Tìm Về Kỷ Niệm
Cuộc sống văn nghệ có muôn vàn hình thái. Mỗi thanh sắc, mỗi âm hưởng bắt gặp ngẫu nhiên trong không gian và thời gian đều có thể gợi lên bóng dáng đặc biệt của từng bản sắc nghệ sĩ. Bởi vì, ngoài những công trình sáng tác, người nghệ sĩ còn một tác phẩm khác cũng đáng kể không kém; đó là chính cuộc sống thực tại của nghệ sĩ, cuộc sống biến chuyển không ngừng với những tiết điệu riêng biệt, những động tác bất ngờ, những vang bóng linh động. Muốn hiểu thấu đáo, một bản sắc văn nghệ, thiết tưởng cũng nên theo dõi thêm “tác phẩm” sống động ấy, để ghi nhận từng vang bóng, hội ý từng động tác, lắng nghe từng tiết điệu.
Phải chăng như thế là đem cuộc đời nghệ sĩ đối chiếu với tác phẩm? Hay, nói một cách khác, như thế chính là hòa đồng tác phẩm với cuộc đời, để tìm ra một ý nghĩa duy nhất. Nhà làm sử văn học, nếu ghi chép được cái tinh tế vang bóng trung thành của những cuộc đời văn nghệ, có lẽ cũng dễ dàng hình dung được cả gương mặt thời đại cùng cái bối cảnh xã hội thời đó.
Nền trời văn nghệ nước nhà, khoảng 20 năm nay, đã trải qua bao nhiêu giông bão? Cái khí hậu thuần lương của thế hệ những Phan Mạnh Danh, Tản Đà, Ưng Bình Thúc Giạ Thị… bị xáo trộn trước nhất. Không khí văn nghệ dần dần trở nên thao thức hoang mang trước những biến cuộc xảy đến liên tiếp; đầu tiên là những điềm báo hiệu bất yên do cuộc Đệ Nhị Thế Chiến đưa lại. Trào lưu lãng mạn trong văn chương của lớp văn nghệ sĩ tiền chiến[1] cũng dần dần chuyển đến một trạng thái tinh thần “không tưởng” hơn, yếm thế hơn, bi quan hơn, để rồi trở nên một cơn “Bệnh Thời Đại” mỗi ngày mỗi thêm trầm trọng: cái bệnh “khao khát vô cùng và tuyệt đối” của những tâm hồn muốn thoát ly thực tại hoặc muốn tìm cứu cánh ở địa hạt siêu hình, như Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Phạm Hầu… như nhóm “Xuân Thu Nhã Tập”…
Cuộc đảo chánh tháng ba năm 1945 của quân đội Phù Tang, rồi tiếp liền đến những ngày khói lửa tơi bời trên khắp đất nước kéo dài suốt 9 năm trời và hiệp định Genève chia đôi giới tuyến, và cuộc di cư ào ạt cuốn đi một triệu sinh linh lìa bỏ miền Bắc vào Nam… Từng ấy biến cố! Bao nhiêu nỗi niềm! Bao nhiêu cuộc đời gồm đủ thăng trầm, hưng phế, chen lẫn cả nước mắt, nụ cười! Và bao nhiêu câu chuyện đời giăng mắc tình cờ theo những lớp tuồng ảo hoá - những truyện thực của thời đại hiện kim, nhiều khi tai nghe, mắt thấy mà ly kỳ chẳng khác giai thoại nghìn xưa!
Từng ấy biến cố tưởng chừng cũng đủ khiến cho 20 năm vừa qua trong lịch sử Văn Học Việt Nam trở nên những năm “nhiều truyện” nhất, và cũng điển hình nhất! Thời gian tuy chưa được một phần tư thế kỷ mà đã như bao nhiêu kiếp đổi đời! (trong truyện “Thần Tiên”, hình như mỗi lần dâu bể là 100 năm?) Hai mươi năm vừa qua của chúng ta đã có tới mấy lần tang thương biến cải, cho nên “hai mươi năm ấy biết bao nhiêu tình”…, và biết bao nhiêu thiên giai thoại nghiễm nhiên nhuộm màu cổ tích truyền kỳ!
Trong cuộc sống mới hôm nay, dù vẫn nhìn thẳng vào hiện tại và hướng về tương lai, nhưng chúng ta vẫn trầm ngâm nhớ lại cái quá khứ hoảng loạn kia, hoặc để tìm về một kỷ niệm thân mật hoặc để ôn lại một vài mẩu ký ức sắp sửa chìm vào quên lãng, nhất là để ghi lại cái vang bóng của một thời nhiều kinh nghiêm sống linh hoạt và thấm thía hơn bao giờ hết. Chính những kinh nghiệm sống của những ngày để qua đó có thể một phần nào tạo nên những chất liệu sống của chúng ta ngày nay,
Ở đây, chúng tôi sẽ thường xuyên gợi nhớ lại gương mặt của quá khứ trong khoảng 20 năm qua, để chúng ta có thêm ít nhiều tài liệu không tìm thấy trong sách báo thư viện.
Song hành với những bước đi theo dõi lớp người mới của nền văn nghệ hậu chiến, ở đây chúng tôi muốn mời độc giả trở về dạo những bước chân hoài niệm trong cái không khí tưởng như quá xa xôi mà vẫn rất gần của thời tiền chiến, cũng như trong không khí phiêu lưu đầy biến cố bất ngờ của thời chiến tranh.
Khoảng hai chục năm nay, cuộc sống văn nghệ của chúng ta còn chen lẫn bao nhiêu vang bóng của cõi chết! Tuy mỗi ngày chúng ta vẫn có thêm những người bạn mới, nhưng nhìn chung quanh, mỗi ngày cũng lại thấy mất dần đi một vài khuôn mặt quen thuộc. Có những người lặng lẽ đến với cuộc sống để rồi lại bình thản ra đi, không trống không kèn, không cả một lời ai điếu tiễn chân: Chúng ta chỉ bắt gặp linh hồn họ trong địa hạt giao cảm, hầu như không hề sánh bước cùng họ trên đường đời.
Nhưng nếu thời gian có hồi ảnh và nếu không gian có vọng thanh, thì hình bóng của họ tất đã ghi sâu vào trong ký ức vũ trụ. Cuộc đời vẫn trôi đi không ngừng. Những người đã ra đi sẽ không bao giờ trở lại. Nhưng chúng ta không muốn vô tình. Trong lúc cuộc đời rộn rịp kéo nhau qua khắp mọi nẻo đường, chúng ta muốn ngồi lại phút giây, trầm mặc nhìn về quá khứ, gợi nhớ lại ít nhiều kỷ niệm, để lại thấy gần gũi thêm một vài hình bóng của những người bạn văn nghệ đã một sớm một chiều cách biệt chúng ta.
Đó là những người không còn sống trong cuộc đời thực tại, nhưng vĩnh viễn sống trong thế giới của linh hồn, sống trường cửu trong cõi không hư vô cùng tận, và sống vĩnh viễn trong lòng chúng ta.
Đó là những người đã chính thức lìa bỏ cõi trần để lặng lẽ nhập vào cõi “Âm huyền mờ mịt”- nói theo Nguyễn Du, tác giả “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh”. Những người đó hoặc mới qua đời năm ngoái, năm kia, hoặc đã khuất bóng từ cách đây mươi mười lăm năm, hoặc nhiều hơn nữa - nhưng tôi không muốn gọi họ là “những người đã chết” mà trái lại, tôi nghĩ rằng. Chính khi lìa trần mới là lúc họ tìm thấy cuộc sống bất diệt. Tôi vẫn mặc nhiên coi họ là “những người không bao giờ chết”.
Khi còn sống trong cuộc đời thực tại, có thể thân thế họ chìm nổi bất trắc, có thể họ chỉ đạo qua cuộc đời phồn tạp như một người khách lạ, nhưng bây giờ, họ đã nằm yên dưới lòng đất thể xác họ đã dần dần tiêu tan, sự cách biệt hầu như không còn nữa, linh hồn họ, bình thản hơn và thanh tuyền hơn, hình như cũng gần chúng ta hơn.
Những văn nghệ sĩ đã khuất bong- “những người không bao giờ chết” đó mỗi người giờ đây chỉ còn là một ý niệm, mỗi tên tuổi đọc lên chĩ còn là một ý niệm, mỗi tên tuổi đọc lên chỉ còn là một vọng âm; mỗi gương mặt nhớ lại chỉ còn là một màu khói hương phảng phất. Nhưng hương khói kia bởi vì huyền ảo cho nên không bao giờ phải vọng âm kia, bởi vì vô ảnh vô hình cho nên không bao giờ tiêu tán; và ý niệm kia, bởi vì chỉ là một ý niệm, cho nên không hề bị hủy diệt.
Ai đã nói: “Danh vọng là vầng thái dương của người chết”? Nhưng đây là “những người không bao giờ chết”. Vậy thì nhớ hay quên, chúng ta cũng chẳng đem lại được cho họ danh vọng nhiều hay ít, và ở bên nầy hay bên kia thế giới, mỗi người cũng vẫn có riêng một vầng thái dương đời đời phát tiết ra ánh sáng. Chúng ta nhớ đến họ, nghĩa là chúng ta chỉ đốt lên một nén hương, khơi lên một ngọn lửa nhỏ bé, để làm ấm lại một khoảnh khắc giao tình.
“Những người không bao giờ chết” đó, có người an nhiên ra đi theo số mệnh: cũng có người kháng cự đến tận cùng với số mệnh; lại cũng có người bất ngờ bị số mệnh chợt tới đẩy xô đi, không kịp ngạc nhiên, không kịp gửi lại cho cuộc đời cả đến một khoé mắt, một nụ cười, hay một tiếng thở dài luyến tiếc.
Và cũng có những người đứng tuổi rồi mới lìa trần. Nhưng lại có những người yểu mệnh vội vàng giã từ cuộc sống ngay giữa tuổi thanh xuân. Tuy nhiên, dù “ra đi” trước hay sau, vội vàng hay thong thả, bình dị hay sóng gió, tất cả giờ đây cũng đều tận nhập vào cơn mộng lớn như nhau, tất cả đều đã trút bỏ được mọi phiền não nhân thế, để cùng bước tới địa hạt “vạn cảnh giai không”. Cũng như nhau, tất cả chỉ còn gặp gỡ chúng ta trên đường lối truyền cảm thuần khiết.
Cuộc sống xã hội hôm nay vắng bóng họ. Nhưng họ đã và sẽ có mặt mãi mãi trong cuộc sống tinh thần chung của dân tộc, trong cả cuộc sống văn nghệ riêng của mỗi người. Phải chăng hiện tại này ít nhiều cũng đã làm bằng những hình bóng của dĩ vãng?
Chưa tính xa hơn nữa, hãy kể trong khoảng hai chục năm gần đây, cuộc sống của chúng ta quả thực đã bao lần chen lẫn cùng bóng dáng cái chết. Đã bao nhiêu người đi mất, đã bao nhiêu cuộc đời dần dần chìm vào thiên cổ, đã bao nhiêu tên tuổi chỉ còn là những tiếng vọng giữa thinh không? Bao nhiêu khoé mắt, nụ cười của những người bạn chúng ta bao nhiêu tâm tình, ý nguyện của những người văn nghệ sĩ quen thuộc giờ đây chỉ còn là những kỷ niệm.
Chúng ta không khỏi xót xa khi nhắc tới những người bạn đã khuất bóng. Nhưng khi nghĩ rằng họ là “những người không bao giờ chết”, chúng ta cũng thấy đôi chút dịu lòng. Mối sầu mênh mang nghìn thuở của người mất lẫn người còn hẳn như cũng được phần nào an ủi.
Dẫu sao, tôi vẫn thường bâng khuâng đặt một giả thuyết - một giả thuyết nhưng chính là một hoài vọng - một hoài vọng bao giờ cũng chỉ là hoài vọng ngậm ngùi, bởi vì sở nguyện của lòng người dù thành khẩn, thiết tha đến mấy cũng không thể nào thắng nổi số mệnh vô tình.
Nếu từ hơn hai mươi năm nay, Thiên Cổ không sớm cướp của chúng ta đi một số bạn bè, thân hoặc sơ, và nếu hàng ngũ văn nghệ vẫn còn đủ mặt văn tinh (dù là một văn tinh mới mọc), nền trời văn nghệ xứ này sẽ còn rực rỡ sáng đẹp thêm chừng nào, và cuộc hội ngộ hôm nay của chúng ta sẽ còn đông vui, hào hứng bao nhiêu? Cuộc sinh hoạt tinh thần của đất nước này, đời sống anh hoa của dân tộc này sẽ còn giàu thêm bao nhiêu thanh sắc, nếu chúng ta không sớm mất những người bạn văn nghệ đáng lẽ chưa nên đi mất? Mái nhà thanh khí của chúng ta sẽ còn ấm cúng thêm biết chừng nào? Kho tàng văn học nước nhà sẽ phong phú thêm bao nhìéu, nếu cho tới hôm nay, hàng ngũ văn nghệ của chúng ta vẫn còn đủ những: Vũ Trọng Phụng, Lan Khai, Nguyễn Nhược Pháp, J. Leiba, Hàn Mạc Tử, Bích Khê, Phạm Hầu, Phạm Tú, Thâm Tâm, Vũ Trọng Can, Nguyễn Đức Chính, Khái Hưng. Trần Tiêu, Thạch Lam, Đặng Thế Phong, Trần Bình Lộc, Lê Trọng Quỹ (2), Lương Đức Thiệp, Nguyễn Dân Giám, Tô Ngọc Vân, Nam Cao, Ngô Tất Tổ, Kim Hà (3). Nhượng Tống, Quỳnh Dao(4), Phan Phong Linh, Quách Thoại (5)
Hãy chỉ xin kể tới những tên tuổi mà nhiều người từng quen thuộc, và riêng tôi đã có dịp ít nhiều quen biết. Bản danh sách tất nhiên còn nhiều thiếu sót, nhưng thực tình tôi cũng chẳng mong có một bản danh sách “đầy đủ” hơn. Những tên tuổi vừa kể, tuy chúng ta muốn gọi họ là “những người không bao giờ chết”, nhưng sự thực, tôi vẫn muốn họ đừng vội đi vào cõi bất diệt, để cuộc đời hôm nay còn nghe thấy tiếng nói ấm cúng của họ rung động nhiều lần nữa, và để cho những người sống ở cõi đời này được giàu thêm một chút cảm tình, một chút tin yêu, một chút hy vọng…
Nếu… ước vọng hão huyền của tôi không chỉ là ảo vọng, chắc chắn lịch sử văn học của chúng ta sẽ có nhiều hiện tượng bất ngờ kỳ thú.
Nhưng, từ hai chục năm trời nay, những người đã ra đi vẫn không bao giờ trở lại. Những Vũ Trọng Phụng, Lan Khai, Nguyễn Nhược Pháp, J. Leiba…, những Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Phạm Hầu, Phạm Tú…, những Thâm Tâm, Vũ Trọng Can, Nguyễn Đức Chính, Khái Hưng. Trần Tiêu, Thạch Lam… những Tô Ngọc Vân, Nam Cao, Phan Phong Linh. Quách Thoại v.v… đã chính thức nhập vào thế giới của “những người không bao giờ chết”, nghĩa là ít nhất đã phải một lần chết thực, theo cái nghĩa thê lương sầu thảm nhất của sự chết.
Chúng ta, những người đang sống hôm nay, những người chưa từng đặt bước vào cõi chết, và cũng chưa đi tới chặng đường tận cùng của cuộc sống, chúng ta sẽ cách biệt với họ biết chừng nào, nếu không còn lại đây một chút phận hồn trên vài trang sách cũ, một chút vang bóng trên vài nét bút xưa, một thoáng nghi dung qua nhiều kỷ niệm.
Đối với những người bạn văn nghệ đã khuất bóng, thân hoặc sơ, tôi đều cảm thấy một mối giao tình thắm thiết. Những linh hồn ở bên kia trần lụy hình như bao giờ cũng sẵn sàng dành cho chúng ta những cảm tình tri ngộ trân trọng và quý báu hơn cả những người bạn thâm giao ở cõi trần gian.
Bởi vậy ở đây, tôi chưa muốn nhắc tới những kỷ niệm riêng tây. Thay thế đôi lời niệm chung, đây là một bài thơ tôi xin chép lại, để chân thành gửi tặng tất cả những linh hồn bạn đã quá cố:
HOÀI NIỆM
Gửi người bạn ở bên kia trần lụy
Chiều mùa đông
Đốt ngọn lửa hồng,
Ta đọc tập thơ sầu, cười với bóng,
Khói thuốc xanh bay về hư không.
Trăng lên đầu phố vắng,
Ồ bóng ta say!
Bóng với ta cùng im lặng.
Cốc rượu ngọt uống cay nồng.
Bạn là người bạn chung tình,
Gần nhau không hẹn,
Lòng giữ nguyên hương hoa bình minh.
Bên đèn tâm sự,
Bạn với tôi như đôi hồn viễn xứ,
Đôi bóng phù du,
Không dưng mà thương nhớ,
Không đâu mà ngẩn ngơ.
Rủ bướm chim theo vào giấc ngủ,
Thả sầu trên con thuyền mây đưa.
Trời giăng sao tỏ,
Đêm mùa thu,
Cửa phòng tôi bỏ ngỏ,
Giấc mộng tôi hững hờ.
Ta biết giăng buồn ngày ta còn nhỏ
Ai biết ta buồn vì lòng ngây thơ?
Nhìn cuộc đời,
Tin rằng hạnh ngộ,
Bạn yêu giăng và tôi yêu gió,
Cười nụ cười đơn sơ.
Bạn với tôi xưa
Đứng bên hồ,
Nằm chung mộng,
Ái ân cùng thơ,
Đêm hoa, cành nguyệt,
Gió giăng xao động ngoài màn.
Bạn hát bài ca phóng đãng,
Cười lên trăng xanh, tôi dạo đàn.
Xuân đến giấc mơ đầy thiếu nữ,
Ta nằm ta ngủ,
Lệ đa tình chứa chan.
Ôi thời gian! Thời gian tình tự!
Mặc nỗi lòng người bi hoan.
Mộng cung tần
Xoay nghiêng mặt gối.
Ai cười? Ai nói? Ai xênh ca?
Lênh đênh nước biển trăng nhòa,
Những vì sao lạ đã sa xuống gần.
Trời buồn dáng điệu giai nhân,
Trái đất xoay vần – đứng lặng mà nghe
Rạt rào sóng nhạc pha lê,
Đêm tàn, núi đổ. Ra đi một mình!
Ra đi! Ra đi! Đời ngủ cả,
Vào cuộc luân chuyển ân cần của các hành tình.
Ôi những trời sao mùa hạ!
Về đâu? Về đâu? Những mảnh sao sa?
Về đâu nữa cả bóng hai ta
Lạc vào tục phố
Nhịp bước giang hồ ca?
Ánh hoa đêm hay tàn đèn rụng
Trong những ca lâu đầy huyền ảnh với đàn bà?
Lòng đã đi qua
Biết bao quán trọ là nhà,
Ta tiếc thương gì quê hương đã mất?
Giang sơn đây
Trong buổi chiều tà
Gọi hồn ta về cười ngây ngất,
Rung sắc hồng pha,
Xây Đô Kỳ Nghệ Thuật.
Ôi những phố trường sầu đi mất về đâu?
Ngày tàn, gió thổi,
Tôi mất tình yêu,
Tôi mất người yêu.
Bên sông hoa rụng từng chiều,
Lòng tôi không nói,
Thương vì trái đất cô liêu.
Tôi nói làm chi?
Anh nhớ làm gì?
Lòng tôi đây và lòng anh đó
Nghe câu truyện sầu dài sao chẳng điên mê?
Một buổi anh về,
Trúc gầy liễu rủ.
Ôi câu chuyện huyền vi
Trong lòng nấm mộ,
Tôi muốn nghe,
Và anh muốn nghe!
Ôi những bước u hồn về ảo phố!
Anh đã đi,
Và tôi sẽ đi!
Chú thích:
[1] Chữ ‘‘Tiền chiến’’ ở đây, xin nhận định theo cái hướng ‘‘chiến tranh Việt Pháp, trên toàn cõi Việt Nam’’ (từ 1949 đến Hiệp định Genève 1954)
(2) Kịch sĩ quen thuộc hồi tiền chiến (đã xuất bản tập thơ “Thực và Mộng”).
(3) Tác giả tiểu thuyết “Cái Nhà Gạch” (giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn 1930 1940) và tiểu thuyết “Tiếng Còi Nhà Máy” (Tân Việt xuất bản).
(4) Thi sĩ tiền chỉến “Tơ Trăng”, mất tích từ hồi khởi đầu chiến tranh, năm 1945.
(5) Chế Vũ, Nhất Linh, Vũ Xuân Tự, Lê Văn Trương…