại. Hai cây cờ xanh đỏ như hai hòn đá ném xuống một mặt nước, mất tăm, không gợn lên một tăm nước sóng sánh. Và, chừng như, sau một lúc ngồi, nằm ngổn ngang trên mặt cỏ, đám trẻ nhỏ đã hết mệt, chạy nhảy với chúng lại trở thành một hứng thú tột đỉnh như lúc chúng khởi đầu cuộc chơi từ phía bên kia con đường trải đá băng sang, đám trẻ cùng hô lớn một tiếng và đồng loạt đứng vùng lên. Lần này, chúng chạy đều nhịp, những cánh tay dang rộng thành hình thước thợ với chiều người, họp thành một hàng thẳng tắp. Đứa con gái, thấp nhất bọn, chiếm vị trí chính giữa. Nó chạy thật nghiêm trang, mắt không ngừng ném về hai phía một cái nhìn điều khiển, và từ đứa con gái, cái hàng dài ấy nghiêng nghiêng lượn lượn quay chung quanh ông lão già nhiều vòng đẹp mắt.

Mặt trời bỗng ngã thật mau, lớn hơn và chói chang dữ dội hơn trong khoảng khắc thảng thốt là dấu hiệu của một lặn chìm báo trước. Cái bóng ông lão bị hất bắn về phía sau, đổ dài và mất hút trên mặt cỏ. Như thế một lát. Rồi đôi cánh lớn kết bằng những cánh tay thơ ấu nối liền trùng xuống, đứt rời thành từng đoạn ngắn. Bầy trẻ nhỏ không để ý đến ông lão nữa. Chúng quay lưng, buông tay, lững thững ra khói bãi cỏ chiều và mất đi về phía san sát mái nhà bên đường bên kia. Khi đứa trẻ cuối cùng dời khỏi bãi cỏ, cũng là lúc mặt cỏ chợt tối hẳn đi, vì mặt trời đã lặn.

Thế giới của tôi bắt đầu bằng những vì sao là những cặp mắt, những tình nhân, những linh hồn ảo huyền và hằng cửu của đêm tối. Sao đang lên, sao đang lên rồi, từng vì sao một. Một vì sao đã lên và tiếp theo nó là một vì sao mới đang hiện, điểm sáng rõ dần thành lấp lánh, cạnh sáng hiện dần thành lung linh, tưởng như có một bàn tay vĩ đại kích thước mênh mông xòe mở kín trời đang nhặt dần trong hằng hà hư vô từng đời ánh sáng một và cấy dần chúng lên nền trời bằng một trồng cấy tuần tự khoan thai vô cùng vô hạn. Bàn tay huyền diệu kia đang đính hào quang lên trời là của kẻ ấy có thừa thì giờ. Kẻ ấy có triệu ngày triệu năm, triệu đời, triệu tháng. Y không vội vàng. Y cấy sao lên đêm, y cấy sao đêm không vội vàng. Tôi cũng vậy. Tôi đã ở ngoài mọi áp lực lũy tiến của đời sống dồn đuổi bằng những nhân gấp tích lũy tuôn tuôn nối nối của nó, và tôi đã thôi vội vàng, đã ngừng hấp tấp, tôi đã hằng cửu và tôi đã khoan thai.

Đêm đang xuống, tôi ngồi đây, và tôi cũng đang chăm chú, đang trầm tĩnh, đang khoan thai cấy dần từng vì sao lên vòm trời riêng biệt của mình. Mai chúng con trở về đây thăm thầy. Ừ, con hãy trở về, hãy trở về đây thăm thầy. Tôi cấy thêm một vì sao mới. Tôi đang cấy tôi trên từng vì sao mới. Ừ, sáng mai mặt trời mọc, xe cộ chạy, đời sống lên, vòng xe quay, con hãy trở về đây thăm thầy. Trong tôi, một nền trời đã dựng xong. Dựng xong từ một vì sao cuối cùng vừa cấy hết.

Tinh sương ngày hôm sau, đứa con gái mụ mẫm bỏ quên lá cờ đỏ trong lòng bàn tay ông lão già trở lại tìm lá cờ của nó trên bãi cỏ. Lá cờ ướt sũng sương đêm vẫn nằm ở đó, như chiều hôm trước, trên lòng tay mở rộng của ông lão già. Và ông già vẫn ngồi đó, y nguyên như chiều hôm trước. Đứa con gái nhìn ông lão đăm đăm. Nó chỉ ngạc nhiên chút ít khi nghĩ rằng ông lão đã ngồi suốt đêm một mình như thế ở ngoài trời. Nó cúi xuống, nhẹ nhàng nhặt lấy lá cờ đỏ, nhặt luôn lá cờ xanh, và bình tĩnh đi ra khỏi bãi cỏ với những hạt sương óng ánh dưới nắng sớm vừa dấy. Bằng những vì sao và hai lá cờ xanh đỏ của đàn trẻ nhỏ trên lòng tay, ông lão già đã trồng cấy xong vòm trời thế giới của mình. Và không có ngày nhị hỉ cho người thiếu nữ lấy chồng ngày hôm trước đó.

DÒNG SÔNG RỰC RỠ tập truyện của MAI-THẢO, bìa NGUYỄN TRUNG, Nguyệt- san VĂN-UYỂN xuất-bản lần thứ nhất. In tại nhà in riêng của VĂN-UYỂN, xong ngày I thảng 8 năm 1968.

Ngoài ấn bản thường có in riêng 50 cuốn trên giấy trắng bạch-vân dành riêng tác giả và cơ xuất-bản.