← Quay lại trang sách

Phần 4 (Phần cuối)

Mấy tuần đầu khi tới Berlin tôi chuyên học ngoại ngữ và với một sự thích thú lạ lùng, tôi chú ý quan sát tất cả những gì xảy ra chung quanh. Nhưng nói chung, sự thích thú đó cũng nhanh chóng giảm đi. Cuối cùng tôi đã thấy tất cả các thành phố đều giống nhau. Đường phố ở Berlin tuy có rộng và sạch hơn ở Xtambun, có nhiều người tóc sáng hơn, song cũng chẳng có gì thật sự làm cho tôi phải kinh ngạc.

Châu Âu, trong trí tưởng tượng xưa kia của tôi giống như một đất nước huyền diệu thường thấy trong truyện cổ tích. Và tôi không sao hiểu nỗi cái thành phố thật này thua kém cái thành phố trong trí tưởng tượng của tôi ra sao. Cho đến bây giờ tôi vẫn không thể nào giải thích được vì sao mà trong cuộc sống thực tại chúng ta không thể nào gặp được những điều kỳ diệu vẫn thường quyến rũ ta trong những ngày còn thơ ấu.

Tôi hiểu rằng không nắm vững tiếng Đức thì không thể làm nỗi được việc gì và do đó tôi đã bắt đầu theo học một lớp tiếng Đức do một sĩ quan đã về hưu dạy. Trong thời gian Đại chiến thế giới ông đã từng ở Thổ Nhĩ Kỳ và nói được chút ít tiếng Thổ. Ngoài ra trong những lúc rãnh rỗi, bà chủ nhà trọ cũng thích nói chuyện với tôi và đó cũng là một sự hỗ trợ đắc lực trong việc thực hành những gì đã học được. Những người khách trọ khác cũng thích làm quen với một người Thổ và họ thường hỏi tôi những câu hỏi vớ vẩn. Cứ đến bữa ăn chiều là đám đông đủ loại ấy tụ tập lại với nhau. Tôi đã làm quen với bà Van Tiđeman - vợ góa một người Hà Lan, sau đó là ngài hầu tước Kamera - một nhà buôn người Bồ Đào Nha chuyên nhập khẩu cam từ quần đảo Kanaria và cuối cùng là với ông hầu tước già Đốpke.

Ông hầu tước Đốpke trước kia đã từng buôn bán ở Kamơrun nhưng sau đại chiến ông đã bỏ tất cả để trở về tổ quốc. Với số tiền kiếm được trong thời gian đó đủ để ông yên tâm sống tới cuối đời. Ban ngày ông tham dự các buổi họp, mít tinh. - Những trò này hồi đó ở Berlin ngày nào cũng có - Còn đến bữa chiều ông lại chia sẻ với chúng tôi những cảm xúc của mình. Thỉnh thoảng ông lại dẫn về một vài sĩ quan đã về hưu không công ăn việc làm và họ tranh luận với nhau hàng giờ về chính trị. Theo tôi hiểu thì họ cho rằng để cứu vãn nước Đức cần phải trao quyền lãnh đạo quốc gia vào tay một người có ý chí sắt thép như kiểu Bismác và phải gấp rút chuẩn bị cho cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai để phục thù sự bất công quá quắt đối với đất nước của họ.

Thỉnh thoảng có người trong số khách trọ ra đi thì người khác đến ở ngay. Tôi quen dần với thay đổi ấy như quen với cái chao đèn màu đỏ mắc trong nhà ăn tối mò, như quen với mùi bắp cải mà ngày nào họ cũng dọn cho chúng tôi ăn, cũng như quen với những cuộc tranh luận về chính trị của những người cùng bàn. Những cuộc tranh luận bất tận ấy đã làm tôi chán ngấy đến tận cổ! Người nào cũng muốn kê " đơn " nhằm cứu vãn nước Đức.

Và lẽ dĩ nhiên là những quan điểm ấy không phải xuất phát từ lợi ích thực sự của nước Đức mà chỉ là vì lợi ích cá nhân của họ. Một mụ đàn bà đứng tuổi bị phá sản vì nạn lạm phát thì mỉa mai các nhà quân sự ăn hại, đám sĩ quan thì chửi bới những người công nhân, và binh lính đã phản chiến không chịu tiếp tục tham gia chiến tranh, nhà buôn hàng thuộc địa thì phỉ báng hoàng đế là người có lỗi chính trong chuyện bại trận. Ngay cả người hầu gái, sáng sáng vẫn thường quét dọn trong phòng cũng muốn nói chuyện chính trị với tôi và cứ rảnh tay ra lúc nào là lại vồ ngay lấy tờ báo. Cô ta cũng có chính kiến và quan điểm riêng của mình và cương quyết bảo vệ quan điểm mình lắm. Những lúc hăng lên cô giơ cả nắm đấm ra trước mặt hăm dọa.

Thú thật tôi hầu như đã quên mất lý do mình đến Berlin. Tôi chỉ nhớ tới chuyện cần phải nắm vững kỹ thuật nấu xà phòng mỗi khi nhận được thư của cha. Tôi cố làm cho ông và cũng là cho bản thân tôi yên tâm bằng cách báo cho ông hay hiện nay tôi đang cố học tiếng Đức và sắp tới sẽ nghiên cứu việc nấu xà phòng một cách nghiêm túc. Ngày tháng cứ thế trôi qua đều đều, chẳng có gì đặc biệt. Tôi đã lang thang gần hết Berlin, nhiều lần vào xem vườn bách thú, dạo hết tất cả các Viện bảo tàng và phòng triển lãm. Mới mấy tháng mà thành phố khổng lồ ấy đã kịp làm cho tôi chán ngán. " Đấy, Châu Âu đấy! - Tôi chì chiết. - Có gì đặc biệt đâu cơ chứ? ". Đối với tôi Berlin bắt đầu trở thành một nơi buồn tẻ nhất thế giới.

Gần như đã thành thói quen, cứ sau bữa cơm trưa, tôi lại đi lang thang trên những đường phố nhộn nhịp và nhìn thấy xung quanh mình vô số là phụ nữ. Người thì dáng đi đạo mạo, nét mặt nghiêm chỉnh, kẻ khác lẵng nhẵng bám cánh tay người bạn trai, vừa đi vừa cười và ném xung quanh những cái nhìn thẫn thờ. Khá nhiều đàn ông mặc thường phục nhưng vẫn giữ được điệu bộ quân nhân.

Để khỏi trở thành một kẻ lừa dối dưới con mắt của cha, nhờ mấy bạn đồng hương giúp, tôi đã tìm đến một hãng sản xuất xà phòng loại tốt của một nhà tư bản độc quyền người Thụy Điển. Tôi được những người Đức làm việc trong hãng vui vẻ đón tiếp. Có lẽ vì họ vẫn chưa quên tình bạn chiến đấu với những người đồng hương của tôi. Tuy nhiên những bí mật trong công nghệ sản xuất họ lại không muốn tiết lộ cho tôi. Vì vậy mà tôi cũng chẳng biết thêm được điều gì mới. Có thể là họ không muốn tiết lộ những bí mật của hãng nhưng cũng có thể do họ thấy tôi không nhiệt tình lắm trong công việc nên họ cho rằng có làm việc với tôi cũng chỉ mất thời gian vô ích mà thôi. Tôi thôi không đến hãng sản xuất xà phòng nữa và tất nhiên là ở đó cũng chẳng ai quan tâm đến chuyện ấy. Tôi viết thư cho cha ngày càng thưa dần và vẫn cứ sống mà không hề suy nghĩ về mục đích việc tôi đến đây.

Hàng tuần vào ba buổi chiều tôi đến học thêm tiếng Đức ở nhà ông sĩ quan về hưu, còn ban ngày tôi thường lang thang trong các Viện bảo tàng và các phòng triển lãm. Tôi thường về nhà trọ rất muộn, còn cách nhà hàng trăm mét tôi đã ngửi thấy mùi bắp cải ngán ngẩm bay ra từ đó. Thời gian sau tôi đã tìm được cách làm cho đỡ buồn là đọc sách và ngày càng cảm thấy thích thú với công việc đó. Tôi thường nằm trong chăn, sách mở ra, cuốn từ điển dày cộm cũ kỹ để bên cạnh và thế là hàng giờ liền tôi đắm mình trong công việc thích thú đó. Có những lúc tôi không đủ kiên nhẫn lật tra từ điển mà chỉ bằng trực giác cố đoán ra ý nghĩa của câu văn. Trước mắt tôi mở ra một thế giới hoàn toàn mới lạ. Khác hẳn với những cuốn sách dịch hoặc bắt chước một cách gượng gạo mà tôi đã từng đọc hồi niên thiếu, những tác phẩm này hoàn toàn không hề nói về những anh hùng xuất chúng, không nói về những cuộc mạo hiểm kỳ lạ mà nói về những sự việc hết sức bình thường và những con người bình thường đang sống quanh tôi. Tôi cảm thấy trong đó có một phần bản thân mình. Khi đọc những tác phẩm ấy tôi đã bắt đầu để ý đến những vấn đề mà cho đến lúc đó tôi vẫn không hiểu hoặc không quan tâm đến. Bây giờ tôi cố gắng đi sâu vào tìm hiểu chúng. Trong số này những tác phẩm của các nhà văn Nga đã để lại cho tôi những ấn tượng sâu sắc hơn cả. Tôi đã đọc những tác phẩm của Turghênhép (1) một cách say mê không dứt ra được. Một trong những tác phẩm của ông đã làm cho tôi xúc động suốt mấy ngày liền. Nhân vật chính là Klara Milích đã đem lòng yêu một chàng sinh viên giản dị nhưng không hề thổ lộ điều ấy với ai. Rồi sau đó nàng đã hiến thân cho một tên ngốc đam mê nàng và chính điều ấy đã làm cho nàng đau khổ. Tôi thấy người con gái đáng thương ấy sao mà gần với tôi thế! Để dấu bớt những xúc cảm của mình nàng đã nhẫn tâm bóp chết những tình cảm tốt đẹp nhất, sâu sắc nhất trong tâm hồn bằng những nỗi ghen tuông, ngờ vực. Tôi cũng là một người như thế chăng?

Những bức tranh của các họa sĩ cổ điển mà tôi thường chiêm ngưỡng trong Viện bảo tàng đã làm cho cuộc sống của tôi trở nên phong phú và thú vị hơn. Tôi đứng hàng giờ trước những kiệt tác nghệ thuật trong Viện bảo tàng quốc gia để rồi sau đó mấy ngày liền tâm hồn tôi vẫn còn bị chi phối bởi những cảm xúc nhận được từ một bức chân dung hay phong cảnh nào đó.

Năm đầu tôi sống ở Đức như thế đấy. Vào một ngày tháng mười ảm đạm, ngoài trời mưa bay lất phất - Suốt đời tôi nhớ mãi cái ngày đó - tôi đang ngồi lần từng trang báo, bỗng thấy có bài bình luận về một triển lãm của những họa sĩ trẻ. Thú thật tôi chưa am hiểu lắm về nền nghệ thuật hiện đại. Tính kiểu cách, cầu kỳ thể hiện trên những bức tranh của họ cùng với tham vọng muốn đặt cái " Tôi " lên hàng đầu, làm cho tôi ghê tởm. Ngay cả bài báo đó tôi cũng không buồn đọc. Nhưng sau đó vài giờ, trong buổi dạo chơi thường lệ ngoài phố tôi tình cờ dừng bước trước tòa nhà nơi đang có cuộc triển lãm nói trên. Chẳng có việc gì cần làm thế là tôi quyết định rẽ vào phòng tranh. Tôi chậm rãi đi dọc theo các phòng trưng bày, lơ đãng lướt mắt qua những bức tranh treo trên tường.

Có nhiều bức tranh làm cho tôi tức cười: đầu gối và bả vai nhọn hoắt ; những cái đầu và những bộ ngực đồ sộ không cân đối ; tranh phong cảnh gì mà màu mè lòe loẹt giống như ghép bằng những mảnh giấy màu ; bình pha lê giống như những hòn gạch vỡ ; những bông hoa chết trông như chúng đã bị ép rất lâu trong những cuốn sách và cuối cùng là những bức chân dung kỳ quái vẽ những tên tội phạm hoặc một kẻ đồi bại nào đó... Tất cả những điều ấy lại làm cho người xem thích thú trong khi đáng lý ra cần phải phê phán những họa sĩ đã tốn bao công sức để đạt được cái kết quả như vậy. Nhưng làm sao lại có thể quở trách những kẻ không những đã cố tình không muốn hiểu lại còn cảm thấy hài lòng vì đã làm trò đùa cho người khác? Những kẻ như vậy không gây được trong lòng ta một chút tình cảm nào ngoài sự thương hại.

Bỗng nhiên tôi đứng lặng đi trước một bức tranh treo gần lối ra cửa phòng lớn. Cho đến bây giờ, mặc dù nhiều năm đã trôi qua nhưng tôi vẫn khó mà diễn tả cảm xúc của mình lúc ấy. Tôi chỉ còn nhớ tôi đã đứng như chôn chân trước bức chân dung một thiếu nữ trong chiếc áo choàng bằng lông thú. Người đi kẻ lại va vào tôi từ mọi phía nhưng tôi không đủ sức bước ra khỏi đó... Điều gì trong bức chân dung làm cho tôi kinh ngạc đến thế tôi không thể nào giải thích được. Tôi chỉ có thể nói rằng cho đến lúc ấy tôi chưa gặp một người phụ nữ nào như vậy. Trong người phụ nữ ấy có một nét gì đó rất đặc biệt, rất kiêu hãnh cộng với một chút hoang dã. Mặc dù ngay từ khoảnh khắc đầu tiên tôi đã hiểu rằng chưa bao giờ tôi gặp một khuôn mặt nào giống như vậy, thế mà tôi vẫn có cảm tưởng như khuôn mặt có cái gì đó quen quen. Da mặt trắng mịn, cặp lông mày đen, đôi mắt cũng đen như thế, còn mái tóc màu hạt dẻ sẫm. Những đường nét kỳ diệu có một không hai của bức tranh đã diễn tả được sự trong sáng của tâm hồn, sức mạnh của ý chí và một nỗi buồn sâu sắc. Người phụ nữ ấy rất gần gũi với tôi. Tôi đã đọc về nàng trên những trang sách từ khi còn là một chú bé bảy tuổi, tôi đã nhìn thấy bóng dáng của nàng trong trí tưởng tượng từ khi mới lên năm - Trong người thiếu nữ ấy có bóng dáng của Nikhan (2) trong tác phẩm của Halít Ziya, có Métgiure (3) của Veđjikhi, có người yêu của hiệp sĩ Buridan, có nàng Clêôpat của những tiểu thuyết lịch sử mà tôi đã được đọc, có Amine Hatun mẹ của Muhamét mà hình ảnh của người đàn bà đó đã khắc sâu vào trí óc non nớt của tôi từ những câu chuyện cổ tích lúc còn thơ ấu. Giống như là trong con người nàng hội tụ tất cả những hình ảnh đẹp đẽ nhất của những người phụ nữ mà tôi hằng yêu mến. Trên chân dung mặt nàng hơi nghiêng về bên trái, cổ trắng mịn nổi bật trên nền chiếc áo choàng bằng lông báo màu sẫm. Cặp mắt màu đen chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc, nhưng đồng thời trong đó phảng phất một nỗi buồn và sự mãn nguyện kín đáo.

Cái nhìn như muốn nói rằng với niềm hy vọng cuối cùng nàng đã cố công tìm kiếm cái mà nàng biết chắc là sẽ không tìm được. Ánh mắt như ném ra một lời thách thức: " Tôi biết là sẽ không bao giờ tìm thấy cái mà tôi cần tìm, nhưng có sao đâu, cứ mặc tôi! ". Làn môi đầy đặn và nhạy cảm của nàng cũng như nói lên điều ấy. Mí mắt của nàng hơi mọng ẩn dưới cặp lông mày thanh tú, mái tóc dài buông xõa trên áo choàng bằng lông báo, mũi nhỏ, thanh thanh, còn chiếc cằm nhọn hơi đưa về phía trước.

Tôi vội vã lật từng trang trong cuốn sổ danh mục với hy vọng sẽ biết thêm một vài điều gì đó về bức tranh. Ở trang gần cuối, góc dưới cùng, bên cạnh số thứ tự tôi đọc thấy hàng chữ: " Maria Puđer - Chân dung tự họa ". Ngoài bức chân dung ra nữ họa sĩ không bày thêm một bức nào khác và phải thừa nhận rằng điều ấy làm cho tôi vui mừng. Tôi sợ rằng những bức tranh khác của Maria Puđer sẽ kém hơn và như vậy sẽ làm giảm mất niềm thích thú ban đầu của tôi. Tôi lảng vảng trong phòng triển lãm đến tận chiều tối, thỉnh thoảng cố dứt ra khỏi bức chân dung đảo qua các phòng tranh khác, nhưng cuối cùng lại quay trở về chỗ cũ. Cứ mỗi lần như vậy tôi lại phát hiện thêm những điều mới lạ trên khuôn mặt người thanh nữ và có cảm tưởng rằng sức sống trong đó mỗi lúc một trở nên sinh động hơn. Đôi lúc tôi có cảm giác như người trong bức tranh đang bí mật quan sát tôi và cặp môi của nàng như đang mấp máy một điều gì đó.

Trong phòng tranh không còn một bóng người. Người bảo vệ to lớn đang lẩn quẩn trước cửa tỏ ý sốt ruột vì tôi vẫn chưa chịu về. Tôi đành phải cương quyết bước ra khỏi phòng triển lãm. Ngoài trời đang mưa. Khác với mọi ngày tôi không đi dạo nữa mà về thẳng nhà trọ. Lúc ấy tôi chỉ có một mong muốn duy nhất là nhanh chóng ăn cho xong bữa tối rồi sau đó trở về phòng mình. Tôi lặng lẽ ăn không bắt chuyện với ai. Bà chủ nhà trọ Phran Hópnhe (4) hỏi tôi hôm nay đi những đâu. Tôi trả lời qua quít:

- Cũng chẳng đi đâu cả. Lang thang thế thôi... À tôi có ghé phòng triển lãm của các họa sĩ hiện đại.

Ngay lập tức một cuộc tranh luận về nghệ thuật hiện đại nổ ra bên bàn ăn. Tranh thủ lúc ấy tôi lặng lẽ rút lui về phòng. Khi tôi cởi quần áo, một tờ báo từ trong túi áo rơi ra. Tôi bối rối nhặt lên và nhận ngay ra đó là tờ báo tôi đã mua ban sáng, trong đó có một bài nói về cuộc triển lãm. Tôi nhanh tay lật ra và tí nữa thì làm rách tờ báo. Tôi muốn biết ngay tất cả những gì có liên quan đến bức tranh kỳ diệu và tác giả của nó. Bản tính tôi vốn là một người chậm chạp, điềm đạm, vì vậy mà tôi cảm thấy ngạc nhiên cho sự nôn nóng của mình. Tôi đọc lướt qua phần đầu báo và chỉ đến phần giữa tôi mới bắt gặp tên của tác giả bức tranh mà tôi đã tìm thấy trong thư mục của triển lãm: " Maria Puđer ".

Bài báo nói dài dòng về quá trình sáng tác của nữ họa sĩ trẻ lần đầu tiên có tranh trưng bày trong triển lãm. Trong đó nói rõ nữ họa sĩ có xu hướng sáng tác theo phong cách cổ điển, có khả năng xuất sắc trong việc tự biểu hiện và hoàn toàn khác hẳn với nhiều họa sĩ đang chạy theo các trường phái khác nhau, thể hiện một cách lòe loẹt, mang tính trang trí hoặc cố tình nhấn mạnh những đặc điểm quái dị. Sau khi đã phân tích tỉ mỉ về bút pháp của nữ họa sĩ, nhà phê bình viết tiếp rằng, xét về mặt bố cục thì ngẫu nhiên bức tranh có nhiều nét giống với bức " Đức mẹ " của Anđơrel Đen Xartô (5). Và cuối cùng bằng một giọng bông đùa, tác giả bài báo chúc " Đức Mẹ trong chiếc áo choàng lông " đạt được nhiều thành tích hơn nữa. Sau đó nhà phê bình chuyển sang phân tích những tác phẩm của các họa sĩ khác.

Hôm sau việc đầu tiên của tôi là đi tìm phiên bản của bức tranh " Đức mẹ ". Tôi tìm thấy phiên bản đó trong tập anbom những tác phẩm của Xartô. Bức tranh in lại quá tồi vì vậy khó mà đánh giá cho thật chính xác về nó. Tuy nhiên không thể không đồng ý với kết luận cơ bản và chính xác của nhà phê bình được: Đức Mẹ của Xartô được miêu tả ở tư thế ngồi, trên tay bế một đứa bé. Phía bên phải Đức Mẹ là người đàn ông có râu, còn phía bên trái là một cậu thiếu niên. Khuôn mặt, tư thế và cái nhìn của Đức Mẹ làm cho tôi nhớ ngay đến bức chân dung tự họa của Maria Puđer. Người chủ hiệu sách đồng ý bán cho tôi phiên bản bức tranh. Mua xong, tôi đi ngay về nhà. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy Đức Mẹ được diễn tả dưới một hình thức như thế. Thông thường trong những bức tranh vẽ về Đức Mẹ trông bao giờ cũng có vẻ trinh bạch, còn cặp mắt khi nhìn vào đứa bé toát lên vẻ tự mãn: " Đấy, Chúa trời đã ban tặng cho ta một món quà như thế đó! ". Trong những bức tranh khác đôi khi Đức Mẹ Maria giống như một nàng hầu với một nụ cười ngỡ ngàng trên môi ngắm nhìn đứa bé, mà cha của nó thì bà ta không thể nói được là ai. Nhưng Đức Mẹ trong bức tranh của Xartô là một người đàn bà đã trưởng thành, biết suy nghĩ, biết nhìn nhận cuộc sống và có quyền nhìn nó với một nụ cười mai mỉa. Có cảm tưởng như Đức Mẹ đang nghĩ về một điều gì đó có liên quan tới chính bản thân mình trong khi cặp mắt của bà không nhìn vào các vị thánh thần đang đứng cạnh đấy, chẳng nhìn vào Đức Chúa hài đồng đang bế trên tay, cũng không thèm ngó lên bầu trời mà lại nhìn xuống đất.

Tôi đặt phiên bản bức tranh sang một bên, nhắm mắt lại và cố hình dung ra bức chân dung trong phòng triển lãm. Và cuối cùng chỉ lúc ấy tôi mới nhận ra người thanh nữ trong bức tranh đó có thật ở ngoài đời. Nếu như nữ họa sĩ tự vẽ mình có nghĩa là người thanh nữ kỳ diệu đó đang sống cạnh ta, đang ngắm nhìn mặt đất hoặc thế giới xung quanh bằng một cặp mắt đen lay láy, đang nói và đang cười bằng cặp môi đầy đặn xinh đẹp, có nghĩa là người đó cũng đang sống như mọi người khác. Như vậy là có thể gặp được nàng ở đâu đó... Ý nghĩ này làm cho tôi kinh hoàng. Mà không hoảng sợ sao được khi một kẻ ngờ nghệch trong tình yêu như tôi bỗng gặp một người thanh nữ kỳ lạ như thế?

Hai mươi tư năm cuộc đời của mình, tôi chưa một lần nếm trải một tình yêu thật sự. Cũng cần phải thú nhận rằng khi còn ở Khavran, cùng với mấy người bạn tôi cũng có đến một vài chỗ mua vui nhưng đến nay trong trí nhớ chỉ còn lại những hình ảnh mờ nhạt về một cuộc nhậu nhẹt lu bù. Bản tính rụt rè đã ngăn cản tôi đến đấy lần nữa. Trong những ngày hè oi bức nằm dưới bóng râm của rặng ô liu đôi khi tôi cũng mơ tưởng đến những người con gái. Trong trí tưởng tượng của tôi đó là những mẫu người không thể nào có được và những ước mơ ấy hoàn toàn xa vời với cuộc sống thực tại. Một thời gian khá lâu tôi yêu thầm nhớ trộm cô láng giềng Pharie. Trong trí tưởng tượng của mình chúng tôi đã trải qua những giây phút ngọt ngào hạnh phúc mà không hề e thẹn. Nhưng chỉ cần tình cờ gặp cô bé trên đường phố là tim tôi bỗng đập loạn xạ, mặt đỏ bừng lên, rồi cuối cùng bỏ chạy. Vào những ngày lễ Ramadan (6) chiều nào tôi cũng đứng nấp bên cánh cửa nhà cô để ngắm trộm ý trung nhân của mình cùng với bà mẹ và mấy người em gái tay xách đèn lồng đi đến giáo đường làm lễ. Nhưng khi cánh cửa vừa mở ra, thoáng nhìn thấy đám đàn bà con gái trong những áo lễ màu đen tôi liền vội quay mặt vào tường để họ không nhận ra mình.

Tôi luôn luôn tìm cách lảng tránh những cô gái mà tôi có cảm tình, lo sợ những cử chỉ hoặc ánh mắt của mình sẽ để lộ ra những tình cảm đó. Tính bẽn lẽn khó giải thích thường xuyên đè nặng trong lòng làm cho tôi trở thành kẻ bất hạnh nhất trên trái đất này. Biết vậy nhưng tôi không thể làm cách nào để thoát khỏi tình trạng ấy. Trong đời tôi chưa lần nào dám nhìn thẳng vào mắt một người phụ nữ, cho dù đó là người mẹ yêu quí của mình. Gần đây, đặc biệt là trong thời gian còn học ở Xtambun tôi đã cố khắc phục tính nhút nhát đó, cố gắng tự nhiên hơn trong khi tiếp xúc với các bạn gái. Nhưng chỉ cần nhận ra hoặc cảm thấy một cô bạn nào đó có vẻ hơi chú ý đến tôi là lập tức tất cả sự can đảm giả tạo liền biến mất và tôi lại trở nên vụng về, lúng túng. Xin đừng có nghĩ rằng tôi là kẻ đạo đức giả. Những lúc chỉ có một mình tôi lại mơ mộng đến những cuộc gặp gỡ lý thú mà ngay cả những kẻ tán gái sừng sỏ nhất cũng phải ghen tị. Lúc ấy tôi như cảm thấy cặp môi nóng bỏng, ngây ngất của người yêu đang chạm vào môi tôi. Và những cảm xúc như vậy mạnh hơn nhiều lần so với thực tế.

Bức chân dung người thanh nữ trong chiếc áo choàng lông ở phòng triển lãm thực sự làm rung động tôi. Tôi không dám mơ tưởng đến tình yêu của người thanh nữ tuyệt vời đó, cũng như không thể nghĩ rằng có thể gặp được nàng và ngồi cạnh nàng trong giây lát như ngồi cạnh một người bạn thân. Song ý muốn một lần nữa đến phòng triển lãm mỗi lúc một cháy bỏng trong lòng tôi. Tôi muốn ngắm lại bức tranh ấy với niềm tin chắc chắn rằng không một người nào biết được điều bí mật của mình. Không cưỡng lại được, cuối cùng tôi mặc áo bành tô và vội đến phòng triển lãm.

Và từ đó, cứ sau bữa ăn trưa tôi lại đến đấy, thong thả đi dọc theo những bức tường của phòng triển lãm như đang ngắm nghía những bức tranh nhưng chân thì bước thẳng đến chỗ " Đức Mẹ trong chiếc áo choàng lông ". Khi đã đến trước bức tranh tôi dừng lại và không rời mắt khỏi đó cho đến lúc phòng triển lãm đóng cửa. Lẽ dĩ nhiên là sự có mặt thường xuyên của tôi đã làm cho những người phục vụ và một số họa sĩ thường có mặt ở đó để ý. Cứ mỗi lần thấy tôi xuất hiện họ lại mỉm cười. Sau cùng tôi không buồn đóng kịch nữa. Bỏ qua những bức tranh khác tôi đi thẳng một mạch, đến trước " Đức Mẹ " của mình và chỉ thỉnh thoảng mới nhìn sang chỗ khác cho khỏi mỏi mắt.

Thái độ của tôi tất nhiên càng gây tò mò cho mọi người. Thế rồi có lần một phụ nữ còn trẻ đến gần chỗ tôi đứng. Hình như đấy là một họa sĩ vì đã mấy lần tôi thấy cô ta tranh luận sôi nổi với những họa sĩ khác ngay trong phòng triển lãm. Rất dễ nhận ra họ trong đám đông vì họ để tóc dài, mặc com lê đen đeo caravát lớn.

- Chắc là ông thích bức tranh này lắm? - Cô gái hỏi. - Ngày nào cũng thấy ông đến đây ngắm.

Tôi vội nhìn ngay xuống đất. Giọng nói suồng sã của người thanh nữ có đôi chút châm biếm làm cho tôi không có cảm tình với cô. Cô mặc váy ngắn để lộ cặp chân dài, cân đối trong lớp tất mỏng. Đôi giày mũi dài bóng lộn lấp lóa dưới ánh sáng, cặp mông hơi lắc lư tưởng như có một lượn sóng đang chạy dọc người cô. Tôi nghĩ cô ta sẽ chưa chịu đi nếu tôi chưa trả lời.

Tôi đành ấp úng:

- Vâng, bức tranh tuyệt thật...

Rồi sau đó không hiểu tại sao tôi lại buột miệng nói dối để biện bạch cho hành vi kỳ quặc của mình:

- Người đàn bà trong tranh này rất giống mẹ tôi...

- Chính vì vậy mà ông cứ đứng mãi trước bức tranh này hàng giờ liền?

- Vâng.

- Mẹ của ông mất rồi chăng?

- Không.

Người thanh nữ chăm chú nhìn tôi như chờ đợi những câu trả lời cụ thể hơn. Và lúc ấy vẫn không ngẩng đầu lên tôi nói tiếp:

- Mẹ tôi ở xa đây lắm...

- Ở đâu thế?

- Ở Thổ Nhĩ Kỳ.

- Vâng.

- Tôi cũng đoán ông là người nước ngoài! - Với một nụ cười thoáng qua, cô gái ngồi xuống cạnh tôi, hai chân bắt chéo lên nhau, váy ngắn bị kéo lên quá đầu gối. Và thế là như mọi lần tôi lại đỏ mặt... Vẻ lúng túng của tôi có lẽ còn làm cho cô ta thú vị hơn.

- Thế ông không có ảnh của cụ à? Cô ta lại nói tiếp.

Tôi thấy khó chịu vì cô quấy rầy tôi. Tôi nghĩ rằng cô ta cố tình nhạo báng tôi. Hơn thế nữa tôi để ý thấy những cái nhìn châm chọc của đám họa sĩ đứng gần đấy hướng về phía chúng tôi.

- Tất nhiên là có. - Tôi trả lời miễn cưỡng. - Nhưng chuyện ấy có liên quan gì đến đây?

- Vậy sao, không có liên quan gì à?

Cô gái hỏi lại một cách nghiêm túc. Rồi bỗng nhiên cô ta cười phá lên. Thấy tôi định đứng lên, cô ta vội nói:

- Xin ông đừng phiền lòng. Tôi đi ngay bây giờ đây, ông cứ việc ở lại với mẹ của mình.

Cô đứng dậy, nhưng mới đi được vài bước bỗng quay lại hỏi bằng một giọng chân thật khác hẳn với lúc nãy và tôi có cảm tưởng như trong giọng nói có đượm đôi chút buồn rầu:

- Có đúng là ông muốn có một người mẹ như thế không?

- Rất muốn!

- Thế đấy... - Cô nói khẽ và vội bước ra phía cửa. Cho đến lúc này tôi mới dám ngước mắt lên... Mái tóc của cô gái dập dềnh theo những bước chân còn hai tay thọc sâu trong túi áo khoác ép chặp hai bên hông.

Chính tôi cũng không hiểu tại sao tôi lại nói dối cô ở câu cuối cùng ấy. Vậy là tôi đã nói dối một cách ngốc nghếch và mù quáng. Tôi như người dẫm phải lửa nhảy phắt ra ngoài đường, cố tránh không nhìn ai.

Trong lòng tôi bỗng trào lên một cảm giác kỳ lạ, giống như tâm trạng của một kẻ vừa mới rời khỏi đoàn tàu, bỏ lại người bạn đồng hành tâm đầu ý hợp vừa mới làm quen. Tôi sẽ không bao giờ dám bước chân đến phòng triển lãm này một lần nữa. Con người không bao giờ muốn hiểu nhau và thế là họ đã cướp đi của tôi niềm hạnh phúc nhỏ bé ấy.

Trên đường về nhà trọ tôi kinh hoàng nghĩ đến việc lại phải tiếp tục cuộc sống vô vị như trước, trong bữa ăn lại nghe những phương án thô lậu nhằm cứu vãn nước Đức, nghe những lời than phiền về sự đắt đỏ của vật giá, nạn lạm phát tăng vọt, hoặc phải giam mình trong bốn bức tường đọc những truyện ngắn của Turghênhép, của Theođor Storm (7). Đến bây giờ tôi mới nhận ra rằng trong hai tuần gần đây cuộc sống của tôi như đã mang một ý nghĩa khác. Trong bóng tối trống rỗng u uất, bỗng như bừng lên một tia sáng yếu ớt của hy vọng - Cái tia sáng mà hầu như tôi còn chưa dám tin là có thật, bất ngờ bùng lên rồi lại bất ngờ biến mất. Đến bây giờ tôi mới hiểu được tôi đã mất những gì. Ngay từ những ngày còn thơ ấu - dù cho lúc ấy tôi còn chưa ý thức - tôi đã cố không tìm kiếm một con người, một con người duy nhất đối với tôi. Và chính điều đó đã làm tôi xa lánh những người khác. Bức chân dung " Đức Mẹ " đã làm cho tôi tin rằng tôi sẽ tìm thấy một người như thế và hơn nữa tôi biết rằng người ấy đang sống gần đâu đây. Đối với tôi mất đi niềm tin ấy cũng có nghĩa như là chết. Nỗi thất vọng của tôi thật vô tận! Tôi lại trở về sống một cách cô đơn, biệt lập hơn trước. Thỉnh thoảng tôi đã nghĩ đến chuyện hay là viết thư cho cha và xin trở về tổ quốc chăng? Nhưng tôi sẽ trả lời cha tôi ra sao nếu như ông hỏi: " Thế nào, mày đã học được những gì ở Châu Âu? ". Không được, cần phải ở lại thêm vài tháng nữa để học cho được nghề nấu xà phòng. Tôi lại tiếp tục đến nhà máy đều hơn, bất chấp sự đón tiếp lạnh nhạt của mọi người. Quyển sổ ghi chép của tôi đã đầy những công thức pha chế và tôi đã bắt đầu nghiên cứu những tài liệu về kỹ thuật sản xuất xà phòng một cách nghiêm túc hơn.

Phran Tiđeman ngày càng có vẻ quan tâm đến tôi. Khi thấy tôi say mê đọc sách chị ta liền mang cho tôi những cuốn sách thiếu nhi mà chị mua cho cậu con trai mười tuổi của chị đang học ở trường nội trú. Thỉnh thoảng sau bữa cơm chiều, với một lý do vớ vẩn nào đó chị ta thường ghé vào phòng tôi để tán chuyện. Chị ta thường căn vặn tôi về việc tôi có hay tán tỉnh những cô gái người Đức ở đây không? Và khi tôi trả lời là không, chị ta ngờ vực mỉm cười nhìn tôi rồi dứ dứ ngón tay: " Anh nói thế thì tôi biết thế thôi ". Rồi có lần sau bữa ăn trưa Phran Tiđeman rủ tôi đi dạo và trên đường quay về chị ta đã lôi tôi ghé vào một quán bia. Chúng tôi ngồi ở đó cho đến tận khuya. Mặc dù thỉnh thoảng tôi cũng tự cho phép mình uống chút ít nhưng chưa có lần nào tôi uống nhiều như hôm đó. Đầu nhức như búa bổ, tôi không thể làm chủ được bản thân mình nữa bèn gục đầu vào bộ ngực đồ sộ của Phran Tiđeman. Lúc tỉnh dậy tôi thấy người quả phụ có vẻ đau lòng xót ruột đang lau mặt cho tôi bằng một chiếc khăn tay. Tôi đòi về nhà ngay. Phran Tiđeman không cho tôi thanh toán, chị ta tự trả tiền lấy. Khi ra đến ngoài đường tôi thấy Phran Tiđeman bước đi còn vững hơn tôi. Chị khoác lấy tay tôi và hai người chệnh choạng bước đi, thỉnh thoảng lại va phải những người đi đường. Lúc ấy đã gần nửa đêm, đường phố đã thưa thớt người đi lại. Mỗi lần qua đường Phran Tiđeman lùi lại phía sau một chút và để cho khỏi ngã, chị ta bám lấy cổ tôi và đè cả thân hình cao to vào người tôi. Mặc dù vẫn có thể tự đi được bình thường song Phran Tiđeman không hề có ý định bỏ tôi ra mà lại càng ôm chặt lấy tôi hơn nữa. Có thể do men rượu hoặc vì một lý do nào khác mà tôi hết cả rụt rè, mạnh bạo hơn. Tôi ôm chặt lấy chị ta và người đàn bà góa ba mươi tuổi ấy tranh thủ áp chặt cặp môi của mình vào môi tôi. Hơi thở của chị ta như muốn đốt cháy tôi thành tro bụi và dục vọng mãnh liệt của chị truyền sang tôi như một hương vị ngọt ngào khó tả. Những người qua đường mỉm cười giễu cợt chúc chúng tôi một đêm hạnh phúc.

Bỗng nhiên đúng lúc ấy, dưới ánh sáng ngọn đèn đường, tôi nhìn thấy một người đàn bà còn trẻ cách đấy khoảng chục bước. Trống ngực tôi đánh thình thịch vì nỗi xúc động không giải thích nổi. Phran Tiđeman lại nhìn nhận sự xúc động ấy theo cách của mình vì vậy chị ta lại càng ôm chặt lấy tôi hơn và phủ lên đầu, lên mặt tôi những cái hôn nóng bỏng. Tôi cố sức thoát ra khỏi vòng tay của Phran Tiđeman để nhìn cho rõ hơn người thanh nữ đang đi gần lại phía chúng tôi. Đó chính là nàng! Khuôn mặt người thanh nữ lướt qua trong một giây ngắn ngủi và từ trong tiềm thức mê muội một tia chớp bỗng lóa lên, những ý nghĩ trở nên sáng rõ. Đó chính là người thanh nữ có cặp mắt màu đen trong chiếc áo choàng bằng lông báo sang trọng - " Đức Mẹ "! Cô bước đi với dáng mệt mỏi, buồn rầu quen thuộc của mình và có lẽ không chú ý gì đến xung quanh. Ánh mắt của chúng tôi bỗng gặp nhau. Và trong cặp mắt của cô thoáng qua một sự ngạc nhiên rồi sau đó được thay bằng một cái nhìn giễu cợt. Tôi co rúm người lại như vừa bị quất một roi. Mặc dù rất say nhưng tôi đã hiểu ngay được tấn bi kịch của cuộc gặp gỡ cùng với bản án cay nghiệt trong nụ cười mai mỉa của cô. Cuối cùng tôi đã thoát khỏi vòng tay cứng rắn của Phran Tiđeman và đâm bổ theo " Đức Mẹ ". Tôi không hiểu mình làm thế để làm gì, sẽ nói với nàng ra sao? Chạy đến góc phố tôi dừng lại. Bóng dáng của " Đức Mẹ " đã biến mất. Tôi đứng như vậy trong vài phút, nhìn khắp chung quanh, không một bóng người qua lại. Và ngay lúc ấy, như từ dưới đất chui lên, Phran Tiđeman lại xuất hiện lù lù trước mặt.

- Có chuyện gì thế? Anh làm sao vậy? - Chị ta vừa hỏi vừa kẹp chặt lấy tay tôi kéo trở lại.

Trên đường về lúc thì chị ta ôm chặt lấy tôi, lúc thì áp sát vào người nhưng bây giờ hơi thở nóng hổi của chị ta chỉ làm cho tôi khó chịu. Tuy nhiên tôi không có can đảm chống lại những cử chỉ vuốt ve đó, nhưng cũng không thể bỏ chạy được vì tôi biết chắc rằng chưa chạy được mươi buớc chị chàng sẽ đuổi kịp và tóm ngay được tôi. Tôi sẽ không dấu diếm mà nói thật rằng cuộc gặp gỡ với " Đức mẹ " đã làm đảo lộn cuộc sống của tôi. Khi đã tỉnh lại tôi cố gắng tập trung suy nghĩ về những điều vừa mới xảy ra. Trước mắt tôi vẫn như hiện lên cặp mắt của người thanh nữ mới gặp. Nhưng bây giờ thì chính tôi cũng không thể nào hiểu nỗi có đúng là tôi đã nhìn thấy một người như vậy không hay đó chỉ là ảo ảnh trong lúc say rượu. Càng nghĩ về điều ấy tôi lại càng tin rằng đó chỉ là ảo ảnh - kết quả của những cái hôn và những cử chỉ ve vuốt của Phran Tiđeman mà thôi. Tôi muốn chạy nhanh về nhà, ngủ một giấc để quên đi tất cả. Nhưng người đàn bà góa chưa có ý định thả tôi ra. Chị ta càng ôm chặt lấy tôi hơn và sự âu yếm, vuốt ve càng nồng nàn hơn. Về đến nhà ở ngay đầu cầu thang chị giơ hai tay chộp lấy cổ tôi ghì xuống, nhưng tôi đã kịp gỡ ra và nhảy vội qua những bậc thang để chạy lên phòng mình. Sau đó, Phran Tiđeman vẫn cứ bám sát, vừa chạy vừa thở hổn hển và dưới tấm thân nặng nề của chị cầu thang đung đưa kèn kẹt.

Đúng lúc tôi cho chìa khóa vào ổ thì ở đầu kia hành lang ngài Đốpke xuất hiện. Ông ta đi đi lại lại có vẻ như đang chờ chúng tôi. Trong nhà trọ mọi người đều biết rằng ngài Đốpke đang có ý định tán tỉnh người đàn bà góa giàu có và tinh khôn. Chính bản thân Phran Tiđeman cũng không thờ ơ trước những tình cảm chân thành của người đàn ông chưa vợ ấy. Mặc dù đã trên năm mươi tuổi nhưng ngài Đốpke vẫn giữ được một cơ thể cường tráng. Mọi người xì xào về việc Phran Tiđeman muốn ràng buộc ngài Đốpke bằng hôn nhân. Lúc đó hai người gặp nhau ở hành lang và họ bắt đầu bàn bạc về mối quan hệ của mình. Tranh thủ lúc ấy tôi lẻn vào phòng và khóa trái cửa lại. Mãi một lúc lâu vẫn còn nghe thấy tiếng rì rầm của hai người sau cánh cửa ; những câu hỏi dồn dập, những câu trả lời nhũn nhặn. Cuối cùng cuộc hòa giải kết thúc, sự ghen tuông của ngài Đốpke được xoa dịu. Nghe rõ tiếng chân bước dọc theo hành lang và lát sau thì im hẳn.

Chưa kịp ngã mình xuống giường tôi đã thiếp đi trong một giấc ngủ nặng nề với những giấc mơ khủng khiếp. Trước mắt tôi lại hiện lên bóng dáng người thanh nữ trong chiếc áo choàng lông và dưới cái nhìn khinh bỉ cay nghiệt của nàng tôi co rúm người lại. Tôi muốn thanh minh với nàng một điều gì đó nhưng không đủ sức mở miệng. Cặp mắt đen của nàng như có sức thôi miên ghê gớm. Tôi đau đớn tuyệt vọng khi hiểu rằng nàng đang tuyên án tôi và không chấp nhận một lời bào chữa nào hết. Tôi tỉnh dậy lúc trời còn tối, đầu đau nhức. Tôi châm đèn lên, định đọc một tí nhưng những dòng chữ như biến mất và từ trang sách một cặp mắt đen lay láy đang nhìn thẳng vào tôi một cách mỉa mai trách móc. Dù đã tự trấn an rằng đó chỉ là ảo ảnh nhưng tôi vẫn không thể nào bình tâm lại được. Tôi trở dậy mặc quần áo và bước ra phố. Trời lạnh và ẩm ướt. Đường phố vắng ngắt chỉ có vài người làm công của các cửa hàng thịt, sữa, bánh mì đi giao hàng sớm. Ở góc phố có mấy người cảnh sát đang bóc những tấm áp phích hô hào làm cách mạng. Tôi nhìn thấy vẫn những cảnh sát ấy trên các phố khác. Tôi đi dọc theo con kênh đào đến tận Tigarten. Mặt hồ phẳng lặng, một đôi thiên nga đang ngủ trông như những thứ đồ chơi bất động. Trên thảm cỏ và ghế đá lấp lánh những giọt sương mai. Trên một chiếc ghế còn vương lại một tờ báo nhàu nát, có lẽ đêm qua có người đã ngồi ở đây. Mấy chiếc cặp tóc đàn bà rơi bên cạnh. Bất giác tôi nhớ lại sự việc xảy ra chiều hôm qua. Có thể Phran Tiđeman cũng đánh rơi những chiếc cặp tóc của mình trong quán bia hoặc trên đường về nhà. Chắc bây giờ chị ta đang nằm cạnh ngài Đốpke và dù muốn hay không chị ta cũng phải nghĩ đến việc phải nhanh chóng lẻn vào phòng mình một cách bí mật trong khi con hầu vẫn còn chưa dậy.

Ngày hôm đó theo thường lệ tôi đến nhà máy khá sớm. Khi đi ngang qua cổng tôi dừng lại nói chuyện thân mật với người bảo vệ. Mong muốn của tôi lúc ấy là vùi đầu vào công việc và chỉ bằng cách ấy mới thoát khỏi nỗi buồn chán do vô công rồi nghề. Tôi đi từ lò nấu này đến lò nấu khác, ghi chép những nhận xét vào cuốn sổ tay, quan tâm đến cả việc làm các nhãn hiệu gói xà phòng. Tôi đã mường tượng ra cảnh mình sẽ trở thành người quản lý một xí nghiệp sản xuất xà phòng lớn và những bánh xà phòng thơm dịu, hình bầu dục phơn phớt hồng được gói trong những tờ giấy mềm với hàng chữ: " Mêmét Raip - Khavran " được bán khắp nước.

Đến gần trưa những ý nghĩ buồn bã trong lòng dần dần dịu bớt và cuộc sống lại vẽ lên trước mắt tôi bằng những màu sắc rực rỡ. " Không nên tự dày vò bản thân bằng những chuyện vặt vãnh như vậy. - Tôi nghĩ thầm. - Ta cứ luôn luôn mơ mộng những chuyện không đâu. Đã đến lúc cần phải chấm dứt những chuyện ấy và xem xét lại những ảo tưởng của mình. Trước hết cần phải hạn chế bớt việc đọc tiểu thuyết. Chẳng có điều gì có thể ngăn ta - một thanh niên chân thật, giản dị được sống hạnh phúc ".

Ở Khavran tôi sẽ được thừa kế một vườn ôliu cùng với hai xí nghiệp sản xuất xà phòng. Ngoài ra tôi có thể được nhận thêm phần của hai người chị vì các anh rể của tôi cũng khá giàu. Tất cả những điều ấy có thể cho phép tôi trở thành một người có uy quyền trong vùng. Quân đội chiếm đóng đã bị tống ra khỏi nước và tất nhiên quê hương của tôi cũng được giải phóng. Cha tôi đã không dấu nỗi vui mừng mỗi lần viết thư cho tôi. Mỗi hàng chữ của ông đều toát lên tinh thần ái quốc nồng nhiệt. Ngay cả những người Thổ ở đây cũng đến tụ tập ở sứ quán để chào mừng thắng lợi. Thời gian qua tôi đã trở nên bớt nhút nhát hơn và cộng với kinh nghiệm của những người đã giải phóng miền Anatôli, tôi bắt đầu tham gia tranh luận với ngài Đốpke và những sĩ quan về hưu về những biện pháp nhằm cứu vãn nước Đức. Tại sao tôi lại cứ phải rầu rĩ mãi? Tại sao một bức tranh - cho dù đó là một bức tranh tuyệt vời - và những tình tiết bịa đặt trong những cuốn tiểu thuyết lại đóng vai trò quan trọng như thế trong cuộc sống của tôi? Không! Tôi cần phải cứng rắn hơn! Cần phải trở thành một người khác!

Mặc dù vậy, mỗi khi chiều về tôi lại cảm thấy một nỗi buồn vu vơ lấn chiếm lòng mình. Để tránh gặp mặt với Phran Tiđeman tôi bỏ không ăn tối ở nhà trọ nữa mà ghé vào một quán nhậu uống hai vại bia rồi về phòng. Tuy nhiên bất chấp những cố gắng của bản thân, niềm lạc quan yêu đời vừa chớm xuất hiện đã không trở lại với tôi nữa. Cứ như có vật nặng đè mãi lên tim tôi. Để cho khuây khỏa, tôi quyết định đi dạo một lát. Ngoài trời mưa lất phất. Bầu trời xám xịt, những đám mây đen sà thấp trên thành phố đến nỗi tôi có cảm tưởng như ánh sáng của những ngọn đèn đường có thể hắt lên tới đấy. Tôi đã đứng giữa đại lộ lớn của thành phố - Đại lộ Kurphustenđam. Ở đây đèn điện sáng choang. Những giọt mưa rơi xiên xiên còn cách mặt đất hàng trăm thước mà đã thấy lấp lánh một màu da cam. Hai bên phố đầy rẫy những tấm quảng cáo của các khách sạn, rạp hát, tiệm ăn và bất chấp trời mưa mọi người vẫn đi lại nhộn nhịp, vui vẻ. Tôi đi dọc phố, suy nghĩ vẩn vơ. Tôi tìm cách xua đi cái ý nghĩ u ám cứ dai dẳng bám chặt lấy tôi. Tôi dừng lại trước những tấm biển quảng cáo và cố đọc những hàng chữ trên đó. Tôi đã lượn đi, lượn lại như thế vài lần, dọc theo đại lộ dài hàng cây số. Sau đó, tôi rẽ sang bên phải đi về phía quảng trường Vitenber.

Trước tủ kính lớn của một cửa hàng có mấy người phụ nữ đang đứng. Họ đi những đôi giày màu vàng chóe, ăn mặt lòe loẹt và ném vào khách đi đường những cái nhìn mời mọc. Tôi nhìn đồng hồ đã gần mười hai giờ. Đêm đã khuya. Tôi bước về phía quảng trường Nônlenđôphơ. Bây giờ tôi mới hiểu chân tôi muốn đưa tôi đến đâu. Đêm qua cũng ở chính nơi đây và cũng khoảng thời gian này tôi đã gặp " Đức Mẹ trong chiếc áo choàng lông ". Trên quãng trường không một bóng người, phía đối diện, gần rạp hát có một viên cảnh sát đi đi, lại lại. Tôi băng qua quảng trường đi dọc theo đường mà tôi và Phran Tiđeman đã đứng ôm nhau. Bất giác mắt tôi dán vào cột điện phía trước và thấy xuất hiện bóng dáng một phụ nữ. Đó chính là bóng dáng người mà tôi đang đi tìm. Tôi bàng hoàng. Có đúng là nàng không hay đó chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng? Tất cả mọi ảo tưởng, mọi dự định mà tôi đã dày công xây dựng từ lúc sáng đến bây giờ bị sụp đổ hoàn toàn. Tôi lại trở nên xa cách với thế giới thực tại, lại trở thành tên nô lệ yếu đuối của chính những tình cảm của mình.

Bóng người đàn bà lại xuất hiện phía bên kia quãng trường. Tôi đứng nép vào cổng ngôi nhà cạnh đấy nín thở chờ đợi. Không còn nghi ngờ gì nữa - đó chính là người thanh nữ trong chiếc áo choàng lông. Người đó bước đi vội vã, tiếng đế giày gõ lên mặt đường dội vào những bức tường dọc phố vang lên mồn một. Tim tôi co thắt lại rồi sau đó đập dồn dập. Tôi quay người lại làm như đang mở cửa. Khi người thanh nữ đến gần tôi phải dựa hẳn người vào tường để khỏi ngã khụy xuống. Nàng đi ngang qua không dừng lại. Tôi vội vã bước theo. Tại sao tôi lại cố tình chờ đợi và bây giờ lại đi theo người đó? Có thể đấy không phải là nàng thì sao? Tại sao tôi lại cho rằng người thanh nữ hôm qua đã đi ngang qua đây nhất thiết hôm nay lại xuất hiện? Với tất cả những câu hỏi ấy tôi không tìm thấy một lời giải đáp nào. Chỉ một ý nghĩ người thanh nữ nọ có thể bất ngờ ngoái đầu lại cũng đủ làm cho tim tôi đập loạn xạ. Mắt tôi bị hoa lên, tôi không còn nhìn thấy gì ngoài vỉa hè dưới chân tôi. Tôi phải định hướng nhờ tiếng bước chân của nàng. Đang đi như thế bỗng nhiên tiếng bước chân im bặt. Tôi dừng lại ngay, đầu cúi xuống thấp hơn giống như một kẻ tội phạm đang chờ tuyên án. Nhưng không có người nào tiến lại phía tôi, cũng chẳng có ai hỏi: " Tại sao ông lại đi theo tôi ". Cho đến lúc này tôi mới thấy đường phố ở đây sáng hơn. Tôi lưỡng lự ngẩng đầu lên. Cách tôi vài bước là một tiệm ăn nổi tiếng của thành phố, đèn sáng rực rỡ. Trên tấm biển, một hàng chữ bằng bóng điện màu xanh nhấp nháy liên tục: " Atlantích ". Phía dưới hàng chữ có những vạch xanh trông như sóng biển. Cạnh lối ra vào là người gác cửa cao khoảng hai mét, mặc bộ đồ đồng phục thêu chỉ vàng, trên đầu đội mũ đỏ. Ông ta nghiêng mình mời tôi vào. Người thanh nữ mà tôi đi theo chỉ có thể biến vào sau cánh cửa này vì vậy tôi mạnh dạn hỏi người gác cửa:

- Ông có nhìn thấy một phụ nữ mặc áo choàng lông đi vào đây không?

- Có, bà ta có vào đây! - Người gác cửa nghiêng mình trả lời, mỉm cười tế nhị.

" Có lẽ người đó là khách thường xuyên của tiệm ăn - một ý nghĩ chợt lóe lên trong óc tôi - vì vậy mà tối nào cô ấy cũng đến đây vào một khoảng thời gian nhất định ".

Hít một hơi thật sâu, giống như người sắp nhảy xuống nước tôi nhào vào trong phòng. Sau khi gởi bành tô ở nơi gởi áo, tôi bước vào phòng lớn.

Trong phòng đầy người. Chính giữa là sàn nhảy và bên cạnh đấy là dàn nhạc. Xung quanh sàn nhảy trên những bậc cao hơn là những lô ngồi kín đáo. Phần lớn các lô được che kín bởi những tấm rèm bằng vải dày. Thỉnh thoảng lại có một đôi từ trong lô bước ra sàn nhảy. Sau khi nhảy xong họ lại biến mất sau các lô. Tôi tìm thấy một bàn trống liền ngồi xuống và gọi một vại bia. Tôi cảm thấy tự nhiên hơn trước. Tôi đưa mắt chậm rãi quan sát khắp phòng và hy vọng sẽ nhìn thấy ngay người thanh nữ mặc áo choàng lông - người đã làm cho tôi mất ngủ - đang ngồi với một chàng trai hay một lão già nào đó và quang cảnh ấy sẽ giải thoát cho tôi khỏi cơn ác mộng. Người ấy ở đâu? Trên sàn nhảy không có. Có thể cô ta đang ngồi trong một lô nào đó chăng? " Đã đến lúc mình cần phải học cách nhìn nhận thế giới một cách thực tế hơn - Tôi vừa nghĩ vừa cười một cách cay đắng - Hai mươi tư tuổi đầu mà vẫn còn ngây thơ như một đứa trẻ! Một bức chân dung bình thường, có khi chưa chắc nó đã giống với người mẫu, thế mà làm cho mình xúc động, sinh ra những hy vọng hão huyền. Trên một khuôn mặt phụ nữ nhạt nhẽo mà mình đã tìm thấy biết bao ý nghĩ kỳ lạ có thể chép đầy một cuốn sách. Mình đã gán cho người ấy những đức tính tốt đẹp mà chưa chắc người ấy đã có. Biết đâu nàng cũng chỉ là một người bình thường như những người đàn bà trẻ khác đang chạy theo những khoái lạc tầm thường. Ngay cả chiếc áo choàng lông đã làm cho mình thán phục, có thể nó cũng được may tại đây và chẳng có gì là đặc biệt ".

Tôi cố quan sát thật kỹ các khách hàng trong phòng. Những tấm rèm thỉnh thoảng lại được hé ra và một đôi nào đó bước ra sàn nhảy, mặt mũi đỏ gay vì men rượu. Trong đám người ấy không có " Đức Mẹ ". Lợi dụng những lúc thuận tiện tôi nhìn hẳn vào trong các ô. Sau nửa giờ tôi đã biết mặt tất cả các khách hàng, song " Đức Mẹ trong chiếc áo choàng lông " vẫn bặt tăm.

Tôi cảm thấy phân vân. Có lẽ mình nhầm chăng? Có biết bao nhiêu phụ nữ ở Berlin đã mặc những chiếc áo choàng như vậy? Còn khuôn mặt cô ấy tôi đâu có nhìn kỹ. Đêm qua trong cơn say như thế rất có thể tôi đã nhầm lẫn. Một người đàn bà nào đó đi ngang qua, mỉm cười mai mỉa thế là tôi tưởng tượng ngay ra đó là " Đức Mẹ ". Có thể đấy chỉ là ảo ảnh? Nghĩ đến đây tôi kinh hãi cho chính mình. Nếu cứ tiếp tục như vậy thì chẳng bao lâu rồi lại phát điên lên mất! Vì lẽ gì bức chân dung ấy lại gây cho tôi ấn tượng mạnh mẽ và kỳ lạ như vậy? Tại sao tôi cứ khăng khăng cho rằng đó chính là người thanh nữ trong bức chân dung và tại sao tôi lại đi theo cô ấy? Không, không! Cần phải ra khỏi đây ngay và tỉnh táo hơn mới được.

Đột nhiên đèn trong phòng vụt tắt, chỉ còn chỗ dàn nhạc là còn được chiếu sáng mờ mờ. Sàn nhảy vắng tanh. Một điệu nhạc chầm chậm cất lên. Trong âm điệu của những cây viôlông xen thoáng nghe tiếng vĩ cầm yếu ớt. Ngay lúc ấy trên bục diễn xuất hiện một thanh nữ trong bộ áo dài màu trắng. Cô vừa chơi vĩ cầm vừa đi dần về phía khách và khi đến giữa quầng sáng của ngọn đèn chiếu cô dừng lại và cất tiếng hát một bản tình ca đang thịnh hành bằng một giọng rất trầm, gần như giọng nam.

Tôi nhận ngay ra nàng. Tất cả mọi sự hoài nghi và hàng trăm hàng nghìn những giả thuyết vớ vẩn có thể nghĩ trong đầu óc bỗng bay biến đi hết. Nhưng rồi tôi cảm thấy buồn ngay. Tôi đau xót khi nhận ra rằng nàng đã phải tự kiếm sống bằng những nụ cười giả dối và những điệu bộ õng ẹo với khách hàng như thế này đây.

Tôi có thể tưởng tượng ra người thanh nữ đó trong bất cứ một công việc nào, dù đó là những công việc thấp hèn nhất. Nhưng với công việc này, tôi không thể ngờ được. Giữa người thanh nữ kiêu hãnh, cương nghị với cô ca sĩ tiệm nhảy là một khoảng cách xa vời. Chẳng thà tôi nhìn thấy nàng ngồi với những người đàn ông say rượu hoặc nhảy hay hôn nhau với họ… Vì có thể đấy chính là ý muốn của nàng, còn công việc của người ca sĩ, có lẽ nàng không muốn thế. Cây vĩ cầm trong tay nàng chẳng làm nên một điều kỳ diệu nào cả, còn giọng hát của nàng, cho dù đó là một giọng hát chân thành, ấm áp cũng chẳng có gì đặc biệt. Vừa hát nàng vừa bắt chước điệu bộ của một chàng trai say rượu. Còn nụ cười trên môi nàng, tôi có cảm tưởng đó là một nụ cười giả dối chỉ chờ dịp thuận tiện là biến mất. Nàng hát đi hát lại một điệp khúc vui nhộn bên cạnh một bàn ăn, sau đó đi lần đến bàn khác. Và lúc ấy nét mặt nàng trở nên đăm chiêu tư lự giống như trên bức chân dung: bình thản, tự nhiên, không còn nụ cười giả tạo đã làm cho tôi đau đớn.

Bất ngờ một gã đàn ông say rượu bám lấy cô và hôn vào đôi vai để trần của cô. Nàng cau mặt lại như bị rắn cắn nhưng ngay sau đó, làm chủ được mình, nàng cố mỉm một nụ cười như muốn nói với kẻ sàm sỡ: " Ngài thật là dễ thương! ". Và bằng ánh mắt của mình nàng làm yên lòng người đàn bà hay ghen của y: " Bà thấy đấy, biết làm sao được, đám đàn ông thì bao giờ chả thế ".

Sau mỗi bài hát của nàng người ta vỗ tay ầm ĩ. Nữ ca sĩ lại ra hiệu cho người chỉ huy dàn nhạc tiếp tục bài khác. Và vừa vụng về điều khiển cây vĩ cầm của mình, nàng vừa hát tiếp bằng một giọng rất trầm. Nàng đi từ bàn này sang bàn khác, áo dài trắng kéo lê trên sàn. Đôi khi nàng dừng lại ở những lô có rèm che he hé.

Nàng càng tiến gần chỗ tôi ngồi, tôi lại càng hồi hộp hơn. Biết xử thế làm sao đây? Nhìn thẳng vào mặt nàng chăng? Liệu tôi có dám nhìn thẳng vào mắt nàng hay không? Nhưng xét cho cùng, thật là buồn cười khi cho rằng nàng có thể nhận ra tôi khi chỉ nhìn thoáng thấy tôi có một lần trong bóng đêm trên hè phố. Đối với nàng, tôi chỉ là một trong số rất nhiều thanh niên thường đến đây giải trí và tìm bạn gái. Nhưng rồi bất giác tôi vẫn cúi đầu xuống khi nàng đến gần tôi. Dưới gấn váy dính đầy bụi tôi nhìn thấy đôi chân trần của nàng trong đôi dép màu trắng. Và khi ánh đèn chiếu dọi tới, tôi nhận thấy làn da chân của nàng màu hồng nhạt, mịn màng. Tôi giật mình hoảng hốt. Tôi có cảm tưởng như mình vừa nhìn thấy tấm thân lõa lồ xinh đẹp của nàng. Bất giác tôi ngước mắt lên và bắt gặp ánh mắt của nàng đang nhìn tôi chăm chú. Lúc đó nàng không hát, chỉ có chiếc vĩ cầm trên tay đang réo rắt một điệu nhạc gì đó, khuôn mặt trang nghiêm và thật là không ngờ, tôi nhận thấy trong ánh mắt nàng một lời chào thân ái. Trong ánh mắt ấy không có một chút gì là giả tạo, gượng ép, không có sự cố tình làm duyên hoặc suồng sã. Chỉ có những người bạn chân thành mới chào nhau bằng ánh mắt như thế. Nàng chỉ hơi nheo mắt lại và cũng chỉ cần có thế thôi là cũng đủ nói lên tất cả. Sau đó nàng mỉm một nụ cười chân thành, trong sáng rồi chia tay với tôi. Lần này không phải chỉ bằng ánh mắt mà nàng còn khẽ gật đầu thân ái. Nàng bước tiếp đến những bàn khác, chiếc vĩ cầm trên tay vẫn réo rắt một khúc nhạc du dương.

Trong lòng tôi một ước muốn kỳ lạ chợt đến. Tôi muốn ôm lấy tấm thân xinh đẹp và hôn lên khuôn mặt của nàng. Tôi không nhớ đã có lần nào mình cảm thấy hạnh phúc như thế chưa. Tấm lòng như muốn mở rộng để đón chào những điều tốt lành. Có cần gì nhiều lắm đâu để làm cho một con người trở nên thật sự hạnh phúc. Chỉ cần chào nhau một cách thân ái và mỉm cười. Chỉ cần thế thôi! Trong lúc này tôi không mong muốn gì hơn nữa. Vừa nhìn theo nàng tôi vừa thầm nói: " Cảm ơn, cảm ơn " Đức Mẹ " của tôi ". Như vậy có nghĩa là tôi đã không lầm, những điều ước đoán đã được khẳng định. Nàng chính là người con gái mà tôi đã vẽ ra trong trí tưởng tượng của mình.

Nhưng ngay lúc ấy một nỗi nghi ngờ bỗng thoáng qua trong đầu: Có thể nàng nhầm tôi với một người nào khác chăng? Hay là khuôn mặt của tôi trông giống khuôn mặt một người quen nào đó của nàng? Nhưng cô ấy đã không hề tỏ ra một chút do dự, bối rối nào cơ mà. Cứ nhìn vào cặp mắt tràn đầy tin tưởng của cô ấy thì không thể nghi ngờ về điều đó. Tôi ngồi lặng đi với nụ cười thanh thản, hài lòng trên môi và dõi theo từng bước chân của nàng. Mái tóc dài gợn sóng màu hạt dẻ sẫm phủ xuống vai, còn tấm thân chuyển động nhịp nhàng theo cánh tay để trần đang điều khiển cây cần vĩ cầm và do đó trên bả vai nàng có một đường nhăn lúc ẩn lúc hiện.

Hát xong bài cuối cùng nàng vội đi vào phòng trong. Đèn trong phòng lại bật sáng. Tôi vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, lòng tràn đầy hạnh phúc. Nhưng rồi tôi tự hỏi mình: " Mình sẽ làm gì nữa đây? Đi ra và chờ cô ấy ở cửa chăng? Nhưng mình không quen cô ấy cơ mà. Nếu mình nói: " Cho phép tôi được tiễn cô " không biết cô ấy sẽ nghĩ như thế nào nhỉ? Không lẽ mình lại cảm ơn vì một vài cử chỉ đáng yêu mà cô ấy đã dành cho mình sao? "…

Tế nhị hơn cả có lẽ bây giờ nên rút lui và ngày mai lại đến nữa. Có thể dần dần tôi sẽ chiếm được lòng tin của nàng, còn hôm nay, lần đầu tiên như thế là quá đủ rồi. Ngay từ nhỏ tôi đã có thói quen trân trọng những niềm hạnh phúc nho nhỏ mà số phận đã mang lại cho mình. Chính vì lẽ đó mà tôi đã bỏ lỡ bao cơ hội may mắn và bây giờ tôi lại lo sợ sẽ làm đổ vỡ kết quả đã đạt được bởi những tham vọng quá ư táo bạo.

Tôi đưa mắt tìm người hầu bàn để thanh toán nhưng ngay lúc ?