Chương 22
Folco Mori nhìn quanh gian phòng.
- Chắc là ổn, hắn nói. Cậu thấy thế nào?
Pietro Bellinzona nhăn mặt.
- Tớ không biết.
- Thế nào? Có thiếu cái gì không?
Folco nhìn thao láo vào cái xác Lando. Trong thời gian ở dưới tầng hầm tòa biệt thự, người Lando đã cứng lại, sau khi Volpone ra lệnh cho chúng mang hắn về nhà hắn, chúng đã uổng công cố cho người hắn vào lọt trong thùng xe. Lando chết lại tỏ ra kém phần mềm mại hơn lúc sống. Chúng không thể uốn được người hắn lại. Thời gian thì gấp... Chúng đã liều để cho hắn nằm ở bên dưới chân ghế sau xe, che bằng một tấm khăn len Scotland.
Folco lái xe, hàm nghiến lại, tôn trọng ngặt nghèo các đèn báo, biển báo, nhường cho các xe khác lên trước, chú ý không làm một cái gì có thể khiến cảnh sát để ý.
Cạnh hắn, Pietro tựa như lờ mờ, không hồn. Cái chết của Lando lúc đầu có làm cho hắn nhẹ được người, cũng như niềm tin là không ai có thể biết được rằng hắn đã giết Lando. Bây giờ còn lại, là tự hắn phải sống đối mặt với bản thân hắn, là tránh nghĩ tới nỗi nhục hắn đã phải chịu đựng. Hắn không đến nỗi đần tới chỗ không biết rằng trong băng Volpone người ta vẫn thường coi hắn như một thằng ngốc của gia đình. Hắn có thể đã hạch đòi một cách hãnh diện vụ giết người này là của hắn, để tỏ cho họ thấy sự dàn cảnh của hắn đã lừa được tất cả bọn họ như thế nào. Nhưng hắn lại buộc phải câm nín...
Trong căn hộ của Lando, chúng đã dựng lại một kịch bản tương tự. Khi cảnh sát hay hàng xóm được mùi thối của cái xác báo động mà phát hiện ra nó thì có rất nhiều cơ may là họ sẽ thiên về tại nạn. Sàn nhà bằng đá hoa, một thanh ngang của chiếc ghế bị gẫy, một chồng đĩa sạch rải tung toé trên đất tựa như đã bị rơi từ trên đỉnh tủ áo quần xuống, nơi Lando leo lên một chiếc ghế đẩu trong bếp đã gạt phải chúng.
- Muốn gì thì ta cũng cóc cần! - Folco nói. - Khi tìm ra nó thì ta đi đã xa rồi.
- Tớ yêu nó làm... - Pietro thành thật nói.
- Tớ cũng thế, - Folco đáp. - Thật là không may.
- Đúng. - Bellinzona. - Không may...
Chúng nhìn một lần cuối cái xác cứng đờ của đứa bạn nằm dài, úp mặt xuống đất, rồi kín đáo đi ra khỏi căn hộ. Italo muốn chúng trở về biệt thự càng nhanh càng tốt.
Hans Bregens đi quanh quẩn ở đường Stampfenbach ngán đến phát ốm. Hắn ở đây đã hai giờ qua, có thể đọc thuộc lòng được nội dung tất cả các quầy cửa kính trong một đường bán kính năm chục mét quanh cái cổng ra vào chính của Ngân hàng Thương nghiệp Zurich. Gió nhẹ bắt đầu làm da hắn sởn lên. Hắn dựng cổ áo trench-coat và xem đồng hồ: mười giờ. Hắn đi ngang qua đường, vào trong một lối đi có mái che, leo mấy bậc thang đưa hắn tới một gian hàng ở giữa tầng gác và tầng trệt.
- Paul! Tớ ngán đến cổ rồi! Mấy giờ thì có người đến thay chúng ta!
- Nửa đêm, - Romanshorn nói.
- Tớ sẵn sàng uống một cái gì...
- Có gì mới không?
- Sao cậu lại muốn có cái gì mới nhỉ? Blesh cũng chẳng cho hay tại sao lại đem chúng ta bày ở cái ngân hàng chết tiệt này cơ mà! Chúng có người gác cổng của chúng chứ, không à? Trò khỉ.
Romanshorn nhún vai. Những ý định của Trung úy Blesh cũng giống như của Thượng đế vậy, không sao mà hiểu cho thấu được. Kỷ luật - kỷ luật... ông chỉ nói với người của mình cái tôi cần thiết, xét thấy giải thích cho họ lý do những việc ông giao cho họ là chẳng được cái ích lợi gì.
- Các anh báo tôi tất cả những gì thấy khả nghi và lạ lùng quanh ngân hàng...
“Rồi giải tán” - Bregens đã thầm nói thêm. Hắn cầm lấy máy bộ đàm trong tay Romanshorn. - Đi dạo vỉa hè đi, cô gái non. Tớ sẽ hút một điếu thuốc ở đây...
- Đồng ý, - Romanshorn nói.
Hắn đi qua dãy galơri, chỗ có một cửa kính rộng trông thẳng sang nhà ngân hàng, làm cho nó thành một đài quan sát vừa kín đáo, vừa hiệu quả. Hắn bắt đầu đi trên đường phố dốc, chốc chốc lại có những chiếc xe lao xuống.
Hầu như không ai đi đường. Ở Zurich người ta ngủ và dậy rất sớm. Romanshorn thắc mắc về cái công việc đang làm. Ngân hàng là chốn thiêng liêng. Theo hắn biết thì chưa kẻ nào dám cả gan đột nhập vào đó bao giờ... Tưởng chừng cái lý do xã hội bày ra thành những chữ bí mật bằng vàng ở trên nóc cổng mặt tiền cũng đã thừa đủ sức bảo vệ nó chống lại mọi loại phần tử đập phá thần tượng được rồi. Còn phải giết hai giờ nữa trước khi người ta tới thay gác.
Trong galerie, Bregens đập đập lên các nút bấm của máy bộ đàm. Lập tức hắn liên lạc được với sở cảnh sát chính. Hắn nhận ra tiếng nói quen thuộc của thượng sĩ Doug trực đêm.
- Có gì không?
- Có đấy bố già, - Bregens nói. - Tôi đang chết cóng và đái ra quần rồi đây.
Homer Kloppe chụm hai lòng bàn tay lại uống nước ở ngay chậu rửa mặt. Từ sáng ông chưa ăn gì. Trước đám tang Renata, ông uống một tách cà phê không đường. Ông không đói. Volpone và Gabelotti không sờ mó hành hạ gì ông. Chúng chỉ dọa ông, tả tỉ mỉ cơ số phận chờ đợi ông nếu như ông không cho chuyển đi chỗ tiền mặt mà ông đang là người nắm giữ. Nếu chỉ với cái ý thức rất nghiêm ngặt của ông về bổn phận thôi, ông đã muốn rũ quách đi cho rảnh. Nhưng đằng này ông lại trả cho Paul cái mà Pierre giao phó cho mình, việc đó làm sao có thể nghĩ tới được. Ý nghĩa sứ mệnh nghiệp vụ của ông nằm ngang sự tuyệt đối bí mật. Ông đã có mấy tiếng đồng hồ để xem xét lại những gì mà từng bao phen ông đã suy tính đến rồi. Cuộc xem xét mới chẳng đem lại được điều gì mới cho ông cả. Ngoài lòng tin tuyệt đối rằng ông chỉ làm trọn phận sự mình, bằng cách im lặng bảo vệ lấy những giá trị ông đang cai quản, y như bố ông hay ông nội ông đã từng làm như vậy trước ông. Sự bướng bỉnh của ông đã khiến ông phải trả giá bằng tất cả hai hàm răng của mình. Volpone còn thề sẽ giã vào vợ ông, ngân hàng ông, con người ông.
Khi Volpone sủa vào mặt ông, ông đã muốn giúp hắn, nói với hắn rằng quả là ông đang nắm chỗ tiền đó thật, nhưng ông chỉ có thể trao lại cho hắn, nếu như các điều kiện hợp pháp của sự thu hồi được hắn tôn trọng. Gabelotti thì tỏ ra thớ lợ hơn, thâm hiểm hơn, xen kẽ những lời dọa nạt, những câu hứa hẹn và những niềm ăn năn vào với nhau...
- Ông Kloppe, tôi bối rối vì buộc đã phải cư xử thế này với ông... Ông hãy thú nhận rằng ông đã không để cho chúng tôi được quyền lựa chọn. Ông sắp buộc chúng tôi phải hủy hoại ông, làm cho ông lụn bại.
Hủy hoại thì ông đã bị rồi. Cái chết của Renata, tính hiện thực của cái chết của con gái đang nhè nhẹ len vào trong người ông. Bị lụn bại - giả định có thể như thế đi - thì ông cũng chẳng coi ra mùi gì. Điều duy nhất từ nay quan trọng với ông là giữ vững, không lùi.
Ông quay về ngồi xuống giường sắt, thân cứng nhắc, tay để trên đầu gối, trong một tư thế vốn quen thuộc của ông. Ông nghe thấy một cái gì đó động đậy ở đằng sau tấm cửa sắt phòng giam. Ông nhận ra tiếng người ta xê dịch lốp xe. Một cái chìa quay trong ổ. Ettore Gabelotti vào trước, theo sau là Italo Volpone. Hắn khép cửa lại, đút chìa vào trong túi. Homer không cựa quậy, Gabelotti công phá.
- Ông Kloppe, chúng tôi tự cho phép đến thăm ông lần cuối cùng trước khi những sự kiện không vui và không thể đảo ngược sắp xảy ra. Tôi rất thẳng thắn nói cho ông biết những gì sẽ đến để giúp cho ông có một quyết định.
Volpone rất nhợt nhạt ngồi trên chiếc ghế đẩu, mắt nhìn chằm chằm vào một điểm trên bức tường vôi. Người hắn im lìm nhưng bàn chân phải hắn khẽ giật giật, đạp nhịp nhàng xuống đất.
- Đã mười một giờ, ông Kloppe. Một tiếng nữa, Ngân hàng Thương nghiệp Zurich sẽ nổ tung. Một toán biệt kích đang ở trong thành phố. Họ sẽ phóng hỏa đốt sạch tất cả, cái ngân hàng của ông sẽ không còn lại gì nữa, không còn gì cả! Giá sử cái đó chưa đủ làm cho ông suy nghĩ thì sáng mai chúng tôi bắt cóc vợ ông. Tôi sẽ không tầm thường đến độ vạch cho ông thấy trước những gì bà ấy sẽ phải chịu đựng rồi mới tìm thấy được sự yên rỗi của cái chết. Nhưng ông Kloppe, nếu ông hình dung được, thì ông sẽ tự nguyền rủa mình đã để cho một chuyện khủng khiếp đến như vậy lại được phép xảy ra. Ngay sau khi bắt cóc bà Kloppe, chúng tôi sẽ hành hạ bà ấy và đốt cháy tòa nhà của ông. Sau đó chúng tôi giao ông cho những bọn đao phủ, mà tôi xin thề với ông, chúng biết cách làm cho ông phải nói. Ông là một người biết điều, ông Kloppe, một người theo đạo Thiên Chúa... ông biết rõ là chúng tôi không lừa bịp. Cho nên tôi yêu cầu ông hãy nghĩ nhanh nhanh lên... Hãy còn thời gian! Trả lại chúng tôi cái của chúng tôi, chúng tôi hứa với ông là sẽ thả ông ngay lập tức. Bây giờ ông hiểu đã đủ về chúng tôi, ông không lạ gì là ông đang có chuyện với những ai rồi. Chúng tôi bao giờ cũng đi đến tận cùng việc làm của mình. Tôi ca ngợi lòng dũng cảm ông đã cho thấy tới lúc này. Nhưng cai gì cũng có giới hạn. Sự ngang bướng của ông đã trở thành tội ác Không chỉ có mình ông liên lụy mà còn có tính mạng vợ ông nữa!
Gabelotti ngừng lại. Trên nền bê tông, bàn chân Volpone vẫn tiếp tục điệu nhảy cuồng loạn mỗi lúc một bứt rứt bồn chồn hơn. Don Ettore cố nhè ra một nụ cười khích lệ.
- Ông Kloppe, chúng ta còn có một điểm chung với nhau. Ông đã nghe nói đến Omerta chứ? Đó là luật im lặng. Chúng tôi tuân thủ nó cũng hung tợn như các ông thôi. Có một chỗ khác duy nhất: động cơ của chúng tôi thì cao quý vì chúng liên quan tới danh dự của chúng tôi. Trong trường hợp ông, không phải là danh dự, ông Kloppe, mà là tiền bạc. Và hơn nữa, tiền không là của ông, ông biết như thế đấy! Vậy tôi xin hỏi ông, ông có định ra lệnh trả nó cho chúng tôi không, có hay không nào?
Bàn chân Volpone thình lình thôi gõ. Một sự im lặng hoàn toàn dâng lên trong gian phòng thảm hại, chỉ bị hơi thở hen suyễn của Gabelotti nặng nhọc khuấy động. Lúc đó, Homer Kloppe từ từ quay đầu về Ettore Gabelotti và nhìn lão chằm chằm. Con người này đã triển khai toàn bộ những trò mê hoặc của một bài diễn văn kêu gọi tình người, kêu gọi trí thông minh và lý trí. Nhưng đằng sau tấm bình phong từ ngữ đó lại có cái mục đích cần đạt tới. Đó là khoản tiền phải chiếm hữu, cái khoản tiền mà không có gì chứng minh rằng con người ấy là chủ sở hữu như hắn đã tự nhận... Trước nhất là có bộ mặt hắn ta. Dưới tấm mặt nạ về lòng thông cảm hiền lành áp lên trên đó, Homer đã đoán ra được sự độc ác, lòng tham không đáy, sự thiếu trống hoàn toàn tình thương, một cái gì đó lạnh băng gợi đến những cái nhìn láo liên của một con thú dữ. Để đạt được tới cái quyền lực hiện đang có, con người này đã giết, đã làm nhục, đã hành hạ, tra tấn...
Trong vài ba giây ánh mắt hai người xoắn vào nhau đó Gabelotti đã thầm hy vọng mình thắng, lão chủ ngân hàng sắp nói ra đây. Ông ngỡ thấy cả môi Kloppe động đậy hé ra. Nhưng ông không biết nó nói ra cái gì cả.
Italo nhảy chồm lên, lao vào Homer Kloppe.
- Mày phải nói, thằng ăn cắp khốn nạn? Mày phải nói.
Kloppe không phác một cử chỉ nào để tự vệ. Ông ngã lăn ra giường vì sức nặng của Volpone đè lên khi bóp cổ ông. Trong một lát, ông đã hy vọng mình sắp được chết.
Nhưng Gabelotti nắm vội eo Italo, nhấc hắn ra và lấy hết sức giữ ghì lấy hắn.
- Italo! Italo...
- Câm! - Volpone sùi bọt mép.
Hắn vùng gỡ ra như một con thú và chĩa luôn vào Gabelotti một khẩu súng. Mặt Don Ettore mang một vẻ đau khổ mà ông gửi cho Homer Kloppe chứ không phải cho Volpone.
- Ông hãy tin rằng tôi tiếc vô cùng cho thái độ của ông, ông Kloppe. Ít ra có một điều ông đã không ăn cắp: cái tang và những nỗi bất hạnh sắp giáng vào đầu ông.
Ông quay lại Italo, thân mật nắm cánh tay hắn, tựa hồ không để ý tới khẩu súng Mauser hắn cầm ở trong tay. - Nào Italo, nào đi... Aridiamo, ổn thôi!
Italo để cho ông kéo đi, cất súng, lấy chìa khoá trong túi ra lùa vào ổ.
Khi cánh cửa đóng đánh sầm vào mặt Kloppe, Don Ettore cố nhớ lại xem trong đám những người đã từng chĩa súng dọa ông có đứa nào may mắn còn sống sót được sau cái sự sỉ nhục không thể cứu chữa nổi kia không?
Không. Chẳng có đứa nào cả.
- Hans, cậu thấy có gì lạ không?
- Gì chứ? - Bregens nói.
- Đã là cái xe thứ ba đỗ lại trong phố rồi đấv...
- Thì sao?
- Chẳng có ai xuống xe cả...
- Thế này thì chẳng còn có thể hút được một hơi thuốc yên ổn đâu, - Bregens chế giễu.
- Kìa xem! - Romanshorn kêu lên. - Một cái nữa!
Bregens thấy một chiếc Opel đỗ vào chỗ hè lõm, đèn tắt hết, cách cổng ra vào Ngân hàng Thương nghiệp Zurich ba chục mét.
- Thế là bốn. - Romanshorn lẩm bẩm.
Mặt căng thẳng, cách hai mươi giây, hai chiếc xe khác lại đến đỗ ở dưới nữa một chút, Bregens ngạc nhiên, cau mày.
- Cậu biết Blesh dặn gì rồi chứ? - Romanshorn nói, mắt không rời khỏi đường Stampfenbach... Báo cho tôi biết tất cả cái gì các anh thấy có vẻ lạ... Chẳng có cái quái gì, tớ muốn thế lắm chứ, nhưng đây lại là những sáu cái xe, cùng một lúc, cùng một phố... Đưa cho tớ cái khò khè.
Hắn giật lấy máy bộ đàm ở trong tay Bregens.
- Doug?... Romanshorn! Blesh đâu?
- Có gì thế?
- Sáu chiếc xe đang đỗ ở đường Stampfenbach... Không có ai xuống xe hết.
- Tôi liên hệ với ông ấy đây... Doug nói.
Romanshorn cắt máy.
- Ta làm gì? - Bregens hỏi.
Ở đồng hồ hắn là mười một giờ năm mươi sáu.
- Không gì cả... Ta chờ...
Sức mạnh của thói quen… Bregens kiểm tra lại xem có khẩu Colt ở trong túi áo mưa không. Cho tới lúc này, hắn mới chỉ dùng nó trong phòng tập, những ngày tập bắn. Qua tấm cửa kính rộng, hắn nhìn chăm chú vào những chiếc xe đỗ dọc vỉa hè. Không thấy ai bước ra thì khá là đáng sợ đấy!...
Lịch sử đầy những sự việc cỏn con làm cho dòng chảy của nó bị thay đổi. Chỉ một li nữa là trung úy Blesh suýt không nhận được dây nói của thượng sĩ Doug. Blesh đang nằm xả hơi trong căn hộ độc thân, tại đó, mọi thứ đều được tổ chức sao cho khoái cái tai và sướng con mắt. Mặc một áo choàng đỏ tía, một li rượu uýtxki trong tay anh nằm dài trên chiếc đi văng bằng da nai màu lông thú, đánh nhịp ngón tay cho một nét nhạc chỉ mình anh nghe thấy được. Trên đầu anh, một mũ nghe nối với dàn nhạc nổi mới nhất từng làm anh tốn mất - đã có hạ giá rồi - ba tháng bổng lộc. Với Blesh, người giàu cái thiên bẩm nhà mỹ học ở đằng sau tâm hồn cớm của mình, thì sau những ngày nặng nhọc sống chung sống chạ với đám viên chức mù chữ, sự xả hơi tuyệt đỉnh là nghe vị Thượng đế của mình, Amadeus Mozart.
Mặc dù cơn mê li mà bản nhạc kịch ưa chuộng của anh, Cosi fan tutte đang làm anh chìm đắm, anh vẫn không thể không nghe tiếng chuông điện thoại đáng ghét đã bị giảm yếu đi, bởi đúng lúc đang bay vù lên choi chói âm thanh của những cây kèn đồng. Anh quyết định là không trả lời. Tiếng chuông tiếp tục, không mệt mỏi, làm hư cả bản nhạc. Blesh đặt li rượu xuống giận dữ đưa mắt lên chiếc đồng hồ treo tường bằng đồng đen thế kỷ 18, vật chủ yếu trong những thứ quý giá mà anh đã biết thu nhập vây bọc lấy quanh anh: 23 giờ 56 phút 37 giây. Anh cầm máy lên, bị vất tuột ra khỏi những giấc mơ êm ái mà thiên tài của Mozart đang cho anh bay lượn trong nó.
- Đây!
- Thượng sĩ Doug ở máy, trung úy.
- Anh muốn gì?
- Bregens và Romason vừa gọi tôi xong. Sáu xe hơi đang đỗ ở trước Ngân hàng Thương nghiệp Zurich. Không ai xuống xe cả.
- Thế thì sao? - Blesh sủa lên, còn u u minh minh vì cái sương mù lãng đãng của âm nhạc.
- Trung úy, không có gì cả... Tôi xin lỗi... Trung úy đã yêu cầu tôi…
-Trời đất - Blesh chửi thề. - Phái ngay hai xe ca đến. Bít hai đầu đường Stampfenbach lại! Nhanh! Tôi đến đó ngay.
Chẳng đặt lại máy, anh nhào vào buồng tắm, lột áo choàng, chui vào một áo cổ lọ, một cái quần, đôi giày, chẳng kịp mặc xilíp và bít tất nữa. Anh lấy khẩu Trăn Mốc Cảnh sát 375 Magnum khi chạy qua, lùa nó vào trong túi áo mưa rồi lao như quả đạn trái phá vào thang gác.
Chỗ hẹn gặp cuối cùng trước trận công kích đặt ở xưởng sữa. Nó nằm phía đông bắc thành phố, bên kia Schwamendingen, trên một miếng đất lui vào bên trong con đường đi tới Basserdof. Một bức tường vây cao ba mét bao kín lấy toàn thể các tòa nhà và các làng nhỏ. Một cổng lớn bằng gỗ dựa vào bãi sân giữa, nơi đậu mười bốn cam nhông xitéc của hãng Swiss Milk and Butter. Trong cùng sân, một cổng chào dẫn vào xưởng máy chế bơ và pho mát.
Mặc dù sự sạch sẽ ghê gớm của nơi này, người ta vẫn bị sặc lên vì mùi vị chua chua của sữa lên men khi bước chân qua khỏi cổng. Ở về bên trái một chút, trên khoảnh đất chừng một nghìn mét vuông là những bể kim loại tròn, khổng lồ, đào sâu xuống dưới đất, rộng bằng những bể bơi, để lên men.
Bước vào phần này của nhà máy, nơi Volpone và Gabelotti triệu hắn đến để hội ý chớp nhoáng, Vittorio Pizzu đã sửng sốt vì những triệu triệu lít sữa đầy mấp mé những bể chứa tròn xoe kia. Một hệ thống bơm sữa tươi cho chảy thẳng vào cái xe xitéc khi người ta muốn chở hàng đi.
Theo trí nhớ còn lại của hắn thì Vittorio chưa uống qua một giọt sữa bao giờ. Nhưng một hôm bố hắn đã cười mà khẳng định với hắn rằng khi hắn mới ra đời, mẹ hắn đã cho vài giọt uýtxki vào bình sữa để cho hắn thôi quấy khóc. Điều dễ giả định là hắn cũng có uống sữa như mọi người nhưng hắn lại chỉ giữ được có hương vị của uýtxki mà thôi...
Hắn vào văn phòng ở tầng một với ba trợ lý, Aldo Amalfi, Vicente Bruto, Joseph Dotto. Ở đây đã có Italo Volpone, Ettore Gabelotti, Moshe Yudelman mà vẻ mặt âm thầm làm hắn ngạc nhiên, cùng với cố vấn của Don Ettore, Carmine Crimello và Angelo Barba. Trong cùng gian phòng, người đồng cấp của hắn, Thomas Merta, phó capo của Don Ettore, ngôi giữa ba trợ lý, Carlo Badaletto, Frankie Sabatini, Simeone Ferro. Hắn vẫn chưa quen với sự có mặt thường xuyên của các thành viên gia đình Gabelotti. Sự chen vai thích cánh với cái băng thù ghét đang trở thành cái gọi là đồng minh này đối với hắn xem ra có vẻ sống sượng.
Quá nhiều năm chiến tranh và quá nhiều xác chết đã từng ngăn cách hai gia đình để cho Pizzu có thể tưởng tượng ra một cuộc ngừng bắn lâu dài giữa hai bên lại khả dĩ có được.
Đi qua sân, hắn đã nháy mắt với Pietro Bellinzona và Folco Mori. Mori làm điệu đùa, bịt mũi chỉ vào chung quanh.
- Mười người của các anh vừa mới từ Ý đến, - Volpone tuyên bố, không có mào đầu. - Các anh không được rời xa họ nữa rồi. Ngay từ lúc này, các anh phải nắm lấy họ và giải thích với họ là tôi chờ đợi ở họ những gì. Mười một giờ mười lăm, các anh đi từ đây đến ngân hàng. Sáu chiếc xe đưa các anh đi. Tài xế đã thuộc đường. Ngay sau khi càn quét ngân hàng, các anh sẽ được đưa lập tức về đây. Các anh sẽ leo ngay vào các chỗ ẩn ở bên trong xitéc. Các anh sẽ ở Milan trước bình minh. Chúng ta sẽ chỉ gặp lại nhau ở New York.
Don Ettore có một động tác mà ở một vị giám mục thì sẽ được coi là ban phước. Pizzu thấy ông ta nở cái nụ cười gian dối và nói với tất cả.
- Merda a tuti!(68)
Vittorio xem đồng hồ. Mười hai giờ kém một phút. Chiếc xe hắn ngồi đã đỗ ở đường Stampfenbach bốn phút rồi.
Ba mươi giây nữa, hắn sẽ xuống xe, qua đó, ra hiệu cho mọi người tập hợp ở hai bên cổng chính ngân hàng, khuất với chỗ đánh mìn. Nếu tay Piombino kia là người nghiêm chỉnh thì cuộc biểu diễn pháo hoa sẽ xảy ra đúng trong ba mươi tám giây nữa.
Vittorio quay tay nắm cửa xe rồi đặt chân xuống vỉa hè. Cùng lúc, những người trong toán biệt kích cũng vọt ra khỏi các xe đỗ rải trong phố. Tất cả lặng lẽ quy cả về một điểm: Nhà ngân hàng.
Mười hai giờ kém mười, Césare Piombino ra khỏi cái ngăn buồng để chổi mà hắn đã nấp trong đó, co quắp hơn bảy tiếng liền, vật lộn chống lại với các cơn chuột rút làm cho các cơ bắp của hắn đau buốt lên. Trên mặt đồng hồ huỳnh quang, hắn đã theo lần cùng với bước tiến của thời gian, ghi nhận mọi tiếng động âm âm của tòa ngân hàng đang giờ hoạt động náo nhiệt cho tới trước giờ đóng cửa. Rồi tiếng râm ran im bặt. Hắn đã cưỡng lại ý muốn ra khỏi ngăn buồng để dãn gân cốt. Bởi hắn không được liều lĩnh một chút nào hết. Khi đi vào cầu thang giành cho nội bộ, hắn đã uổng công tìm ra một chỗ ẩn ở các tầng trên. Không thể tìm ra nổi. Mỗi một giây trôi đi có thể làm cho hắn rơi vào tay một nhân viên tò mò.
Chỉ khi xuống đến tầng trệt hắn mới phát hiện ra cái chỗ duy nhất có thể cung cấp một nơi ẩn náu cho hắn.
Đó là ngăn buồng chứa đầy xi đánh bóng và dụng cụ lau chùi, cọ rửa. Ngăn buồng này tuy đóng cửa nhưng chìa khóa thì lại ngay trên đó. Piombino lách vào khó nhọc kiếm được một chỗ ngồi xổm. Hắn đã có ý khóa lại từ bên trong. Hai giờ sau, khi hắn đang nhá mấy viên đường lấy trong cặp ra, có tiếng chân bước tới đã làm hắn giật thót, nín thở. Những bước chân nặng nề, chậm chạp trong tòa ngân hàng trống rỗng, vắng vẻ. Rồi bước chân đi xa, vẫn với cái nhịp đều đều và bình thản. Ướt đẫm mồ hôi, Césare Piombino làm dấu cảm ơn Đức Mẹ đã che chở cho mình... Sau cuộc báo động đó, để cho trôi thời gian, lúc thì hắn gặm một mẩu sôcôla mà hơi nóng đã làm chảy nhoét, lúc thì uống một ngụm nước âm ấm trong bình nhựa hắn mang theo đề phòng cơn khát.
Hắn nghi ngại đi vào gian đại sảnh, mắt rình mò trong bóng tối lờ mờ. Hắn không biết ngân hàng này trang bị hệ thống báo động gì. Một hồi còi có thể bất cứ lúc nào rúc thét lên. Hắn đến gần cái cửa đồ sộ bằng sắt đúc ngăn cách gian đại sảnh với đường phố Stampfenbach.
Hắn ngồi bệt xuống đất, bình tĩnh mở cặp lấy đồ nghề.
Hắn còn được bốn phút để làm cho nổ tung tất cả lên.
Hắn lấy bánh mìn ra, âu yếm vuốt ve nó rồi gỡ dây lửa.
Sự sống còn của hắn nằm ở trong cái tài ước định chiều dài sợi dây này đây. Hắn cần nó cháy trong năm mươi nhăm giây, đủ để hắn nhảy bổ vào nấp sau một trong những cây cột đồ sộ bằng cẩm thạch bên trong cùng gian sảnh. Khi cánh cửa vừa bung ra, hắn sẽ vọt ra đường và đi đến xe của hắn đậu cách đó mấy bước, trong một phố cắt ngang, đường Haldenegg.
Hắn cắt dây lửa rồi đặt tất cả những gì đã lấy ra vào lại trong cặp. Hắn bật cái bật lửa xăng Zippo cũ rích rồi châm vào dây dẫn. Khi thấy nó bắt đầu bén, hắn liền co cẳng chạy vội đến chỗ nấp và nằm dài ra, đầu gối lên chiếc cặp, hai lòng bàn tay ôm bịt lấy tai. Hắn bắt đầu đếm. Khi đếm đến hai mươi tám, thì một ánh sáng kỳ ảo rực chói cả gian sảnh, tiếp theo là một tiếng nổ làm rung chuyển tòa nhà. Một luồng hơi nóng rẫy cuồn cuộn chảy thành đợt sóng mạnh mẽ lan đến tận chỗ hắn, trong khi các mảnh gỗ, đá, kim loại bay bắn tứ tung trong gian sảnh đã bị phá hủy của ngân hàng.
Césare Piombino đứng lên và lấy đà nhào ra đường.
Ở chỗ trước kia là cánh cổng đồ sộ nay chỉ còn một lỗ hổng toang hoác.
Hiện tượng kỳ lạ đáng sợ diễn ra trước con mắt ngơ ngác của Romanshorn và Bregens: đường Stampfenbach trước đây hoàn toàn vắng tanh thì nay chưa đầy ba giây đã có những người của một nhóm đông im lìm đi từng tốp nhỏ tách rời nhau tới Ngân hàng Thương nghiệp Zurich.
- Cứt, Bregens khàn khàn nói. - Mười bảy?
- Không, mười tám, - Romason nói thoảng vào tai hắn.
- Chà... ta làm gì đây?...
- Nằm bẹp dí, chờ bạn bè đến...
Cả hai đều cầm trong tay khẩu súng quy định của cảnh sát, những con Rắn hổ mang 38 đặc biệt. Thình lình Bregens không thấy rét nữa. Trái lại, bất giác lùa ngón tay vào giữa cổ và áo sơ mi, hắn ngạc nhiên thấy có mồ hôi.
- Nhìn xem kìa, - Romanshorn nói.
Dưới kia, cách hai bên cổng ngân hàng chừng mười lăm mét, đám người đã dừng lại. Bregens thấy họ nép vào những cây cột cổng chào, lưng quay vào tường. Hắn sắp hỏi Romanshorn xem việc gì sắp xẩy ra thì bỗng bị hất tung lên trong một ngọn lửa đỏ loè và một cơn lốc những mảnh kính văng từ cánh cửa tiếng nổ. Mụ mị vì cái ngã, hắn không nghe thấy Romanshorn hét lên gì đó Hắn chỉ nặng nhọc sờ soạng tìm khẩu Colt bị rơi, thấy nó ở cách chỗ hắn chừng hai mét, rồi bổ đến bạn mình.
Do một phản ứng bản năng, Romanshorn đã cúi đầu xuống khi chùm lửa chói lòa của vụ nổ làm cho hắn tối mắt lại. Hắn đón lấy luồng hơi lúc tấm cửa kính vỡ tan, bay tung trên đầu hắn thành muôn nghìn mảnh chết người. Được chân bức tường có tấm cửa kính xây bên trên che cho, hắn liều liếc mắt về đường Stampfenbach, một giây sau khi nổ. Không còn có cổng chính nữa. Thay vào, một lỗ hổng đen ngòm với những mẩu sắt đúc gắn vào tường móc bám lấy nó. Hắn kinh hoàng thấy một người lăn long lóc từ trong ngân hàng ra với chiếc cặp trong tay, trong khi những người lúc nãy nép vào các cây cột thì lại nhào vọt vào trong ngân hàng.
Người đi ra không để ý chút nào tới những người lao vào, còn những người này thì hầu như cũng chẳng thấy cả cái con người thấp bé đang cắm đầu, cắm cổ chạy như một thằng điên. Cho rằng hành động vẫn tốt hơn tìm hiểu và những lời giải thích bao giờ cũng đến khá sớm sủa, Romanshorn bèn bắn gấp vào cả lũ. Trong đường phố, lập tức một đứa ngã xuống, được một đứa khác đỡ dậy. Đã có một sự dao động nào đó trong cái đám chưa chui vao trong lỗ hổng toang hoác. Một ánh lửa đỏ cháy bùng lên ở trong gian sảnh nhà ngân hàng đồng thời nổ vang lên tiếng lựu đạn điên dại.
- Bắn, - Romanshorn kêu to lên với Bregens đang đi đến ở đằng sau gờ tường.
Một thác đen đập rất gần mặt họ, ở trên bức tường mặt tiền đang che chắn cho họ. Dưới kia, đám lạ mặt đã dò được chỗ hai người. Vẳng lên tiếng còi xe cảnh sát hú.
Những mảnh văng của vụ nổ chưa rớt hết xuống đất, Vittorio Pizzu và Thomas Merta, hai phó capo của hai gia đình đối địch, đã lao thẳng vào ngân hàng từ chính diện.
Trong bao nhiêu năm ròng đối chọi nhau, bằng những tên dao búa xen giữa, bây giờ họ chẳng người nào chịu thua người nào. Vittorio tháo chốt hai quả lựu đạn ném vào trong cùng gian sảnh, sau đó vào các quầy ghisê, Merta rưới súng phun lửa vào dẫy hồ sơ ở bên trái. Theo họ, gần nửa tá lính xông đến các hướng khác nhau, dưới quyền những trợ lý capo của Gabelotti và Volpone. Vicente Bruto, Joseph Dotto, Carlo Badaletto, Frankie Sabatini và Simeone Ferro, mỗi đứa cùng với hai tên lính phá một tầng gác. Chúng sắp xô vào các cầu thang thì một tiếng hét của Aldo Amalfi làm đứng sững cả lại.
- Cớm! Tất cả chuồn mau!
- Tiến lên! - Merta ra lệnh.
- Cậu điên à? - Amalfi quát. - Chúng nấp ở trước mặt bắn vào chúng ta. Một người đã bị trúng đạn. Hai xe ca đang chặn hai đầu đường phố?
Việc Vittorio Pizzu có mặt đã đẩy Merta tới chỗ bướng bỉnh.
- Tất cả lên gác! Đốt sạch.
- Vittorio! - Amalfi gầm lên. - Làm cái gì ngăn thằng mặt mẹt này lại chứ hả.
Thomas Merta lập tức chĩa khẩu súng phun lửa vào Aldo Amalfi.
- Nhắc lại!
- Đứng im! - Pizzu vừa thét vừa đưa nòng khẩu Smith Wesson Parabenllum 39 vào người hắn.
Trong một tích tắc hai tên nhìn nhau chằm chằm, bên lề cái ranh giới bí ẩn mà tại đó, chỉ một động tác nhỏ nhặt cũng có thể làm nổ ra sự bắn giết.
Những tiếng nổ từ bên ngoài vọng vào đến họ.
- Rút lui đi! - Một tên lính của Ottavio Giacomassi rống lên ồ ồ. - Cớm lúc nhúc cả kia rồi. Nhanh lên.
Thình lình tiếng của Vincente Bruttore lấp hết mọi tiếng động. - Dẹp các trò bố láo của các cậu lại, trời đất! Hỏng bét rồi. Chuồn!
Trong một lát, họ đã ở cả ngoài đường, nấp sau những cây cột Vittorio liếc quanh một cái thâu tóm tình hình:
- Có vẻ xấu đây! Bọn ngu xuẩn nấp ở tầng một tòa nhà trước mặt khống chế họ bằng những khẩu súng tự động.
Vittorio mở chốt một quả lựu đạn, lẳng nó vào trong khung cửa rộng có kính đã bị vỡ vụn. Ở hai đầu phố, hai chiếc xe ca cảnh sát, còi hú và đèn pha rọi sáng quắc, đỗ chắn ngang đường. Cảnh sát ở trong xe nấp sau vỏ sắt bắn vào những tài xế của các xe chở biệt kích đến.
- Lên xe! - Pizzu hét. Bọn chúng cúi gập người chạy ngoằn nghèo chữ chi, được Thomas Merta yểm hộ, Ferro phụt hai tia đỏ lòa của súng phun lửa vào những chiếc xe ca chắn hai đầu đường Stampfenbach.
- Cậu định đi đâu, thằng mặt mẹt kia? - Hắn kêu lên với Pizzu. - Cậu không thấy bị chặn đấy à?
Vittorio ném quả lựu đạn về phía chiếc xe ca gần nhất.
Trong chùm lửa bùng lên khi nổ, hắn thấy hai cảnh sát đồng phục giơ tay lên mặt và ngã lăn ra trong khi bình xăng của chiếc xe bốc cháy.
- Khỏi lo! Lao đi!
Họ chỉ có một phần nghìn cơ hội thoát ra được. Nhưng dù là một phần triệu thì Pizzu cũng cứ phải liều. Hắn nhảy đại vào chiếc Ford đã đưa hắn đến, đóng ào cửa xe lại.
- Lao thẳng vào cái xe ca dưới phố kia - Hắn hét với người lái xe.
Chiếc Ford tăng tốc độ. Pizzu quay nhìn đằng sau: những người khác đang bám theo. Để đi đâu? Ba chục mét dưới kia, dưới chân dốc, chiếc xe ca chắn hết mất cả chiều ngang đường Stampfenbach. Ngay có lao lên vỉa hè, chiếc Ford cũng chẳng có cơ may nào húc đổ được chiếc xe ca nặng nề đó.
- Chết cháy mất rồi, - Amalfi nói. Hắn đã ngồi cạnh Pizzu.
Không đáp, Pizzu tháo chốt lựu đạn. Vừa lúc, hắn bị xô hất về Amalfi. Bánh xe rú rít. Chiếc xe quặt ngang thước thợ và rơi vào khoảng không, rung lắc ầm ầm.
- Bỏ lựu đạn ra. - Amalfi hét.
Bám được vào đâu thì bám nhưng cứ giữ quả lựu đạn đã tháo chốt trong tay. Pizzu tuyệt vọng vất nó qua cửa kính. Nó nổ ngay trước khi chạm đất.
Khi đi xuống đường Stampfenbach theo chiều dốc thì có một khe hẹp mở ra ở giữa hai khối nhà. Nó đổ vào một cầu thang dẫn xuống các bờ ke sông Limmat ở bên dưới đó hai chục mét. Pizzu hiểu rằng người tài xế đang cho chiếc Ford tụt xuống các cầu thang. Khi xuống tới bờ ke, nó ngoặt nghiêng hết sang trái rồi sang phải, để cuối cùng phóng ào qua cây cầu bắc ngang sông.
Pizzu ngạc nhiên nhận thấy năm xe biệt kích khác vẫn theo, cùng đi bằng chính con đường của xe hắn.
- Năm phút nữa, ta đến nhà máy sữa, - người tài xế bình thản nói.
Trung úy Blesh liếc mắt nhìn bao quát mức độ thảm họa. Một chiếc xe ca cảnh sát cháy ngang đường, những nhân viên mặc đồng phục đang tưới đẫm nó bằng những bình chống hỏa trong khi ba người cảnh sát khác cúi xuống hai hình người nằm soài trên mặt đất. Anh thắng gấp, dựng chồm xe lên trước chiếc xe ca bốc cháy rồi nhảy ra khỏi chiếc Opel.
- Các ông!
Một người cảnh sát quay lại.
- Tôi là trung úy Blesh? Kể cho tôi, nhanh lên.
- Chúng tôi có hai người bị thương nặng, trung úy. Lựu đạn!
- Cái đó sau! - Blesh bồn chồn giậm chân. - Bọn khốn kiếp đâu?
- Trung úy coi, - người cảnh sát nói, chỉ chỗ đầu cầu thang, nơi chiếc xe cuối cùng của toán biệt kích đã biến mất.
- Lên xe.
- Nhưng trung úy...
- Lên xe!
Anh đẩy người đó ngã dúi vào thành chiếc Opel rồi ngồi sau tay lái. Vừa chạy, người cảnh sát vừa bám xe lên theo anh. Blesh lao chiếc Opel về đằng trước chồm lên vỉa hè rồi lách qua cái khe hẹp khó lòng qua nổi nằm đằng sau chiếc xe ca và tòa nhà ven phố.
- Anh tên là gì? - Anh hỏi viên cảnh sát trong khi lao hết tốc độ xuống cái cầu thang.
- Thưa trung úy, Schindler...
- Cầm lấy vô tuyến! Gọi tất cả các xe cảnh sát! Gọi đến B.C.H...!
Schindler ngoan ngoãn nhắn lại các lệnh vừa mới nghe được vào trong chiếc micrô tháo ra khỏi bảng lái.
- Gọi tất cả các xe cảnh sát! Gọi BCH.
- BCH! - Một giọng mũi đáp lại.
- Giữ cho tôi cái micrô chết toi này ở trước miệng nào, - Blesh hét.
Schindler chìa micrô ra.
- Đột nhập phá hoại Ngân hàng Thương nghiệp Zurich. - Blesh nói. - Giữ liên lạc thường xuyên và phái viện binh đến chỗ tôi sắp chỉ cho anh...
- Rõ, trung úy.
- Bao nhiêu xe đã chuồn được? - Blesh hỏi Schindler.
Vài ba cái... không ít... Trung úy, tôi không rõ...
- Đồ ngu! Bao nhiêu đứa?
- Mười... hai mươi...?
- Đồ ngu!
- Xin lỗi, trung úy! - Cái giọng mũi lè nhè.
- Tôi không nói với anh. - Blesh gầm lên. - Ở đây...Tôi trông thấy một chiếc kìa... Schindler, trời đất! Micrô. Tôi ở đường Bảo Tàng... Tôi đi qua Hauptbannhof... Chúng có súng phun lửa!... - Blesh hét. Xe bị tôi đuổi theo... BMW màu đen... hay nước biển thẫm.
- Viện binh đã được báo, trung úy!
- Ba? Hai mươi? Một trăm? Thế nào Schindler, cục cứt! Dậy đi chứ. Bao nhiêu xe.
- Năm hay sáu, trung úy.
- Chiếc BMW sẽ đưa chúng ta tới chỗ những xe kia...
Anh tắt pha và hơi đi chậm lại để cho những người ngồi trong chiếc BMW không nhận ra anh theo họ.
- Cậu có súng không. Schindler?
- Có.
- Có, thưa trung úy! - Blesh sủa. - Đạn?
- Mười hai viên, thưa trung úy.
Chiếc BMW đi tới quảng trường Limmatt và rẽ phải.
- Schindler! Micrô... Xe bị theo đi hướng đường Cochaux...Có lựu đạn hả...
- Vâng, trung úy... Và một khẩu phun lửa...
- Bọn rác rưởi! Bọn rác rưởi. Micrô... Tôi đi vào đường Schaffhauser...
- Nghe rõ, trung úy... bốn chiếc ca đang theo trung úy, hai mươi tư người trên xe.
- Vũ khí?
- Súng xung phong Mauser, tiểu liên Stein...
- Tôi rẽ vào Hirschwiesen...
- Rõ, trung úy... tôi đang báo anh em...
- Kể đi, Schindler!
- Khi chúng tôi đến, trong ngân hàng đã bốc cháy...Có những người chạy ra và bắn súng phun lửa vào chúng tôi.
- Và trong lúc đó thì các anh đang chơi đánh bi?
- Chúng tôi có bắn trúng một thằng, trung úy.
- Tôi đến đường Winterhurer. Hướng chung, đông bắc Schwamendingen.
Năm phút sau, chiếc BMW lao vào đường Basserdorf.
Có một lúc nó rẽ trái và Blesh thấy mình đang ở trên một con đường tư nhân dẫn tới một khối những tòa nhà có tường cao vây kín. Chiếc BMW hình như nhào vào đó, được bức tường che hút mất. Blesh hãm xe, đi vào mô đất bên phải và ẩn sau một bụi cây nhỏ.
- Tóm được chúng rồi, Schindler. Cái nhà khỉ gì thế này?
- Sữa và bơ Thụy Sĩ, trung úy... Nó làm cả pho mát. Chị dâu tôi làm ở đây.
- Micrô... Lệnh cho tất cả các xe cảnh sát bao vây Sữa và Bơ Thụy Sĩ, đường Basserdorf, ra khỏi Zurich rẽ trái!
- Nghe rõ, trung úy. Các xe ca ở ngay sau trung úy... Tôi bảo họ ngay.
- Trời đất, lẹ lẹ lên. Tôi không một mình bao vây được đâu. Anh ném máy rồi nhảy ra khỏi xe.
Schindler lấy súng ra khỏi bao, chạy theo sau trung úy trên đám cỏ ướt. Họ đến trước bức tường. Vẳng đến tai họ tiếng máy nổ của những xe tải cỡ lớn đang được khởi động. Blesh lao vụt tới cánh cổng gỗ đồ sộ. Nó đóng chặt.
- Giúp tôi.
Schindler làm thang cho Blesh leo lên, thận trọng thò đầu vào. Cái mà anh trông thấy làm anh rụng rời.
Toàn bộ trách nhiệm trận đánh rơi lên đầu Vittorio Pizzu và Thomas Merta. Thất bại đã lù lù. Hai ông phó cũng biết như thế. Đến giờ kết toán, phải tìm ra xem, trong hai người, ai đã mắc phải sự vụng về nào. Lúc này nổi bật lên trên hết là sự nguy cấp của tình hình. Để đánh lạc hướng, sáu chiếc xe đi những ngả khác nhau đến nhà máy sữa. Theo người trong xe thì không cái nào đã bị phát hiện. Vittorio và Thomas nhảy bổ vào văn phòng tầng một để báo với Volpone và Gabelotti thất bại của mình.
Trong khi quay số, Pizzu càu nhàu.
- Muốn gì thì chúng cũng bị ta cho xơi một bữa tai tiếng rồi...
- A. Cậu nghĩ như thế hử? - Merta nổi đoá. - Mới là gãi ghẻ cái ngân hàng thôi. Lẽ ra phải phá tan tành, cho tới cả trần nhà. Ta mới làm tanh bành được chút ít ở gian sảnh. Nếu cậu nghe thôi thì tất cả đã cháy rụi.
- Nếu tớ nghe cậu thì tất cả đã tan thây hay tù mọp.
Moshe Yudelman khôn ngoan đã khuyên hai ông Don đừng có đặt chân trở lại biệt thự hay khách sạn đêm đó nữa, chừng nào các ông chưa biết được kết quả cùng hậu quả trận đánh.
- Sự thể có thể chuyển thành xấu, Italo... Chẳng biết thế nào được. Ta chớ nên coi thường cảnh sát địa phương.
Trong thời gian đó, Moshe đã liên hệ với Ottavio ở Milan để yêu cầu ông ta chuẩn bị cuộc trốn chạy nếu như xẩy ra cái gì đó bị trục trặc. Miếng đất Thụy Sĩ sẽ có thể bỗng chốc hóa ra nóng bỏng. Lúc đó họ không được ló mặt ra với thanh thiên bạch nhật nữa và phải rời cho thật mau xứ sở này. Ottavio đã ngay lập tức chỉ ra việc cần làm ông ta đã nghĩ tới trước cả Moshe.! Cũng chính là theo lời khuyên của Yudelman mà hai capo, ban tham mưu chất xám và các vệ sĩ đã đến tìm chỗ ẩn náu ở nhà một đứa Ines, nào đó, đứa con gái này Vittorio chưa nghe nói đến bao giờ. Vậy là nhà con bé Ines ấy có Bé Volpone, Ettore Gabelotti, Moshe Yudelman.
Bọn Carmine Crimello, Angelo Barba, Folco Morivà Pietro Bellinzona trông nom sự an ninh của họ.
Chuông điện thoại reo.
- Pizzu! - Pizzu nhấc máy, nói.
- Tôi đưa máy cho Don Volpone đây, - Tiếng Barba lễ độ đáp Vittorio ghi nhận chữ “Đôn” được viên cố vấn của gia đình đối địch thốt ra. Cây quyền trượng của Genco đã truyền sang tay Italo, Vittorio mơ hồ thấy tự hào là “capo” trẻ của mình đã được thừa nhận nhanh đến thế.
- Vittorio?
- Xấu, Padrone! Cảnh sát đã chờ chúng tôi. Có sứt mẻ.
- Cậu ở đâu?
- Ở nôi.
- Mục tiêu các cậu thế nào?
- Ồ một phần thôi! Ngay từ phút này thành phố sẽ bị lục soát kỹ? Padrone, ông hãy phới đi thôi, tình hình gay đấy!
- Madonaccia (69) ! - Thomas Merta ngắc ngắc nói. Bọn cớm ở dưới nhà kia.
Tiếng súng nổ ran lọt đến tai Vittorio.
- Porco Dio! Andate Via Padrone! Subito (70). Bọn cớm đến đít rồi.
- Vittorio! - Volpone hét lên.
Pizzu hạ máy, lao ra cửa sổ. Động cơ cái xe xitéc gầm gừ thành một tiếng gầm đáng sợ. Bọn đột nhập nhảy vọt ra từ sườn những xitéc có chứa khoang chúng vừa lách vào để ẩn. Từ bây giờ mọi cuộc mở đường máu đều là không tưởng rồi: một nửa tá xe ca cảnh sát đã nấp sau bức tường vây quanh. Bên trên nóc tường, Vittorio trông thấy những đèn pha quay ở đỉnh mui xe.
- Cảnh sát đây! - Một cái giọng được loa điện phóng đại, quang quác: - Tất cả hãy ra, tay giơ lên đầu hàng... Các anh bị bao vây rồi.
Pizzu mở cửa sổ, tháo chốt lựu đạn rồi lấy đà ném hết sức mạnh sang bên kia tường. Tiếng lựu đạn nổ át tiếng súng tự động bắn hàng tràng. Trong sân, lính của Giacomassi được các trợ thủ của Volpone và Gabelotti yểm trợ, đang lia đạn vào bức tường bao quanh, trên nóc tường đôi khi ló ra một cái mũ sắt cảnh sát.
Pizzu thấy một trong mấy chiếc xe bọc sắt của cảnh sát đang loay hoay đỗ đối diện với cổng xưởng sữa, rồi lùi lại khoảng một trăm mét: chúng sắp dùng nó húc đổ cổng.
Theo sau gót Thomas Merta, Vittorio nhào ra cầu thang.
Cuộc ẩu đả đã đến bước này thì không còn có chuyện để bị tóm nữa rồi. Tốt lắm thì cũng là tù chung thân, đó là cái án nhẹ hơn tất cả.
- Lối này! Aldo Amaphi kêu to.
Hắn hoa chân múa tay trong vầng khói những quả lựu đạn cay đang tràn ngập sân xưởng, trong cái mùi nồng nặc của các chế phẩm sữa và thuốc súng trộn lẫn vào nhau. Cánh cổng vỡ tung dưới sức húc của chiếc xe ca cảnh sát, nó đẩy đổ luôn chiếc xe xitéc đang chắn ngang cổng. Chiếc xe ca biến thành đuốc lửa sau khi phá bục thành xitéc làm ồng ộc chảy ra một làn sóng sữa đang làm ngập đi một phần thân hình những tên bị thương nằm lăn lóc trên sân.
Toán quân của hai gia đình Volpone, Gabelotti túm tụm lại sau cánh cổng, nơi có những kho sữa, bơ và pho mát.
Pizzu, Bruto, Merta, Ferro, Badaletto và Sabatini thở hổn hển vây quanh lấy Aldo Amalfi đang hét lên cái gì đó với một người của xưởng sữa.
- Nhanh! Hắn biết lối ra! Theo hắn.
Tất cả rút vào dãy lán kho mênh mông. Ở đó có những bể chứa đào sâu vào đất đựng được hàng trăm nghìn lít sữa. Cứ chạy được mươi mười lăm mét, một vài người trong đám lại quay mình lại, bắn hàng tràng làm chậm chân cảnh sát. Aldo Amalfi và Simeone Ferro, hai người rút sau cùng, thình lình bị cắt đứt bởi một cây súng phục ở bên ngoài, dưới mái nhà.
- Chạy qua! Chạy qua! - Amalfi hét với Pizzu đang do dự vượt qua cánh cửa nhỏ bằng sắt mà những người bạn của hắn, được người của xưởng sữa dẫn đi, vừa mới chui vào xong.
Pizzu tháo chốt quả lựu đạn cuối cùng, ném vào sau cái bể tròn bằng kim loại đựng sữa lên men, nơi cảnh sát đang nấp để tránh đạn của Simeone và Aldo bắn đến.
Quả lựu đạn làm sáng bừng những bức tường đầu nhà lán. Ba người mặc đồng phục bị ngã tụt vào trong bể. Vittorio đóng một cầu dao, hôm nay hắn đã học được cách sử dụng nó. Cái bể tròn có những người cảnh sát chìm ở trong bỗng sôi sùng sục dữ dội. Những chân vịt khổng lồ bắt đầu quay, nhanh dần lên, kéo theo đà vận động kinh hoàng như ác mộng của nó những người cảnh sát bị thương, nhào tung họ lên như những con ruồi trong một cái máy quay bơ quái dị.
Bruttore hung tợn nắm lấy cổ tay Vittorio Pizzu đang không nỡ bỏ rơi người trợ thủ. Hắn đẩy Pizzu vào trong lối hành lang dốc, xô gã đi giữa hai thành bê tông mà họ đang tụt xuống.
Được năm chục mét, đất trở lại bằng phẳng. Họ trông thấy chiếc xe đầu tiên.
Người nhân viên xưởng sữa ngồi ở tay lái. Cạnh hắn, Thomas Merta vung tay ra hiệu với họ và hét câu gì họ không nghe thấy. Ở đằng sau xe, là Carlo Badaletto và Frankie Sabatini. Trong chiếc xe kia, máy đã rú, là Joseph Dotto mắt trợn thao láo. Vittorio và Vicente lao vội vào đó. Hai chiếc xe bứt đi, lao như điên trong con đường ống ruột ngựa bằng đá. Chừng ba trăm mét sau, chúng đổ ra trước một tấm vách sắt, bấm vào một nút điện. Tấm vách kéo lên cao, để mở ra một lối đi.
- Tắt pha! - Hắn hét.
Hắn vòng xe qua một lán kho vắng tanh, những thanh sắt đỡ lấy một tấm máng bằng kính, qua đó ánh đêm lờ mờ lọt vào.
Một lần nữa, hắn xuống xe để mở rất thận trọng cửa lán. Tiếng súng vọng tới chỉ còn nghe âm âm, bởi khoảng cách. Lửa đám cháy bốc lên thành một chùm đỏ rực trời.
Người nhân viên, Enzo Cerignola, là dân Sicile, bạn riêng của Don Genco Volpone. Chính nhờ Enzo nài nỉ mà cách đây năm năm, Genco đã bằng lòng cho đào cái đường hầm đang giúp họ thoát khỏi cái chết này. Đằng sau cái mặt tiền đáng kính trọng và nổi tiếng của Sữa và Bơ Thụy Sĩ đã được tiến hành kín đáo những vụ buôn lậu của Công đoàn. Enzo Cerignola là người duy nhất có chiếc chìa khóa vào đường hầm bê tông. Hắn quay sang phía Joseph Dotto:
- Cậu theo tôi. Chỉ đụng đến pha của cậu khi nào tớ bật pha xe tớ lên. Nếu Chúa muốn, chúng ta sẽ vào được trong núi. Ottavio sẽ biết cách đưa được chúng ta qua biên giới.
Hắn leo lên xe và cho xe chạy. Tắt hết đèn, hai chiếc xe nhanh chóng biến vào đêm tối.
- Xông lên! - Simeone Ferro hét lên với Aldo Amalfi.
- Tớ yểm hộ cho cậu.
Aldo chạy rất nhanh, người cúi gập xuống, lượn chữ chi và thỉnh thoảng lại nhảy chồm lên như thỏ. Ngay tức khắc viên cảnh sát nấp dưới mái nhà nã liền một tràng Stein vào hắn. Amalfi cuộn tròn người lại, lăn mấy vòng đến ngồi xổm ở trước cánh cổng mà Vittorio, Merta và những người khác đã biến vào trong đó. Hắn tuyệt vọng nhận thấy bề mặt cánh cửa sắt nhẫn thín không hề có tay vặn.
Bất giác hắn quay lại phía viên cảnh sát đã bắn vào hắn.
Người này không còn mặt nữa. Thay vào đó là một quả cầu đẫm máu và lùng nhùng. Viên đạn của Simeone đã bắn vỡ toang đầu anh ta rồi. Lạ lùng, cái đầu lại tựa vào một miếng kính vẫn còn nguyên vẹn một cách kỳ quặc, miếng kính bị một thứ cháo vữa đỏ lòm vấy hất lên. Aldo đưa mắt tìm Simeone. Hắn nằm ngửa, tay dang ra, chân xoạc. Cách ngực hắn mười phân, khẩu Herstal bị rơi ra khỏi tay khi cái chết đến quật chớp choáng vào hắn. Lúc đó Aldo hiểu rằng mình đang là kẻ duy nhất chống lại tất cả và hắn nữa, hắn cũng chết nốt thôi.
Hắn bò sau bờ tường thấp che cho bể kim loại tròn đựng sữa. Để bảo vệ cho hắn, cái bờ này chỉ cấp được cái mép gờ chìa ra của nó cao chừng hai chục phân. Đạn rít bên tai hắn. Một số viên đập vào đá, một số khác văng thia lia trên mặt sữa với những tiếng chiu chíu lanh lảnh rồi đến nằm đánh đẹt vào bức tường trong cùng có cái cửa không qua được kia. Cảnh sát đã tiến lên được mười lăm mét, tương đương với đường kính mặt bể tròn. Aldo trông thấy trong đám họ một người tóc vàng không mặc đồng phục. Hắn bắn vào đó. Người này nằm vội xuống đất và bò về phía hắn, được bờ tường thấp của cái bể áp chót che cho.
- Đứng lên và đi ra, hai tay lên trời - Người đó gọi. - Tôi là trung úy Blesh. Đầu hàng, sẽ được khoan hồng.
Aldo nhả ba viên đạn vào người tóc vàng. Chúng làm bắn tung lên những mảnh bê tông của bờ tường thấp. Hắn thầm hỏi mình đang nằm dài lên trên cái mất dạy gì thế này. Bụng và ngực hắn ướt đầm. Hắn lùa tay xuống dưới người vẫn không rời mắt khỏi Blesh. Khi hắn kéo tay ra, nó nhơm nhớp những máu. Hắn hiểu đó là máu của chính mình, hắn đã bị thương nặng rồi. Hắn không dám đưa ngón tay sờ vào chỗ bị viên đạn xé toang ra.
Vì sợ cái vết thương không gọi được tên ra đó, hắn thình lình tung mình ra, mạnh như lò so và hung dữ trút hết kẹp đạn vào người mặc thường phục. Hắn được một loạt đạn dầy đặc đón lấy giữa đà chồm lên, loạt đạn này đã gần như phạt đứt người hắn ra làm đôi. Hắn nhào đầu vào trong bể tròn, làm dựng cột sữa.
- Stop! - Blesh hét, giơ tay về phía cảnh sát.
Anh lại gần cái bể tròn. Từ lúc còn bé, anh đã được người ta nhai nhải dạy bài tụng ca của các nhà thơ về chất hỗn hợp nổi tiếng của hoa huệ và hoa hồng này. Nhưng trong đời mình, trung úy Blesh chưa từng trông thấy một cái gì ghê tởm đến thế này.
Khi lên đến cái gò đất có cỏ mọc, Don Ettore bị chóng mặt. Tối như hũ nút. Ông chỉ biết mình đang đứng trên một đỉnh cao nhưng không trông thấy gì hết. Ở đằng trước cũng như ở đằng sau. Để leo lên, ông phải bám lấy tay Angelo Barba. Sau lưng ông là Folco Mori, một tên lính của Volpone với dáng điệu tâm ngẩm và lạnh lùng.
Có một lúc ông thoáng nghĩ là Volpone đã đưa ông đến đây để làm thịt. Ông lùa tay vào trong túi nắm lấy báng khẩu Lüger của ông, ngón tay trỏ đặt vào cò. Tiếng Italo nói vọng đến tai ông.
- Moshe, cậu còn chờ gì đây?
Luồng sáng một cây đèn pin chọc thủng đêm tối. Gần như ngay lập tức, một vệt ánh sáng bật lên trước mặt họ, cách khoảng một hay hai trăm mét ở bên phải: người ta trả lời tín hiệu.
- Ổn - Volpone nói.
Theo sau hắn, Don Ettore, Moshe Yudelman, Folco Mori, Pietro Bellinzona, Carmine Crimello và Angelo Barba tiếp tục đi trong đêm tối. Thỉnh thoảng Moshe hạ một ánh đèn vào chân mình để tránh những chỗ gồ ghế và hố rãnh...
Sau khi Vittorio Pizzu gọi dây nói, Volpone và Gabelotti đã có một cuộc trò chuyện ngắn ngủi. Rất lạnh lùng. Mấy ngày vừa qua, trong những quãng thời gian trống vắng, hy vọng đã làm cho họ sát gần nhau. Cố gắng chung bị thất bại lại chia cách họ một lần nữa, dứt khoát.
- Tôi có thể mang cậu đi với tôi, - Volpone đã nói như vậy. Nếu như ta đi ngay bây giờ.
Gabelotti ngập ngừng. Moshe Yudelman đã tiếp sức cho hai viên cố vấn của ông: Barba và Crimello, để thuyết phục ông rằng một cuộc rút lui tạm thời là cái giải pháp khôn ngoan nhất. Nhưng cuộc chạy trốn trong đêm nay không hấp dẫn ông mấy. Cuối cùng, họ đã len cả vào trong chiếc Mercedes 600 mà Mori lái theo lời chỉ đường của một tên biệt kích, được Ottavio cử đến đón hai ông cũng ở nhà “Ines”, mà sự chật chội đã làm tăng thêm lên tính chất gay gắt của quan hệ hai người. Ngay trước khi đi, Volpone đã gọi Enzo Priano, người quản lý cái trạm dịch vụ xe hơi đang giữ Homer Kloppe ở đó làm con tin.
- Enzo, không thả nó nhé! Chờ lệnh tớ.
Thất bại làm Volpone cay cú, hắn đã không hé môi trong khi chiếc Mercedes đi về phía biên giới Đức, tới cái cao nguyên mà Amédéo Morobbia, viên phi công chiếc MD315 và Giancarlo Ferrero, nhân viên vô tuyến điện cơ khí đang chờ họ.
Một tiếng khẽ cất lên trong bóng tối.
- Moshe?
- Đây! Yudelman trả lời.
- Các ông bao nhiêu người?
- Bảy.
- O K. Lên đi!
Lia nhanh ngọn đèn pin, Morobbia chỉ lối vào máy bay.
Don Ettore đứng sững lại trước những mảnh gỉ ăn phồng cái đống sắt vụn mà ông đọc thấy chữ MÁY BAY TRƯỜNG HỌC ở bên sườn nó.
Volpone, Yudelman, Barba và Mori rúc vào trong chiếc MD. Crimello cảm thấy cơn bi thảm Gabelotti đang trải, đã kín đáo đẩy người lão đi.
- Đường băng đâu? - Don Ettore hỏi, giọng nhợt nhạt.
- Lên đi, Padrone, lên, - Carmine lễ phép giục.
Pietro Bellinzona im lìm dưới chân cầu thang chờ mọi người quyết định.
- Tôi quên báo bác sĩ Mellon rồi. Tôi phải quay lại.
- Don Ettore... - Crimello nài nỉ.
Hiện ra Giancarlo Ferrero.
- Xin nhanh nhanh cho!
Carmine kín đáo vỗ vỗ vai Pietro. Bellinzona hiểu. Hắn đẩy Don Ettore về đằng trước, được viên cố vấn giúp thêm.
Ferrero chắc cũng đã đoán ra, liền cầm lấy tay Gabelotti và kéo ông vào máy bay.
- Đây, vào đây Hắn buộc thắt lưng an toàn vào quanh sườn Gabelotti.
- Ông đừng sợ... Nó bay được! Chưa đến một giờ ông đã ở Milan rồi. Chiếc kia, một cái Boeing đang chờ ông. Người ta đã thuê nó cho ông. Đến nơi là ông lại cất cánh luôn.
Pherêrô quay lại đóng cửa và vặn chốt an toàn.
- Amédéo - ổn!
Tiếng động cơ nổ rầm, Gabelotti co rúm người lại, hốt hoảng, phải cầu viện tới tất cả sức mạnh tinh thần ý chí ra để khỏi rú to lên nỗi kinh hoàng nằm sâu tận ruột gan mình. Ông cấu móng tay một cách hung bạo vào đùi.
Chiếc máy bay rung nẩy toàn thân lên rồi quay đầu đón hướng gió ngược. Không ai nói một câu trong khi nó tăng tốc độ trong đêm tối mịt mù. Rồi rời mặt đất, nó cất lên nặng nề và bay đi, theo hướng nam - tây nam.
(68) Nguyên tiếng Ý: Cứt đái thừa mứa ê hề.
(69) Nguyên văn tiếng Ý: Đức Mẹ.