Chương 9 Hãy gieo hạt giống tốt lành
Mục đích của tôi trong chuyến đầu tiên đến Liberia vài năm trước là khích lệ và truyền cảm hứng cho nhiều người bằng những thông điệp về niềm tin và hy vọng. Không ngờ rằng đất nước châu Phi bất ổn ấy và những người dân ở đó cũng đã khích lệ và truyền cảm hứng cho tôi không ít.
Trong một thời gian dài, đất nước nhỏ bé ven biển ấy được biết đến là một trong những quốc gia nghèo nhất và có nạn tham nhũng, bạo lực trầm trọng nhất trên thế giới. Mặc dù Liberia từng nằm trong số những quốc gia giàu tài nguyên, có công nghiệp phát triển và dân trí cao nhất châu Phi, nó đã phải đương đầu với những thách thức to lớn trong suốt hơn ba mươi năm biến động chính trị. Những biến động tàn phá đất nước này một cách nặng nề nhất chính là hai cuộc nội chiến kéo dài cho đến tận năm 2003. Hơn hai trăm nghìn người Liberia đã thiệt mạng trong các cuộc nội chiến đó. Hàng triệu người buộc phải rời khỏi đất nước. Tình trạng nô lệ tình dục và nạn buôn bán ma túy lan tràn khắp nơi.
Khi chúng tôi đến thăm quốc gia này vào năm 2008, những vết thương nặng nề do bạo lực và nạn tham nhũng vẫn còn hiển hiện ở nhiều nơi. Hầu hết những con đường ở đây đều rất khó đi đối với xe ô tô. Rất hiếm các vùng nằm ngoài khu vực thành phố có điện lưới. Chỉ một phần tư dân Liberia được sử dụng nước sạch để uống. Xác súc vật bốc mùi hôi thối trong không khí khiến chúng tôi buồn nôn. Nhiều người dân chúng tôi nhìn thấy trên đường có vẻ như bị suy dinh dưỡng và phải sống trong nghèo túng. Hết lần này đến lần khác, chúng tôi nhìn thấy những người đàn ông, đàn bà, trẻ em cắm cúi bên những thùng rác và những đống đồ phế thải để tìm thức ăn.
Có lẽ bạn sẽ hỏi, tôi có thể tìm thấy sự khích lệ ở đâu trong cái bức tranh ảm đạm đó?
Ở mọi nơi chúng tôi đặt chân tới!
Bạn thấy đấy, đói nghèo và tình trạng bị bỏ mặc là tàn dư từ quá khứ đầy ám ảnh của Liberia – một quá khứ đen tối bị những nhà độc tài và thủ lĩnh quân sự hiếu chiến thống trị. Tuy nhiên trong chuyến thăm của mình, chúng tôi cũng nhìn thấy tương lai của Liberia, một tương lai chứa đựng nhiều hy vọng.
Trong ba thập kỷ, do môi trường thù địch ở Liberia nên chỉ một số ít các tổ chức viện trợ, các hội truyền giáo, những nhóm hoạt động nhân đạo dám đến quốc gia này. Nhưng từ năm 2005 tình hình đã thay đổi một cách đáng ngạc nhiên. Hàng tỉ đô la được đổ vào Liberia, riêng nước Mỹ đã đóng góp 230 triệu đô la mỗi năm cho các nỗ lực tái thiết Liberia.
Nhóm đã thu xếp chuyện ăn ở cho chúng tôi trong chuyến thăm vào năm 2008 là một trong nhiều nhóm hoạt động từ thiện gắn liền với những nỗ lực quốc tế nhằm giúp tái thiết đất nước Liberia. Chúng tôi được bố trí ở trên chiếc tàu Africa Mercy, một con tàu thuộc đoàn tàu Mercy. Đó nguyên là một chiếc phà lớn được cải tiến thành một con tàu của tình thương: một bệnh viện nổi có tải trọng 16.572 tấn với 8 tầng, mỗi tầng có diện tích hơn 3.600 mét vuông, nhân viên của bệnh viện là một đội ngũ gồm hơn bốn trăm phẫu thuật viên, bác sĩ, y tá, nha sĩ, chuyên gia nhãn khoa, chuyên gia vật lý trị liệu và những chuyên gia chăm sóc sức khỏe giàu nhân ái đến từ bốn mươi quốc gia.
Trên con tàu ấy, những người trong đội ngũ y tế đó đã hiến tặng thời gian, công sức, sự phục vụ của mình cho những người bệnh và tự trang trải chi phí để tham gia sứ mệnh giúp đỡ nhân đạo trên khắp thế giới. 95% các cơ sở y tế của Liberia bị phá hủy trong các cuộc nội chiến nói trên. Trong thời gian tôi ở đó, những thiết bị chức năng cao cấp trên tàu là những thiết bị hiện đại nhất trên thế giới. Chỉ trong vài ngày đã có hàng nghìn người xếp hàng lên tàu tìm sự giúp đỡ.
Africa Mercy là bệnh viện nổi lớn nhất của các tổ chức nhân đạo trên thế giới. Sứ mệnh của đoàn tàu Mercy là mang đến hy vọng và sự hàn gắn cho những người khốn khổ bị lãng quên trên thế giới bằng cách yêu thương và giúp đỡ họ. Trong buổi nói chuyện của tôi với bốn trăm người tình nguyện làm việc trên con tàu đặc biệt này, tôi đã bày tỏ sự khâm phục trước món quà lớn lao của tài năng và kỹ năng mà đội ngũ tình nguyện viên trên tàu đã thể hiện trong việc phục vụ những người cần được giúp đỡ nhất. Thời gian làm việc trên tàu của mỗi tình nguyện viên ít nhất là hai tuần, nhưng một số người đã làm việc ở đây trong nhiều năm. Họ tự trả tiền phòng và các chi phí sinh hoạt khác ở trên tàu. Việc các chuyên gia y tế cống hiến thời gian của họ theo cách này là thật đáng kinh ngạc.
Tôi đã ở trên tàu và đã thăm sáu phòng điều trị bệnh ở đó, nơi các bệnh nhân được chữa bệnh hoại thư, bệnh đục thủy tinh thể, khuyết tật sứt môi và hở hàm ếch, bỏng, ung bướu, gãy chân tay, chứng trầm cảm sau khi sinh con và nhiều chứng bệnh khác. Sau đó, tôi được biết rằng trong hơn bốn năm tàu Africa Mercy phục vụ ở Liberia, đội ngũ tình nguyên viên y tế đã thực hiện hơn 71.800 ca phẫu thuật đặc biệt, 37.700 đợt điều trị và chăm sóc răng miệng cho rất nhiều bệnh nhân.
Các tình nguyện viên trên tàu Africa Mercy chăm sóc và chữa bệnh miễn phí cho hàng nghìn bệnh nhân là một ví dụ tuyệt vời của việc gieo những hạt giống tốt bằng cách biến niềm tin thành hành động để phục vụ, giúp đỡ người khác. Khi tôi trở về nhà, tôi kể về những người tình nguyện trên tàu Africa Mercy cho Michelle, em gái của tôi và cũng là một y tá giống như mẹ tôi nghe một cách say sưa đến mức em tôi đã không chần chừ quyết định đăng ký đi làm tình nguyện trên con tàu đó!
Cũng như tôi, em gái tôi tin rằng tất cả chúng ta đều nên gieo những hạt giống tốt để phát triển thành những thân cây khỏe mạnh đơm hoa kết trái cho nhiều năm, tạo thêm nhiều hạt giống tốt và nhiều cây đơm trái trong tương lai. Michelle và tôi có thể sẽ không tận mắt thấy những trái ngọt được tạo ra từ những gì chúng tôi làm trong thời gian chúng tôi sống trên trái đất này, nhưng như vậy cũng không hề gì. Việc của chúng tôi là gieo những hạt giống tốt nhiều hết mức có thể với nhận thức rằng Chúa sẽ quyết định hạt nào phát triển, hạt nào không. Tôi khuyến khích bạn gieo những hạt giống của tình yêu, sự khích lệ, cảm hứng và lòng tốt nhiều hết mức có thể.
Điều cốt yếu trong tình yêu và niềm tin là hành động. Hãy biến tình yêu và niềm tin thành hành động trong những hoàn cảnh mà hai món quà đó có thể đóng góp để tạo nên sự tốt đẹp lớn lao hơn. Đó là điều mà bạn có thể lựa chọn mỗi buổi sáng. Hãy quyết định rằng bạn sẽ sử dụng tài năng và khả năng mà Đấng Sáng Tạo ban cho mình để phục vụ những mục đích lớn lao hơn. Mỗi chúng ta đều có những tài năng và khả năng nhất định, và tất cả chúng ta đều có ảnh hưởng đối với bạn bè, gia đình, và mạng lưới công việc cho phép chúng ta phát triển tài năng, khả năng của mình bằng cách thu hút những người khác để họ cũng có thể gieo những hạt giống tốt lành.
Những con tàu tình nguyện trong đoàn tàu Mercy được tạo ra bởi một cặp vợ chồng theo đạo Cơ Đốc, những người đã hành động theo niềm tin để gieo những hạt giống tốt và phục vụ người khác theo những cách đáng kinh ngạc. Don và Deyon Stephen thành lập đoàn tàu Mercy khi họ đang sống ở Thụy Sĩ. Khi đó họ đã được khắp thế giới biết đến qua những chương trình hoạt động nhân đạo nhằm cung cấp điều kiện chăm sóc y tế hiện đại tới những người nghèo khó nhất tại những nước đang phát triển. Don có bằng thần học còn Deyon là một y tá có đăng ký hoạt động. Họ được khích lệ để sửa chữa chiếc tàu nhân đạo đầu tiên vào năm 1976 sau khi John Paul, con trai họ chào đời với khuyết tật nặng nề về trí tuệ. Khi đó Don thực hiện một chuyến đi tới Ấn Độ và gặp Mẹ Teresa. Mẹ đã khuyến khích vợ chồng ông góp sức với mình trong sứ mệnh phục vụ những người cần giúp đỡ nhất trên thế giới: “John Paul sẽ giúp anh chị trở thành đôi mắt, đôi tai, đôi chân, đôi tay của nhiều người khác”.
Vợ chồng Stephen không giàu có, nhưng họ được sự khích lệ của Mẹ Teresa truyền cảm hứng mạnh mẽ đến mức họ đã thuyết phục được một ngân hàng Thụy Sĩ cho vay một triệu đô la để mua con tàu đầu tiên, một chiếc tàu thủy cỡ lớn không còn hoạt động của Italia. Từ đó chương trình nhân đạo của họ đã nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ của những nhà hảo tâm trên khắp thế giới, trong đó có hãng cà phê Starbucks. Hãng này đã đặt một cửa hàng cung cấp cà phê trên tàu để phục vụ miễn phí những tình nguyện viên y tế.
Đó là nguồn cảm hứng lớn lao đầu tiên mà tôi tìm thấy ở Liberia: một chiếc phà khổng lồ của Đan Mạch được cải tiến thành một chiếc tàu thủy của tình thương bởi hàng trăm tình nguyện viên tuyệt vời, và một đôi vợ chồng theo đạo Cơ Đốc, những người đã được truyền cảm hứng để phục vụ những người khác bằng tấm gương phục vụ người khác thuyết phục nhất - Mẹ Teresa. Qua công việc không gợn sự vị kỷ giữa những người nghèo khổ ở Calcutta và những chương trình nhân đạo mà Mẹ Teresa thiết lập ở 123 nước, người phụ nữ khiêm nhường này đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người như vợ chồng Stephen để những người đó gieo hạt giống của lòng nhân từ trên khắp thế giới.
Có thể bạn sẽ hỏi: “Tôi có thể làm gì?” hoặc “Tôi phải làm gì để cống hiến?”. Câu trả lời là: “Hãy cống hiến bản thân bạn”. Bạn và những tài năng mà Đấng Sáng Tạo ban cho bạn là những món quà ý nghĩa nhất mà bạn có thể trao tặng cho người khác. Khi bạn biến niềm tin thành hành động để gieo những hạt giống tốt bằng cách phục vụ người khác, có nghĩa là bạn huy động và khai thác khả năng vượt ngoài sức tưởng tượng của bản thân. Bạn có thể thấy rất nhiều mạng sống được cứu và biết bao cuộc đời đổi thay nhờ vợ chồng Stephen và những con tàu nhân ái của họ hoặc nhờ Mẹ Teresa và hơn sáu trăm chương trình nhân đạo mà bà đã thiết lập trên khắp thế giới.
PHỤC VỤ TỔ QUỐCNguồn cảm hứng lớn lao thứ hai mà tôi tìm thấy ở Liberia là một người phụ nữ giống như Mẹ Teresa, người lãnh đạo các hoạt động nhân đạo và là một người theo đạo Cơ Đốc có tầm ảnh hưởng lớn.
Có thể bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng người phụ nữ đó là một chính trị gia ở một đất nước nổi tiếng vì những nhà lãnh đạo tham nhũng. Thoạt đầu tôi cảnh giác, nhưng cũng giống như những người khác trên khắp thế giới, tôi nhanh chóng nhận ra rằng Ellen Johnson Sirleaf không giống như những bạo chúa và những thủ lĩnh quân phiệt tiền nhiệm của bà ở Liberia.
Năm 2005, người phụ nữ theo đạo Cơ Đốc từng tốt nghiệp Đại học Harvard được nhiều người gọi bằng cái tên trìu mến “Mẹ Ellen” đó đã trở thành vị nữ tổng thống đầu tiên của Liberia sau khi đã bị người tiền nhiệm của bà bỏ tù hai lần. Khi đó bà cũng là người phụ nữ duy nhất giữ cương vị tổng thống ở châu Phi. Việc bầu bà vào chức tổng thống được ca ngợi là một bước tiến lớn của quốc gia đã tụt hậu ở mức đáng ngại này. Cựu Đệ nhất phu nhân của nước Mỹ Laura Bush và cựu bộ trưởng ngoại giao Condoleezza Rice đã dự lễ nhậm chức của bà.
Vị nữ tổng thống mới có những nhiệm vụ khó khăn. Có lẽ bà đã hy vọng kiềm chế được nạn tham nhũng và tạo ra nhiều công ăn việc làm cho một đất nước có tới 85% dân số thất nghiệp, nhưng trước tiên bà phải làm cho những ngọn đèn bừng sáng. Sau nhiều năm chiến tranh, ngay cả thủ đô Monrovia cũng không có điện, không có nước máy và hệ thống nước thải.
Là con gái của một người Liberia bản địa đầu tiên được bầu vào cơ quan lập pháp, Tổng thống Sirleaf cũng tiếp nhận sự giáo dục trong hệ thống chính trị đầy biến động của đất nước bà. Bà đã nhận học bổng Quản lý nhà nước của trường Harvard Kennedy, một phần để tránh bị cầm tù vì hành động chống tham nhũng trong giới cầm quyền của Liberia. Trở về nước, bà bị bỏ tù hai lần vì tiếp tục đấu tranh chống tham nhũng. Có lần bà phải trốn khỏi đất nước trong khoảng thời gian năm năm và làm việc trong hệ thống ngân hàng quốc tế.
Sự kết thúc thời kỳ thống trị đẫm máu của nhà độc tài Charles Taylor bắt đầu khi hàng nghìn phụ nữ Liberia mặc đồ màu trắng, do Sirleaf và nhà hoạt động xã hội Leymah Gbowee dẫn đầu, tập trung tại một sân vận động ở Monrovia đòi hòa bình cho đất nước. Họ ở đó trong nhiều tháng, qua mùa hè nóng như thiêu đốt, qua cả những mùa mưa, thu hút sự chú ý của báo giới và khiến dư luận quốc tế quan tâm đến sự ngược đãi nhân quyền của chính phủ Taylor. Vào thời điểm đó, những người phản kháng tập hợp bên ngoài một khách sạn có những tướng lĩnh của Taylor đang họp và không cho những người cầm đầu bộ máy quân sự đó rời khỏi khách sạn. Taylor cuối cùng buộc phải trốn ra nước ngoài. Ông ta bị bắt và bị Liên hiệp quốc xét xử như một tội phạm chiến tranh. Năm 2005 Sirleaf được bầu làm tổng thống của Liberia để tái lập hòa bình cho đất nước của bà.
Ba năm trước khi tôi gặp bà, đất nước Liberia vẫn đang phải vật lộn để phục hồi sau nhiều thập kỷ của bạo lực và sự bỏ mặc. Lần đầu tiên trong những năm dài tăm tối, người dân Liberia không còn bị chính phủ của họ đàn áp nữa. Vào thời điểm đó Liên hiệp quốc đang giúp họ duy trì hòa bình với một lực lượng gìn giữ hòa bình gồm hơn mười lăm nghìn người.
Trong hai mươi lăm phút trò chuyện giữa tôi và bà Sirleaf tại văn phòng của tổng thống, tôi bị ấn tượng bởi sức mạnh và sự quan tâm của bà. Có một lý do khiến bà vừa được coi là “Người mẹ của Liberia” vừa được biết đến như một “Người đàn bà thép”. Tôi rất căng thẳng khi gặp bà bởi vì tôi chưa từng gặp mặt một người lãnh đạo quốc gia nào trước đó.
Tổng thống Sirleaf đón chào tôi chỉ vài ngày trước sinh nhật lần thứ bảy mươi của bà, và sự xuất hiện như một người bà cùng sự ấm áp toát lên từ đôi mắt của bà khiến tôi có cảm giác thoải mái và gần gũi ngay lập tức. Bà cũng nói cho tôi biết rằng bà nằm trong số 60% dân số Liberia theo đạo Công giáo. Bà được nuôi dưỡng để trở thành một người của Hội Giám lý và trong những năm thơ ấu bà đã theo học tại trường học của Hội Giám lý. Chúng tôi nói với nhau về niềm tin, và tôi có thể thấy rằng sức mạnh bên trong con người bà bắt nguồn từ niềm tin tôn giáo.
Tôi không phải là một tổng thống, nhưng nếu tôi phục vụ quốc gia nào trong vai trò tổng thống thì tôi muốn được trở thành một vị tổng thống giống như bà.
Vì tôi đến đất nước của Tổng thống Sirleaf để diễn thuyết trước một số nhóm người, tổng thống đề nghị tôi khích lệ người dân Liberia tạo điều kiện cho con họ học hành và quay trở lại với đồng ruộng để cấy trồng, đặc biệt là trồng lúa, bởi nội chiến đã phá hoại sản xuất nông nghiệp một cách nghiêm trọng đến mức nước này phải nhập khẩu phần lớn lượng gạo để nuôi sống người dân. Bà gây ấn tượng với tôi bằng ý thức mạnh mẽ của bà trong nhiệm vụ phục vụ 3,5 triệu người và tái thiết một đất nước đã bị tàn phá nặng nề.
Từ khi bà lên làm tổng thống, Liberia đã hoan nghênh sự giúp đỡ từ các nước khác, mở cửa đón 16 tỉ USD vốn đầu tư nước ngoài. Về tính cách, tôi nhận thấy Sirleaf là một người phụ nữ đầy lòng quan tâm đến người khác. Trong trường hợp của chúng tôi, trước khi đón chúng tôi, bà cho chúng tôi mượn hai chiếc SUV để sử dụng làm phương tiện đi lại trên những con đường gập ghềnh ở đó.
Tôi không cần phải chứng minh Tổng thống Sirleaf là một ví dụ đầy tính khích lệ về người lãnh đạo tận tụy phục vụ nhân dân. Bà đã được trao một trong những giải thưởng cao quý nhất trên thế giới vì những hạt giống mà bà đã gieo. Chỉ vài năm sau khi tôi gặp bà, bà và Leymah Gbowee đã được trao giải Nobel Hòa bình vì những nỗ lực xây dựng hòa bình và đấu tranh cho quyền con người. Bốn ngày sau khi nhận giải thưởng danh giá này, Tổng thống Sirleaf tái đắc cử nhiệm kỳ sáu năm của chức tổng thống để bà có thể gieo thêm nhiều hạt giống tốt nữa cho đất nước.
Sirleaf, người cũng được vinh danh là Nhân vật năm 2011 của Hội Giám lý, được cả thế giới, thậm chí cả Charles Taylor, người tiền nhiệm của bà và là người bị kết án vì tội ác chống lại nhân dân, công nhận là một nhà lãnh đạo dân chủ và nhân từ. Cả Sirleaf và Taylor đều ở vị trí lãnh đạo đất nước. Cả hai đều có quyền lực lớn nhờ chức vụ của họ. Tuy nhiên mỗi người đã sử dụng quyền lực theo những cách khác nhau.
Một trong những nhà truyền giáo đầu tiên của đạo Cơ Đốc, thánh Paul, đã bàn về hai kiểu lãnh đạo khác nhau này trong Kinh Thánh, và đoạn Galatians 5:13-15 đã đề cập một cách khá đầy đủ về một đất nước được tạo lập và được điều hành bởi những người từng là nô lệ và những hậu duệ của họ. Ngài nói: “Hỡi anh em, anh em đã được gọi đến sự tự do, song chớ lấy sự tự do đó làm dịp cho anh em ăn ở theo tánh xác thịt, mà hãy lấy lòng yêu thương mà phục vụ nhau. Vì cả luật pháp chỉ tóm lại trong một lời này: Hãy yêu kẻ lân cận như mình. Nhưng nếu anh em cắn nuốt nhau, thì hãy giữ, kẻo kẻ này bị diệt mất bởi kẻ khác!”. Thánh Paul muốn nói với chúng ta rằng chúng ta nên sử dụng sự tự do và sức mạnh của mình không phải để thỏa mãn nhu cầu vị kỷ và những ham muốn của bản thân – hoặc để làm đầy túi tham của mình như Taylor đã làm – mà để yêu thương và phục vụ người khác như Tổng thống Sirleaf đang làm.
Bạn không nhất thiết phải là tổng thống của một quốc gia mới có thể phục vụ người khác. Bạn thậm chí không cần phải có đầy đủ chân tay để làm điều đó. Tất cả những gì bạn cần là sử dụng niềm tin, tài năng, sự hiểu biết, trí tuệ và kỹ năng của bạn để mang lại lợi ích cho người khác theo cách giản dị hoặc lớn lao. Thậm chí những hành động nhỏ nhất của lòng tốt cũng có thể có tác động lan tỏa. Ngay cả những người nghĩ rằng họ không có quyền lực để tạo sự ảnh hưởng đối với thế giới xung quanh cũng có thể tạo ra sự khác biệt bằng cách hợp sức và làm việc cùng nhau để tạo nên sự thay đổi mà họ mong muốn.
Tổng thống Sirleaf, Leymah Gbowee và lực lượng những phụ nữ hoạt động xã hội của họ đã làm thay đổi cả một quốc gia bằng cách đặt niềm tin của họ vào hành động để phục vụ nhân dân. Họ đã giúp tái thiết hòa bình, và họ đang lãnh đạo đất nước trong quá trình tái thiết đầy khó khăn sau nhiều thập kỷ chiến tranh, loạn lạc. Cách đây không lâu Sirleaf đã huy động hơn hai mươi lăm nghìn thanh niên làm công việc dọn dẹp tại cộng đồng của họ trước dịp nghỉ lễ và trả thù lao để họ có tiền tiêu trong dịp Giáng sinh. Chính quyền của bà đã và đang bận rộn với việc xây dựng những bệnh viện mới, khôi phục lại hệ thống cung cấp nước cho bảy trăm nghìn người dân. Những thành tích nổi bật của bà bao gồm việc mở hơn hai trăm hai mươi trường học – một ví dụ tuyệt vời cho việc gieo những hạt giống để phát triển thành cây đơm hoa kết trái cho những thế hệ tương lai.
Nhiệm vụ của tôi trong chuyến đi đến Liberia bao gồm một buổi diễn thuyết truyền giáo tại một sân vận động bóng đá. Chúng tôi hy vọng sẽ có từ ba trăm đến bốn trăm người tham dự sự kiện đó, nhưng thật vui mừng có khoảng tám đến mười nghìn người đã tham dự. Trong một sân vận động chật kín người, có những người đã ngồi trên mái che của sân vận động, trèo lên cây để theo dõi sự kiện. Thật đáng ngạc nhiên, ngày hôm đó tôi đã phải thực hiện một bài diễn thuyết ba lần, bởi vì chúng tôi chỉ có một bục diễn thuyết khá nhỏ trên sân khấu. Vậy nên tôi phải thực hiện bài diễn thuyết cho từng phần của sân vận động, diễn thuyết xong trước các khán thính giả thuộc phần này của sân vận động, tôi lại bắt đầu thực hiện bài diễn thuyết trước khán thính giả thuộc một phần khác. Tôi đã thực hiện điều đó để tất cả mọi người có thể nghe thấy những lời nói của sự khích lệ, hy vọng và niềm tin.
Buổi diễn thuyết ấy đã mang đến cho tôi nguồn khích lệ thứ ba mà tôi tìm thấy ở đất nước Liberia: đó chính là những người dân của đất nước này. Mặc dù đã phải chịu đựng sự chết chóc, sự tàn phá, sự bạo tàn, hàng triệu người ở quốc gia này vẫn giữ vững đức tin. Mặc dù còn nhiều khổ đau hiện hữu ở đó, trong chuyến thăm của mình tôi đã thấy vô số những gương mặt, những cách biểu lộ niềm vui – từ những em học sinh ca hát và chơi đùa, đến những sân vận động chật kín người cầu nguyện. Những người bạn của chúng tôi ở Liberia nói với chúng tôi rằng những người lãnh đạo của Cơ Đốc giáo và của Hồi giáo đã dẹp sự khác biệt sang một bên để giúp kết thúc cuộc nội chiến thông qua một hội đồng đoàn kết các tôn giáo, và tôi hy vọng rằng họ có thể tiếp tục hợp tác với nhau vì ngày mai tươi sáng hơn cho đất nước và cho các trẻ em Liberia.
CHUNG TAY ĐỂ NHÂN RỘNG NHỮNG HẠT GIỐNG TỐTChúng ta có thể gieo những hạt giống tốt, dù ta đang giữ vị trí nào trong xã hội, dù hoàn cảnh của ta ra sao. Dù bạn là người sáng lập hay là một tình nguyện viên tham gia hoạt động nhân đạo quy mô lớn như hoạt động trên con tàu Mercy ở châu Phi, là người lãnh đạo một quốc gia như Tổng thống Sirleaf, thì việc thiện mà bạn đang làm được nhân lên nhiều lần qua vô số những cuộc đời mà bạn đã tác động.
Tất cả những nhà lãnh đạo trong các hoạt động phục vụ người khác mà tôi gặp trong các chuyến đi của mình đều có chung những đặc điểm và thái độ mà tất cả chúng ta đều nên học tập. Trước hết, họ rất khiêm tốn và không hề vị kỷ. Nhiều người trong số họ đã dành trọn cuộc đời để phục vụ người khác, và họ không quan tâm sự cống hiến của mình có được ghi nhận hay không. Thay vì đứng ở những vị trí nổi bật, hầu hết họ làm việc thầm lặng, thôi thúc những người tình nguyện và khích lệ những người mà họ phục vụ. Họ thích trao lời khen ngợi hơn là nhận về mình.
Thứ hai, những người lãnh đạo trong các hoạt động phục vụ người khác là những người biết lắng nghe và là những người có khả năng thấu cảm cao. Họ lắng nghe để hiểu nhu cầu của những người họ phục vụ, và họ quan sát, thấu cảm để nắm bắt những nhu cầu không được nói ra. Thường thì những người gặp khó khăn không cần phải đến để nhờ họ giúp đỡ, bởi vì họ chủ động phát hiện những ai đang cần giúp đỡ và cần giúp những gì. Những người lãnh đạo đó hoạt động với suy nghĩ như thế này trong đầu: Nếu mình ở trong hoàn cảnh của người này, thì điều gì sẽ làm cho mình cảm thấy được an ủi? Điều gì sẽ vực mình dậy? Điều gì sẽ giúp mình vượt lên hoàn cảnh?
Thứ ba, họ là những người chữa lành những vết thương . Họ cung cấp những giải pháp trong khi những người khác bị mắc kẹt trong các vấn đề. Tôi chắc chắn rằng những người tốt khác nhìn vào những phận người đang chịu đựng sự nghèo khổ, đớn đau và bệnh tật ở những nước thuộc thế giới thứ ba và thấy những vấn đề khó khăn to lớn. Làm thế nào bạn có thể xây dựng đủ bệnh viện ở những vùng xa xôi, nghèo đói để phục vụ tất cả những người đang gặp khó khăn? Don và Deyon Stephens đã nhìn vượt ra ngoài vấn đề và đi đến một giải pháp đầy sáng tạo: cải tiến những chiếc tàu du lịch thành những bệnh viện nổi và kêu gọi những người tình nguyện đến làm việc trên tàu, đến bất cứ nơi nào có những người đang cần được giúp đỡ.
Thứ tư, những người lãnh đạo đó không bận tâm với sự ổn định ngắn hạn, mà hướng tới sự ổn định lâu dài. Họ gieo những hạt giống mà họ biết sẽ tồn tại lâu dài và có những ảnh hưởng rộng rãi. Tổng thống Sirleaf đã thiết lập hòa bình trên mảnh đất quê hương đầy bất ổn của bà, và sau đó bà đã cho xây dựng những trường học, thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tạo cơ hội cho các thế hệ tương lai.
Những người gieo những hạt giống tốt tiếp tục phát triển những gì họ đã làm, bằng cách tự gieo những hạt giống mới hoặc khích lệ những người khác tham gia với họ và vượt trên họ.
Thứ năm, những người lãnh đạo đó là những người xây dựng những cầu nối, dẹp sang một bên những lợi ích cá nhân hạn hẹp để khai thác sức mạnh của nhiều người để tạo ra sự thay đổi vì lợi ích của toàn nhân loại. Họ tin rằng sự dồi dào là phần thưởng đủ cho tất cả mọi người khi mà cả mục đích và sự thành công đều được chia sẻ. Nơi nào mà một số nhà lãnh đạo tin vào sự chia rẽ và chiếm đoạt, thì nơi ấy những người đi đầu trong việc phục vụ người khác tin vào việc xây dựng một cộng đồng của những con người có chung một mục đích.
Gần đây nhất tôi đã thấy một ví dụ điển hình của việc xây dựng những cầu nối trong khi tôi tham dự một sự kiện mang tên “I Heart Central Oregon” trong đó hơn hai nghìn năm trăm người tình nguyện từ ba hạt và bảy mươi nhà thờ thuộc nhiều giáo phái khác nhau chung tay gieo những hạt giống tốt trong cộng động của họ. Jay Smith, người tổ chức sự kiện này, đã mời tôi tới để nói chuyện với những người tình nguyện và với những em học sinh ở đó trong tuần lễ biến niềm tin thành hành động.
Jay và các thành viên của ban nhạc Elliot đã tổ chức những sự kiện này trong vài năm nay và điều lớn lao mà họ đã làm được là đưa tất cả những người thuộc các giáo phái đến với nhau để phục vụ mọi người trong cộng đồng. Họ không chỉ nói suông; lời nói của họ đi đôi với việc làm. Họ xuống đường vào các ngày thứ bảy trong một phong trào tình nguyện với quy mô lớn, sơn những vòi nước cứu hỏa ở ven đường, sửa chữa những ngôi nhà, làm vệ sinh đường phố, xén cỏ, làm việc vặt, chuyển đồ đạc, và làm bất cứ việc gì khác mà họ có thể để tạo ra sự thay đổi tích cực trong cuộc sống của những người sống trong cộng đồng.
Tôi đã nói với Jay rằng thật khó để đoán ra người tổ chức những sự kiện này, bởi vì tất cả mọi người đều đi đầu trong việc phục vụ và chăm sóc người khác với tinh thần tự nguyện. Thật thú vị, Jay đã tiếp tục hoạt động phục vụ cộng đồng của anh đúng vào thời điểm anh đang phải trải qua thách thức. Trước đó anh đã tham gia hoạt động thiện nguyện khắp thế giới trong mười lăm năm, đi đến hai mươi bốn quốc gia, làm việc với rất nhiều những người tình nguyện trẻ. Sau đó, vào năm 2006, Jay trải qua một mùa khó khăn và cần phải ở gần gia đình để tập trung chăm sóc bốn đứa con nhỏ. Anh trải qua cái mà anh gọi là “một mùa đổ vỡ”, và anh hiểu ra rằng những ngày đi khắp thế giới hoạt động nhân đạo của anh đã kết thúc, ít nhất là vào thời điểm đó. Anh đã quay về Bend, thành phố quê hương anh ở Oregon, quyết định sử dụng sức lực và lòng nhiệt tình mà trước đây anh đã dồn cho việc thiện ở những nơi như Uganda, Ukraine cho quê hương anh.
Trong giai đoạn khó khăn đó, người lãnh đạo phục vụ cộng đồng này đã không chìm đắm trong nỗi buồn của riêng mình mà thay vì thế, anh tìm đến với người khác để giúp đỡ họ. Bend là một thành phố khá thịnh vượng, nhưng nhiều người dân ở các vùng ngoại ô đang phải vật lộn với tình hình kinh tế suy thoái cũng như nạn bạo lực và ma túy. Vậy nên Jay quyết định tập trung những nỗ lực của mình vào những khu vực cần sự giúp đỡ.
“Chúng tôi không có tiền, nhưng chúng tôi dám nghĩ dám làm, bắt đầu thực hiện dự án phục vụ cộng đồng đầu tiên của chúng tôi với một trăm năm mươi người tình nguyện đến từ các nhà thờ khác nhau – chỉ để thấy tuyết phủ ngập đường trong ngày đầu tiên”, anh nói. “Kế hoạch của chúng tôi tưởng chừng bị tuyết phá hỏng. Thay vì bỏ cuộc, chúng tôi lấy xẻng, xe tải và máy ủi tuyết, dành cả ngày dọn tuyết khỏi các lối đi và các vỉa hè để mọi người có thể đi lại. Trong khi làm việc đó, chúng tôi phát hiện và giúp đỡ nhiều người cao tuổi cũng như những người khác bị mắc kẹt vì tuyết rơi.”
Họ đã nói chuyện với một ông già khi ông đang cố gạt tuyết khỏi mái nhà. Trong khi nói chuyện, ông ngất đi vì kiệt sức. Một số người tình nguyện đã chăm sóc ông và giúp ông làm nốt việc dọn tuyết. Một ngày phục vụ cộng đồng với những nỗ lực tập thể đã kết thúc bằng một buổi liên hoan: buổi biểu diễn của ban nhạc Elliot, và đây cũng là phần quan trọng của ngày hoạt động tình nguyện vì họ đã thu hút thêm gần bảy trăm bạn trẻ ở độ tuổi mới lớn.
Dù bắt đầu dự án vào một ngày tuyết rơi, thành công của sự kiện đầu tiên đó đã biến niềm tin của Jay và ban nhạc Elliot thành hành động theo một cách thật tuyệt vời. Trong những năm tiếp theo họ tổ chức hơn mười lăm sự kiện tương tự ở mười bảy thành phố của Oregon, trong đó có những sự kiện thu hút hai nghìn năm trăm người tình nguyện từ mười bảy nhà thờ tham gia làm những công việc hữu ích vì cộng đồng.
Tôi biết điều đó bởi vì tôi đã diễn thuyết tại một số sự kiện đó. Năm 2010 tôi xuất hiện trước hơn tám nghìn người tại một sự kiện của dự án I Heart Central Oregon ở trung tâm Expo. Chúng tôi bổ sung vào sự kiện đó phần thể hiện tình cảm qua những cái ôm, và tôi đã lập kỷ lục thế giới, Kỷ lục Người thực hiện nhiều cái ôm nhất trong một giờ . Tôi đã ôm 1.749 người trong một giờ. Bạn có thể thấy video về kỷ lục này trên trang YouTube.com. Diễn viên hài Nick Cannon, chồng của nữ danh ca Mariah Carey, đã cố gắng phá vỡ kỷ lục này nhưng anh không thành công. Tôi đoán rằng anh không được trang bị đầy đủ để đánh bại tôi.
Mục đích quan trọng hơn của Jay qua những chiến dịch phục vụ cộng đồng là chứng minh niềm tin trong hành động của người Cơ Đốc giáo bằng cách phục vụ người khác, đồng thời mở ra những kênh thông tin và phá vỡ những bức tường ngăn cách giữa những nhà thờ và những giáo phái khác nhau. Cũng giống như tôi, Jay tin rằng các nhà thờ là nguồn hy vọng của thế giới. Trong khi tôi có thể đến một nơi nào đó với tư cách là một nhà truyền giáo truyền cảm hứng, sự khích lệ và hy vọng đến cho mọi người, chính nhà thờ và hội truyền giáo ở địa phương đó là nguồn khích lệ và hy vọng luôn sẵn có để phục vụ và yêu thương mọi người trong cộng đồng ở đó. Đó là lý do tại sao chúng tôi lo lắng khi thấy các nhà thờ không hợp tác cùng nhau để nhân rộng những hạt giống tốt.
Cùng với sự khiêm nhường và tinh thần tập trung hướng tới lợi ích chung, một phần không nhỏ của việc trở thành một người lãnh đạo các hoạt động phục vụ cộng đồng là lắng nghe để biết người khác cần gì hơn là áp đặt những gì bạn muốn cho họ. Jay rất nhạy cảm trước thực tế rằng một số nhà thờ có ít nguồn lực tài chính hơn những nhà thờ khác, bởi vậy anh luôn cố gắng huy động các nguồn tài trợ để tránh đặt sức ép tài chính lên vai những người tham gia.
Ở một thành phố thuộc Oregon có nhiều người dân nghèo, Jay và đội tình nguyện của anh đã quyên góp được nhiều hơn cả số tiền cần thiết cho dự án của họ. Quả thực sau khi thực hiện dự án ở địa phương này, họ còn thừa bảy trăm đô la. Một trong những mục sư tham gia dự án gợi ý cách sử dụng số tiền đó trong mùa Giáng sinh: Họ cho các thành viên của nhà thờ mượn số tiền đó và giao cho những người ấy nhiệm vụ nhân số tiền gốc này vì mục đích từ thiện theo bất cứ cách nào mà họ có thể, dù là cách mua kẹo giảm giá để đem bán, hoặc sử dụng nó mua nguyên liệu làm nước chanh để bán, hoặc mua nhiên liệu cho các máy xén cỏ để đi xén cỏ thuê. Bảy trăm đô la ấy đã được nhân lên thành mười nghìn đô la và được sử dụng cho các dự án như dự án tặng các vật dụng sinh hoạt cho những người vô gia cư, giúp các bà mẹ đơn thân mua quà Giáng sinh, tặng đồ chơi cho những trẻ em bị ngược đãi và những hoạt động từ thiện khác.
“Chúng tôi làm những việc đó để mọi người thấy được tình yêu của chúng tôi được thể hiện qua việc phục vụ người khác. Đó là một cách để cộng đồng biết rằng nhà thờ của họ quan tâm đến họ. Chúng tôi không thuyết giảng để hạ thấp họ, chúng tôi phục vụ họ”, Jay nói. “Và chúng tôi không định biến những ngày phục vụ cộng đồng của mình thành sự kiện chỉ xảy ra một lần. Thường thì sau khi chúng tôi đi khỏi một địa phương nào đó, mối quan hệ giữa các nhà thờ và các thành phố vẫn tiếp tục phát triển. Chúng tôi đã thấy những mối quan hệ như thế phát triển ở những nơi mà các thị trưởng có thể gọi điện cho các mục sư và đề nghị các giáo đoàn chung tay giúp họ trong các hoạt động vì cộng đồng. Khi mọi người đã cảm nhận được niềm vui của việc phục vụ cộng đồng, họ muốn tiếp tục tham gia các hoạt động thiện nguyện.”
Jay và những người lãnh đạo việc phục vụ cộng đồng thường có một số đề nghị hơi khác thường trước khi họ tình nguyện phục vụ một cộng đồng nào đó. “Chúng tôi nói với họ rằng chúng tôi có năm trăm người tình nguyện, vậy chúng tôi có thể làm gì cho thành phố của họ? Một thành phố không thể chi tiền để xén cỏ ở các nghĩa trang của thành phố bởi vì ngân sách bị cắt giảm, vậy nên các nhà thờ phải lo việc đó và giờ đây những người tình nguyện đảm nhận nhiệm vụ này. Những hoạt động như thế mở ra những cách thức mới để các nhà thờ phục vụ cộng đồng”.
Các quan chức của thành phố Bend nói rằng họ không có ngân sách để sơn lại tất cả những vòi nước dùng để tiếp nước cho các xe cứu hỏa ở ven đường trên khắp thành phố, trong khi việc sơn lại những vòi nước đó lại là một việc cần thiết cho công tác cứu hỏa. Trong ba sự kiện của I Heart Central Oregon được tổ chức trong hơn hai năm, những người tình nguyện đã sơn lại ba mươi sáu điểm tiếp nước cho xe cứu hỏa, tiết kiệm cho thành phố hàng nghìn đô la. Ý tưởng của Jay và các tình nguyện viên là để mỗi thành phố tự xác định mình cần được phục vụ như thế nào, để tạo lòng nhiệt tình và tinh thần thiện nguyện trong cộng đồng. Ở một số thành phố, Jay và đội tình nguyện của anh cũng hợp tác với những tổ chức phi lợi nhuận như các ngân hàng lương thực của địa phương, những bếp ăn từ thiện, những trung tâm tạm trú cho phụ nữ, các tổ chức nhân đạo như Head Start , hoặc Habitat.
“Chúng tôi hợp tác với các tổ chức đó như một chất xúc tác. Thường thì ban đầu các mục sư khá e ngại nhưng sau đó những bức tường được dẹp bỏ và tất cả chúng tôi cùng cầu nguyện, cùng ăn và làm việc với nhau. Đà tích cực của các hoạt động đó được đẩy mạnh và ở thành phố tiếp theo chúng tôi đến, người ta đã nghe nói đến những gì đã diễn ra ở thành phố trước đó nên mọi người thường cởi mở và phấn khởi hợp tác cùng nhau vì lợi ích chung.”
Tôi rất vui khi kể với các bạn rằng mới đây Jay đã chuyển tới California. Anh và tôi hy vọng sẽ hợp tác với nhau trong một loạt các hoạt động chung: thể hiện tình yêu và niềm tin bằng hành động để phục vụ người khác và khơi gợi tinh thần phục vụ bằng chính việc làm của mình.
Bạn biết đấy, ở vai trò người lãnh đạo, điều quan trọng của việc gieo những hạt giống tốt lành không phải là thực hiện những dự án lớn như những dự án mà Jay đã tổ chức rất tốt. Ngay cả những hành động nhỏ xuất phát từ tinh thần phục vụ người khác cũng có thể tạo ra sự thay đổi lớn đối với ai đó. Jay đã nhắc tôi nhớ tới một chuyện xảy ra tại một trong những sự kiện mà Jay và các tình nguyện viên đã tổ chức ở Oregon.
Dạo đó tôi diễn thuyết ở Oregon, cố gắng thăm một loạt các trường trung học ở đó trong một ngày. Sau khi diễn thuyết tại một ngôi trường đặc biệt, chúng tôi vội vàng rời khỏi trường bởi vì (như mọi lần) chúng tôi có nguy cơ bị muộn giờ. Tôi không có thời gian để ôm bất cứ khán thính giả nào muốn tới để ôm tôi, và đó là điều rất không bình thường đối với tôi. (Tôi thích được ôm mọi người và được mọi người dành cho những cái ôm trìu mến).
Trên đường đi ra khỏi hội trường, tôi tình cờ nhìn thấy một cái đầu không có tóc, một điều không thường thấy trong một đám đông học sinh ở tuổi mới lớn. Tôi dừng xe lăn lại, ngồi thẳng người lên để nhìn và nhận ra một cô bé dường như bị rụng tóc do điều trị hóa chất. Tôi đã từng thăm nhiều bệnh nhân ung thư. Tôi biết vẻ ngoài của những người bị ung thư phải điều trị hóa chất.
Tôi điều khiển xe lăn tới gần chỗ cô ngồi ở cuối lối đi trong hội trường và nói: “Em gái, em hãy ôm anh một cái nào”. Không cần phải nói các bạn cũng biết tôi chẳng còn lo bị muộn giờ của buổi diễn thuyết tiếp theo nữa. Cô bé giang tay ôm tôi, rồi cô bật khóc, tôi cũng khóc, tất cả các giáo viên và học sinh ở xung quanh cũng khóc.
Tại sao chúng tôi lại khóc? Tôi không thể nói chính xác điều gì đang xảy ra với cô bé và những người ở xung quanh chúng tôi, nhưng đối với tôi, tôi khóc vì tôi biết ơn cơ hội được phục vụ những người đang gặp khó khăn, thách thức.
Thật khó để tôi diễn tả cảm xúc đó bằng lời, nhưng bức thư này của một cô bé mà tôi gọi là Bailey có thể tóm tắt một cách đầy đủ hơn cái trải nghiệm thay đổi cuộc sống của một người đi tiên phong trong việc phục vụ người khác.
Mười hai năm trước, mẹ của em dẫn em đi làm tình nguyện tại một trại dành cho những người lớn bị khuyết tật về phát triển. Tại trại của người theo Cơ Đốc giáo này, mỗi người tình nguyện được giao giúp đỡ một người lớn bị khuyết tật trong thời gian một tuần. Với một đứa trẻ mười hai tuổi như em, có lẽ không có gì tồi tệ hơn là bị buộc phải ở cả tuần cùng với những người khuyết tật .
Mẹ em không cho em được lựa chọn, và mẹ chắc chắn không cho em cách nào để thoát ra khỏi tình cảnh “tồi tệ” đó. Em nôn nao cả người khi phải ngồi đó trong sự căng thẳng. Sau đó, các nhân viên của trại phát cho chúng em những bản đăng ký và dưới mục “khuyết tật” em thấy có những chữ được in đậm to tướng: Hội chứng Down.
Cầm bản đăng ký vừa được phát, hai tay em run bần bật khi em cố chuẩn bị tinh thần để gặp người mà em đã đăng ký hỗ trợ vào ngày hôm sau. Suốt đêm hôm đó em trở mình trằn trọc, tự hỏi tại sao Chúa lại đẩy em vào một tình huống khiến em sợ hãi và khó chịu như thế.
Sáng hôm sau, sau khi ăn sáng, các trại viên đến và những gì em thấy khiến em hoảng sợ hơn cả những gì em đã hình dung. Em có thể nhận dạng được từng trại viên bước ra khỏi xe ô tô nhờ khuyết tật của họ - hội chứng Down, chứng tự kỷ ám thị, chứng liệt não. Quả thực em đã thấy tất cả những chứng bệnh đó ở các trại viên tiếp tục đến trại. Cuối cùng, khi một cô gái bé nhỏ lặng lẽ bước xuống từ một chiếc xe tải nhỏ, người ta gọi tên em. Em ngượng ngùng bước tới và giám đốc của trại giới thiệu em với Schanna, trại viên mà em được giao giúp đỡ trong một tuần. Em không biết phải nói gì ngoài hai tiếng “xin chào”, nhưng trước khi em kịp thốt ra hai tiếng đơn giản đó, Schanna đã choàng tay quanh cổ em và dành cho em một cái ôm nồng ấm nhất mà trước đó em chưa từng trải nghiệm.
“Chị nóng lòng được làm bạn của em trong tuần này”, chị ấy nói, nắm tay em và kéo em đi tham gia hoạt động đầu tiên của trại. Làm thế nào mà một người vừa mới gặp em lại yêu quý em vô điều kiện như vậy? Chị ấy đâu có biết em học lớp mấy, em có bao nhiêu bạn và em có được mọi người biết đến hay không. Chị ấy đâu biết em là người như thế nào. Ngay trong buổi tối hôm đó mọi bức tường của sự nghi ngại, mọi rào cản của sự sợ hãi đã bị dẹp bỏ hoàn toàn bởi một người ở tuổi trường thành bị khuyết tật phát triển, và điều đó đã cho em và Schanna một cơ hội để trở thành bạn của nhau.
Đã mười hai năm kể từ tuần đầu tiên của em ở trại dành cho người khuyết tật ấy. Sau tuần ấy mẹ em không còn phải la ó hay ép buộc em làm những việc đó nữa. Kể từ đó em tự nguyện dành hơn ba mươi tuần trong mười hai năm cho trại, và em không chỉ là một tình nguyện viên, mà còn là một nhân viên của trại.
Hai mùa hè gần đây em trở thành một trong những nhân viên của trại, đảm nhận công việc trợ lý của giám đốc trại, và không gì khiến em vui hơn là được thấy những người lần đầu đến làm tình nguyện tại trại một tuần trong tình trạng lo lắng buồn lòng để rồi chẳng bao lâu sau được thấy những bức tường ngăn cách ấy bị dẹp bỏ bởi những con người bị xã hội của chúng ta bỏ quên.
Nhờ quãng thời gian em ở trại đó và rất nhiều giờ em dùng để phục vụ những người khuyết tật về phát triển mà mùa thu tới, em sẽ vào học tại một trường đào tạo sau đại học để lấy bằng về tư vấn. Mục tiêu của em là một ngày nào đó em sẽ trở thành người tư vấn cho các bậc phụ huynh, những người phát hiện ra con mình có khuyết tật – dù đó là khi họ phát hiện ra con mình mang thêm một nhiễm sắc thể thừa trước khi chào đời hay khi một người mẹ bắt đầu nhận thấy những dấu hiệu của chứng tự kỷ ở con mình.”
Bailey đã diễn tả niềm vui của người có niềm đam mê giúp đỡ người khác một cách thật tuyệt vời trong bức thư cô gửi cho tôi, đúng không bạn? Khi bạn giúp đỡ người khác, trái tim của bạn cũng được chữa lành. Một trong những niềm vui lớn nhất mà tôi nhận được là thấy ai đó thành công hoặc dành cả cuộc đời để khích lệ và truyền cảm hứng cho người khác. Thoạt đầu Bailey đã ngần ngại, nhưng rồi cô đã học được một bài học tuyệt vời trong khi cô làm việc tại trại dành cho người khuyết tật.
Tôi nghĩ quả là một trải nghiệm tuyệt vời khi những người trẻ tuổi tham gia hoạt động phục vụ và giúp đỡ người khác như Bailey đã làm – cho dù đó là hoạt động tình nguyện ở một nhà dưỡng lão, hoạt động giúp đỡ người khuyết tật hay giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn tại những trung tâm dành cho người vô gia cư.