TÌM VỀ NHỮNG MÙA XUÂN DĨ VÃNG
Mỗi mùa xuân về lại đem tới cho chúng ta bao nhiêu hy vọng tương lai, nhưng cũng trở lại cùng chúng ta bao nhiêu kỷ niệm dĩ vãng.
Tôi muốn nhắc tới vang bóng của những mùa xuân đã qua, những mùa xuân mà tới muốn gọi là “Xuân Văn nghệ”, bởi vì ở đó sẽ gợn nổi lên bóng dáng cùng gương mặt của một số người văn nghệ trước kia đã từng ghi đậm bản sắc của mình trong cuộc sống, nhưng hiện nay hoặc đã hoàn toàn cách mặt khuất lời, hoặc vẫn còn sống nhưng đã từ lâu xa cách chúng ta.
Tôi muốn kể lại một vài kỷ niệm về những người bạn văn nghệ đó, với lòng chân thành ghi lại một chút dư hương của những mùa xuân cũ thứ nhất đấy là những mùa xuân đẹp và đã chứa đựng một phần linh hồn của những con người tuy chỉ sống có một thời nhưng vẫn hoài vọng lưu dấu vết trong thời gian nghìn vạn thuở.
MỘT TÀI NĂNG SỚM TÀN
Không biết còn ai nhớ, cách đây gần 20 năm, xuất hiện tại một nhà xuất bản từ Nam ra thiết lập cơ sở tại Hà nội (nhà xuất bản Tân Việt), một cuốn tiểu thuyết mỏng manh, cuốn Tiếng Còi Nhà Máy của một tác giả mới: Kim Hà? Người ta đã ngạc nhiên vì những lời quảng cáo ngộ nghĩnh của nhà xuất bản.
“Một thiên tài vô học!
“Hãy đọc Tiếng Còi Nhà Máy để thưởng thức thiên tài của một nhà văn thất học từ nhỏ…”.
Nhà văn đó, Kim Hà, đã khiến làng văn nghệ để ý tới, không phải vì những lời quảng cáo “giật gân” kia, mà vì trước khi Tiếng Còi Nhà Máy ra chào đời, Kim Hà đã được giải thưởng văn chương Tự Lực Văn Đoàn với cuốn tiểu thuyết Cái Nhà Gạch. Năm đó (1940-1941), nhóm Tự Lực Văn Đoàn tuyên bố trên tuần báo Ngày Nay kết quả giải thưởng văn chương về tiểu thuyết, đã ấn định trao tặng giải nhì (vì không lấy giải nhất) cho cuốn Cái Nhà Gạch, một tác phẩm kỳ dị biểu lộ một văn tài thật hoang mang vô định, viết bởi một ngòi bút linh động đặc biệt, nhưng lạc lõng trước đường lối nghệ thuật và… bất chấp cả phương pháp hành văn.
Một ngày đầu xuân năm đó, tôi đã đi tìm Kim Hà, và tôi đã gặp anh ở một ngôi nhà nhỏ trên đường Thuỵ Khê, giữa cái xóm bình dân của thợ thuyền, phần nhiều là thợ nhà máy bia Ô-Men. Kim Hà cũng là một người thợ làm trong nhà máy đó từ ngày còn nhỏ tuổi.
Gặp anh, không thể ngờ rằng đó là một văn sĩ, lại là một văn sĩ vừa được một giải thưởng văn chương có giá trị. Tất cả người anh không tỏ một cái gì là văn chương, trừ đôi mắt. Đôi mắt láu máu, tinh quái như đôi mắt thỏ trên khuôn mặt ngầu, rỗ nhằng nhịt, có lẽ đó là tất cả cái “thần” của anh đã giúp anh nhìn vào cuộc sống, làm bật lên những tia sáng khác thường.
Kim Hà vẫn kéo dài cuộc sống tầm thường của đám dân cần lao- tầm thường nhưng không thiếu phong vị đậm đà- và anh vẫn thản nhiên lê đôi guốc mòn dạo qua cuộc đời làm bụi, với chiếc mũ phở trên đầu, chiếc áo tây cũ sờn vai… Kim Hà chưa lập gia đình riêng, nhưng trong tâm hồn chất phác mà phức tạp của anh không thiếu những bóng hình người mộng: trên thực tế, đó là những cô gái thợ nhà máy bia, những chị phu hồ, những cô gái bán hàng rong xinh xinh.… những chị em lao công dễ chung một quan niệm ái tình đại chúng với anh. Có tới ba bốn trái tim những có gái như thế đã từng hòa chung một nhịp với trái tim anh.
Kim Hà sống dưới mái gia đình nho nhỏ với một ông anh rất hiền và một bà chị dâu rất đảm.
Anh nhếch cặp môi mỏng, cười hồn nhiên, hân hoan nằm lấy tay người bạn mới đến tìm anh bằng cả hai bàn tay thật thà tri kỷ. Anh thẳng thắn thú nhận rằng anh rất ít học; rằng từ thuở nhỏ, anh chỉ đọc có một thứ báo. Nam Phong. Và anh đọc báo Nam Phong như người mộ đạo đọc kinh nhật tụng, Theo lời anh, tờ báo “cổ lỗ sĩ” đó đã giúp anh học được rất nhiều điều bổ ích cho sự viết văn.
Chẳng biết nghe ai nói, mà anh tò mò hỏi tôi:
- Có phải văn sĩ Maxime Gorki ở nước Nga ngày xưa “cũng” vô học không nhỉ? Nghe đồn ông thời trẻ “cũng” ma ga bông lắm phải không? Cho nên sau này ông mới viết tiểu thuyết lê-va-ga-bông? (Les vagabonds).
Không đợi tôi trả lời, anh gật gù tự giải đáp:
- Ờ! Người ta vô học, nhưng người ta học ở trường đời cũng có khối cái hay…
Và anh tuyên bố:
- Tôi chẳng có quan niệm gì về văn chương cả! Tôi viết văn như tôi nói chuyện. Và tôi viết ra tất cả những cái gì mà tôi đã sống, viết thẳng tuột một lèo không úp mở, không kiểu cách bóng gió. Từ truyện… trèo me trèo sấu, đến truyện… ăn cắp tiền bố mẹ để cho nhân tình! Tôi tả trắng cả cái cảm giác của anh đàn ông khi làm cái việc lý thú nhất ở trong bóng tối đối với đàn bà…
Kim Hà nói cũng thẳng tuột, không nghĩ ngợi. Và Kim Hà nói đúng như Kim Hà viết.
Thực vậy, Cái Nhà Gạch là cuộc đời của chính anh. Tôi đã đọc tập bản thảo chép lại của anh; chữ mực tím viết lệch lạc, sai hàng, rất nhiều lỗi chính tả. Nhưng cuốn truyện chứa chan sự sống, sự sống quằn quại, phức tạp, điên cuồng của những kiếp người hoang loạn, hỗn độn, nũng nịu trong cái lò nhân loại đau thương này.
Cái Nhà Gạch chưa xuất bản, và có lẽ cũng không bao giờ xuất bản nữa. Tiếng Còi Nhà Máy chỉ là một phần nhỏ của Cái Nhà Gạch. Kim Hà trích ra ở đó một đoạn, viết lại, làm thành một truyện riêng. Ở Tiếng Còi Nhà Máy, tuy sự xây dựng không được rộng lớn, nhưng người ta nhận thấy Kim Hà hành văn đã bắt đầu có quy củ, bút pháp đã bắt đầu điêu luyện, và phương pháp bổ cục đã khá vững chắc.
Tiếc thay! Tài năng đó không được trau dồi đầy đủ, không có hoàn cảnh nẩy nở thêm. Và đã sớm tàn như một điểm sao mong manh lìa ngôi.
Vì sau thời gian cho ra đời tác phẩm Tiếng Còi Nhà Máy, tác phẩm xuất bản đầu tiên và cuối cùng, Kim Hà chỉ còn viết thêm được một vài truyện ngắn đăng báo. Rồi sóng gió cuộc đời tràn đến lôi cuốn Kim Hà đi đâu không biết. Anh biệt tích từ đấy.
Mãi sau, bẩy năm sau nữa (khoảng 1948-1949), gặp người nhà anh, tôi hỏi thăm, mới biết rằng anh đã không còn là người của thế gian này: và được biết thêm: Kim Hà đã loạn thần kinh rồi phát điên, hơn một năm trời, trước khi chết.