← Quay lại trang sách

NHỮNG KỶ NIỆM (tt)

3. MEN XUÂN QUÊ NHÀ THẠCH LAM

Quê Thạch Lam ở Cẩm Giàng (Hải Dương). Mùa xuân năm đó (1942), mồng ba Tết, chúng tôi rủ nhau về họp mặt tại quê anh. Trong một ngôi nhà gạch kiểu ánh sáng, quang đãng mà ấm cúng, giữa một vườn cây nhiều hoa trắng, chúng tôi quây quần thù tạc. Ngày Tết ở miền quê, không khí gia đình hoà lẫn vào không khí thân hữu, tự nhiên đượm một phong vị vừa thân mật, vừa sảng khoái.

Bọn chúng tôi gồm có: cặp vợ chồng kịch sĩ và thi sĩ Song Kim-Thế Lữ, cố văn sĩ Khái Hưng, cố văn sĩ Trần Tiêu, ông Hoàn, quản lý Nhà xuất bản Đời Nay, anh bạn thơ Huyền Kiêu, bác sĩ kiêm nghệ sĩ Nguyễn Tường Bách, Thạch Lam và tôi.

Trong bọn thì tôi ít tuổi nhất, nên những người kia đổi ý gọi tôi là tiểu tử (Benjamin) để rồi lại gọi trệch đi là… tửu tử.

Bữa rượu đầu xuân năm ấy, phải nói rằng, chúng tôi đã uống với tất cả chất men đầy ngây ngất bốc lên từ từ chính tấm lòng xuân phơi phới của mình, hòa với cái say của hương khói trong nhà, của mưa bụi ngoài trời, của lá hoa thơm hiền dịu, của mùi thơm cây cỏ ngoài vườn…

Câu chuyện “văn nghệ” điển hình nhất của chúng tôi tất nhiên khởi sự chung quanh… Mâm cỗ Tết, có đủ các trân vị đặc biệt của Tết Việt Nam thuần tuý bánh chưng xanh, thịt mỡ, dưa hành, cá kho, giò thủ, thịt đông, cùng các món nấu cổ điển trình bầy rất hòa diệu. Bởi vì đây là cỗ Tết của gia đình tác giả “Hà Nội băm sáu phố phường” nhà văn đã nâng cao vấn đề ẩm thực lên thành một nghệ thuật tinh vi.

Chúng tôi đều biết cái khiếu thưởng thức món ăn của Thạch Lam rất tế nhị, và chúng tôi thường nói đùa rằng: “Thạch Lam ăn có nguyên tắc, uống có lập trường, và phê bình vấn đề ăn uống với một quan niệm siêu đẳng…”

Tôi không bao giờ quên cái dáng điệu ngồi rất đẹp của anh, khi nâng chén: cái đầu nghiêng nghiêng, cặp mắt lim dim, anh rung đùi nhắc lại một câu mà anh đã viết trong Hà Nội băm sáu phố phường: “Hãy bảo cho tôi biết bạn ăn uống ra sao, tôi sẻ nói cho bạn rõ bạn là hạng người nào”.

Chúng tôi đồng thanh lấy giọng ê a như ngâm thơ, và cùng gõ nhịp đũa xuống mâm, đọc to câu đó lên trước khi cạn chén, để rồi gật gù kết luận rằng đó là một câu “danh ngôn” đắc ý nhất của “danh sĩ” Thạch Lam.

Tôi cũng không quên được cái chất men rượu xuân năm ấy, sánh quyện đầu lưỡi, ngọt lừ mà tê lịm, có thể cứ uống mềm môi mà say ngất lúc nào không biết. Rượu đựng trong những nậm sử cổ, rót vào chén nhỏ men trắng như ngọc, càng tôn thêm phẩm chất và hương vị. Trong đời tôi, có lẽ chưa bao giờ được uống thứ rượu ngon như thế. Phải chăng vì rượu có thấm đượm cả cái men xuân kỳ diệu? Nhưng không phải tôi tự huyễn hoặc. Tất cả những người khác cũng đều công nhận là rượu ngon lắm: thuần chất hơn Mai Quế Lộ, say hơn Thanh Mai, thanh khiết hơn hết các thứ rượu cúc, rượu cẩm, và cố nhiên không nên so sánh với rượu Tây, vì đây là chất men hợp với huyết thống con người Đông Phương trầm mặc.

Uống rượu ngon thì biết là rượu ngon duy không ai đoán biết là rượu gì! Thạch Lam cười bí mật, gọi người nhà bưng cả vò rượu lớn ra, chỉ vào mảnh giấy hồng điều dán làm nhãn hiệu có viết bốn chữ nho “Đào Lê Mỹ Tửu”. Anh nghiêm trang giải thích:

- Đào Lê Mỹ Tửu là rượu ngon, đành rồi! Còn Đào không phải là quả Đào với quả Lê, mà còn nói lái lại, chỉ là Để Lao: Để Lao là nhà tù, ai mà không biết? Thứ rượu này dẫn người ta đến nhà tù dễ như bỡn, vậy chỉ là rượu ngang, rượu lậu thuế!

Chúng tôi cùng phá lên cười, và hô lớn:

- Đào Lê Mỹ Tửu Vạn tuế!

- Đả đảo Tây Đoan!

Nói đến Tây Đoan, lập tức mọi người nhớ ngay đến anh chàng thi sĩ tác giả Thơ Thơ là Xuân Diệu, mà kịch sĩ Đoàn Phú Tứ gọi là Xuân Rượu, vì hồi đó Diệu vừa thi đậu làm cò-mi Đoan, và Diệu đã được làng văn tặng cho hai câu thơ:

Đương làm thi sĩ hóa tây Đoan

Nửa mặt nhà thơ, nửa mặt quan…

Nói đến Tây Đoan, người ta còn truyền tụng với nhau câu chuyện sau đây: “Đêm giao thừa, Xuân Diệu và Huy Cận đã rủ nhau về ăn tất niên ở Cẩm Giàng, quê nhà Thạch Lam, nghĩa là cũng ở gian nhà mà chúng tôi đang họp mặt. Hai anh chàng Xuân và Huy đã cùng thức trắng đêm bên cạnh nồi bánh chưng, để rồi, khi bánh vừa luộc chín, một mình nhà thơ Xuân Diệu đã ăn sốt sột hết đúng… bốn cái bánh chưng lớn còn nóng hổi, bốn tấm bánh chưng lớn vừa bằng 4 viên gạch lá nem vuông vắn, mỗi chiều xấp xỉ 20 phân tây, bề dầy ít nhất cùng 3, 4 phân tây! Thành tích “ăn” đó có thể coi là kỷ lục xuất chúng ở vào cái thời đã khuất bóng cụ Lê Như Hổ.

Người ta kinh dị mà kể với nhau câu chuyện “Thi sĩ Xuân Diệu (họ Ngô) một mình ăn hết bốn tấm bánh chưng cỡ lớn, và ăn liền một mạch như voi cuốn, ăn thẳng thừng không ngẫm nghĩ, không suy tư, tất nhiên là không cần “ăn có lập trường” như Thạch Lam!”

Câu chuyện rất thực, không phóng đại mảy may. Chính Thạch Lam, xưa nay vẫn được tiếng là không nói phiếm bao giờ, cũng phải xác nhận là đúng. Anh chép miệng phê bình bằng một nửa câu danh ngôn bất hủ: “Hãy nói cho tôi biết bạn ăn uống ra sao…”. Và anh bỏ lửng câu nói để thay thế bằng một nụ cười đầy ý nghĩa.

Thạch Lam, cũng như Khái Hưng, cũng như Trần Tiêu, không sống lâu trên cõi đời để mà chứng kiến bao nhiêu lớp tuồng ảo hóa kỳ khôi xảy đến những năm sau này. Để mà có dịp nhận thấy rằng “Con người văn nhân thi sĩ mà ăn liền được một lúc bốn tấm bánh chưng lớn tất phải là con người đã mang sẵn cái chất… duy vật vô sản trong máu huyết”.

Quả nhiên không phải là chuyện dị thường! Có phải chăng, anh Thạch Lam, người nghệ sĩ giờ đây đã thoát hẳn mọi ràng buộc của vật thể, để chỉ còn… “ăn hương, ăn hoa” vô cùng thanh khiết?

4. CƠN SAY CHƯA TỈNH

Những cơn say như thế cứ liên miên tiếp diễn, suốt một năm trời. Không mấy ngày, từ căn nhà nhỏ bên bờ Hồ Tây, không vang lên những tiếng cười, những tiếng ngâm thơ, có khi cả tiếng đàn, nhịp phách cùng tiếng hát đào nương. Dạo ấy Nhất Linh chưa trốn sang Tàu, Khái Hưng chưa bị bắt đưa đi Vụ Bản, Thế Lữ vẫn còn ở cùng một khu, Trần Tiêu ở Hải Dương mỗi tháng thường lên Hà Nội vài ba chuyến, Nguyễn Tường Bách tuy sắp thi ra bác sĩ nhưng thực chất cũng nghệ sĩ không kém gì mấy ông anh ruột: Giữa những người đó, cuộc tụ họp nhau hàng ngày tại nhà Thạch Lam đã hầu thành một cái lệ cần thiết, từ khi nhóm Tự Lực Văn Đoàn nghỉ ra báo. Riêng Huyền Kiêu và tôi, gần Thạch Lam rồi thân với Thạch Lam giữa thời kỳ anh phải ngừng hoạt động về báo chí, mối giao dịch của chúng tôi cũng thuần khiết hơn, nhất là cùng có hoàn cảnh và thì giờ để kết chặt thêm những niềm cảm hòa điệu từ tâm linh thầm kín. Chúng tôi ăn, ngủ lại nhà Thạch Lam như ở gia đình mình. Hơn thế nữa, vì có khi ở chính gia đình mình còn không được… say sưa nghiêng ngả bằng.

Tới đây, tôi không thể không nhắc tới chị Thạch Lam [1], mà chúng tôi vẫn gọi là “Chị Lân” và thành thực quý mến như một bà chị ruột. Chị quả là một bậc hiền phụ, một người đàn bà Việt Nam điển hình, theo kiểu bà vợ Tú Xương:

“Nuôi đủ năm con với một chồng…”

Chính nhờ bàn tay nội trợ đảm đang của chị mà Thạch Lam mới sống được trọn vẹn cuộc đời nghệ sĩ phóng dật của mình. Và chị cũng phải thuần hậu lắm mới có thể chịu đựng nổi lũ “thiếu niên tửu quỷ” trong số bè bạn “vô công rỗi nghề” của chồng. Không những luôn luôn chị phải bận rộn làm thức ăn ngon, món nhắm tốt cho họ thưởng thức, mà tới khi họ say, chị còn phải lo… dọn đẹp, nếu họ nôn mửa, và chuẩn bị xoa dầu nóng, bôi vôi, nếu họ trúng gió. Hơn nữa, có nhiều khi chị còn phải lo cả cái việc phiền toái mà thông thường nhất ở đời là cái việc… chạy tiền, cái việc điều hòa ngân quỹ gia đình mà tác giả “Hà Nội băm sáu phố phường” có thể quên lãng! Chao ôi! với nếp sống thanh bạch của một nhà văn chỉ sống chuyên bằng ngồi bút tiểu thuyết -mặc dầu được tiếng có tài rất nhiều, nhưng sách lại bán rất ít - chị Thạch Lam ngày ấy hẳn đã từng phen phải hy sinh cực nhọc bao nhiêu để giữ cho chồng nguyên vẹn cái tiết tháo của một “phong lưu hàn sĩ”, để rồi lại gây được cả cái mỹ hiệu là tay “hào sĩ” một thời. Là vợ của một văn sĩ chưa hề nhận quan trước triều đình như Mạnh Thường Quân hay Bình Nguyên Quân thuở xưa, chị cũng vẫn tạo được cái tác phong “năm ngày một tiệc lớn, ba ngày một tiệc nhỏ”, và “mỗi ngày một… bữa rượu thường xuyên”, dù chỉ rau đậu sơ sơ, nhưng thịnh tình đôn hậu và không khí chân thành của ngôi nhà bé nhỏ ở đây là những yếu tổ mà Bình Nguyên Quân và Mạnh Thường Quân chưa dễ đã tạo nổi một cách hồn nhiên, không vụ lợi như chị!

Nếu sóng nước Hồ Tây đã cò lần hoà lẫn với rượu, thì tấm lòng biển rộng của chị Thạch Lam cũng phải thông cảm bao dung lắm với lũ người say chúng tôi, mà chính anh Thạch Lam là một kiện tướng. Thạch Lam say cùng chúng tôi cơn say dài, trước khi nhập vào Đại mộng. Như vậy, có nghĩa là anh mang theo cả cơn say sang thế giới bên kia, để không bao giờ tỉnh lại nữa. Có lẽ linh tính hay linh giác anh đã đoán thấy, cảm thấy trước cái ngày tịch diệt của thể chất- sự hủy thể không thể tránh được. Anh đi vào cơn say như ngao du tới những phương trời huyền mặc, hay đúng hơn, như về quê hương quen thuộc- quen thuộc nhưng không bao giờ hết kỳ bí.

Tôi tin rằng trong những cơn say, Thạch Lam đã bắt gặp được những cái gì lạ lắm. ít nhất, trong lúc say, người ta sống với cái thần trí phiêu diêu bên ngoài cả không gian và thời gian. Cho nên Thạch Lam không muốn tỉnh, vì những lúc tỉnh, anh nhìn thấy không gian thì tù hãm, thời gian ngắn quá, chẳng vô cùng. Anh lo sợ “thời gian đi mất” đó. Một năm trước khi chết, thái độ sống của anh là một thái độ sống hào phóng, khoáng đạt, vì chính ở trong nếp sống đó, anh đã thấy mình sống được “nhiều” hơn, “bao trùm” hơn. Sống như vậy, anh đã nắm giữ được phần nào cái “thời gian sắp mất”, và khi thời gian ấy đi mất hẳn, thì anh cũng không còn tiếc hận gì, vì anh đã từng hòa đồng vào nó rồi nghĩa là trong phút giây xuất thần nào đó, anh đã hòa mình vào vĩnh cửu.

Đừng vội bảo Thạch Lam hưởng lạc, cũng đừng luận rằng Thạch Lam muốn tạo lại nếp sống “tài tử” để nếm cái “phong vị hàn nho” như Nguyễn Công Trứ, khi thấy tác giả “Hà Nội băm sáu phố phường” thận trọng và tinh vi trong việc chọn từ miếng ăn, thức uống, từ món quà nhỏ mọn hương vị quê mùa của đất nước.

Không, bình thường thì Thạch Lam hồn nhiên hơn Nguyễn Công Trứ, và cũng không phiền toái như một Tản Đà trong nghệ thuật sống, tuy rằng theo Thạch Lam, muốn sống cho có nghệ thuật, tất nhiên không thể buông tuồng.

Nhưng, vào giai đoạn chót cuộc đời, thì cái phóng túng, cái buông thả của Thạch Lam là biểu thị của một thái độ, một triết lý sống phần nào có nhuốm màu sắc siêu hình và thần bí. Trước khi chết, chính Thạch Lam nhiều lúc thường nói với chúng tôi bằng một giọng bí mật:

- Những lúc say, thú vị thực! Vì lúc đó, giả có chết ngay cũng không biết mình chết…

Phải chăng vì thế mà căn nhà tranh bên Hồ Tây đầu làng Yên Phụ đã chứng kiến những “cơn say suốt sáng, trận cười thâu đêm”, trước khi tất cả chìm vào tịch mịch?

Sự thực, tất cả đã lắng vào tịch mịch vài ba tháng trước khi Thạch Lam lìa bỏ cõi đời.

Nhất Linh, sau một đêm “hiu hắt trăng khuya lạnh bốn bề”[2] (họp mặt lần cuối cùng với chúng tôi bên bàn rượu kề gốc liễu, tàng sáng bỗng ra đi biệt tích.

Khái Hưng bị bắt đưa đi Vụ Bản, Thế Lữ sợ liên can cũng lần trốn mất dạng. Huyền Kiêu về ở quê nhà tại Vân Đình. Bạn bè thân sơ không còn mấy lai vãng tới căn nhà “cửa trúc cài phên gió” nữa. Trong nhà quạnh vắng, chủ nhân cũng bắt đầu ngọa bệnh. Chỉ có Nguyễn Tường Bách là em ruột Thạch Lam, và tôi vốn ở gần thỉnh thỏang còn lui tới. Khi đó bệnh tình của anh có vẻ chưa nặng, chính Tường Bách bác sĩ cũng không ngờ!

Một hôm Thạch Lam bảo tôi:

- Các anh Tam và anh Lễ (Thế Lữ) phải lánh mặt cả, vì có báo động. Mật thám giăng lưới và rình mò quanh nhà này. Anh hãy tạm ngưng lui tới một thời gian, kẻo bị liên lụy.

Một thời gian qua. Buổi tối hôm ấy, ngồi bên cửa sổ nhìn ra ngoài trời về phía nhà Thạch Lam, tôi chợt nghe thấy một điệu nhạc văng vẳng, một điệu kèn clarinette. Rõ ràng tiếng kèn clarinette của Nhất Linh! Dạo trước, Nhất Linh vẫn thường đem kèn tới nhà Thạch Lam thổi chơi. Ngoài Nhất Linh, không có người nào khác biết thổi clarinetite ở khu này.

Tôi liền khoác áo, vùng xuống đường, rảo bước theo điệu nhạc, vòng ngõ vào làng Yên Phụ, tiến về phía nhà Thạch Lam. Tiếng kèn vẫn hắt hiu trầm bổng, đứt quãng. Tới gần nhà Thạch Lam, tiếng kèn chợt im bặt. Tôi ngỡ ngàng trong bóng tối. Nhưng đã tới trước cổng ngôi nhà có khóm tre xào xạc. Cổng không cài then. Tôi đẩy tấm cánh gỗ, bước vội vào căn nhà yên lặng, chỉ có một ngọn đèn dầu hỏa le lói. Và góc nhà, một chiếc giường, màn buông kín mít. Thạch Lam nằm trong màn đó, và bên mép giường, chị Thạch Lam ngồi lo âu. Chẳng có tiếng kèn clarinette nào vọng lên ở chỗ này. Và cũng chẳng làm gì có Nhất Linh ở đây! Có lẽ tôi đã bị lầm vì một ảo tưởng âm thanh nào đó.

Chị Thạch Lam cất tiếng:

- Chú sang chơi (chị vẫn gọi Huyền Kiêu và tôi là Chú Kiều và Chú Hùng). Anh ấy mới giở bệnh, nặng lắm!

Tôi vạch màn, vặn đèn sáng thêm, và cổ tôi bỗng như nghẹn lại: Thạch Lam nằm đây, nhưng trên sắc mặt trắng bạch của anh, Tôi tưởng như đã nhìn thấy bóng dáng tử thần.

Vậy mà anh còn cố gượng ngồi dậy, bắt tay tôi, nắm thật chặt, cặp mắt lim dim như vẫn còn nặng chĩu những cơn say ngày nào, miệng anh vẫn mỉm nụ cười khoan hòa như mọi khi. Nhưng rồi anh lại nằm xuống, không nói được lời nào, vì anh đang mệt.

Mấy hôm sau anh từ trần. Tôi đã thức suốt một đêm bên quan tài anh, để nghĩ rằng: Thạch Lam vẫn còn say chưa tỉnh, anh đã mang theo cả những hình ảnh tuyệt vời của cơn say dài bất tận về hư vô. Trong khi chúng tôi ở lại, chẳng còn chất men kỳ diệu nào để mà say, nên cứ phải dương mắt ra nhìn đời giữa lúc rất tỉnh - sự tỉnh táo vô vị của những con người đại bất hạnh.

Chú thích:

[1] Hiện ở Saigon

[2] trong bài thơ “Tương Biệt Dạ” của Huyền Kiêu)