← Quay lại trang sách

Linh thạch Tác giả : Trần văn Thước

Thuần sang nhà đúng lúc tôi đang chuẩn bị xe thồ cho việc ngày mai. Tôi hẫng một câu đùa. Thuần ngồi phệt xuống hiên, buồn bã:

- Cừ này, tớ sang báo cậu hoãn việc ngày mai.

Tôi đớ người ra. Cả buổi chiều hai thằng rạc cẳng mới kiếm được việc làm. Hai mươi khối đất từ bãi sông Lăng về làng, quãng đẩy ngót một cây số, tiền công hai trăm bốn chục nghìn. Xương thì xương nhưng còn có cái mà gặm! Cơn cớ gì Thuần giở bài “trút non”. Tôi dằn mỏ-lết đánh kịch xuống sân.

- Đã nhận với người ta rồi bỗng dưng bỏ việc. Vừa mất tiền lại mang tiếng. Lần sau có ma nó thuê mướn.

- Biết thế. Nhưng ngày mai mình phải vào chỗ làm cũ.

Suýt nữa tôi quát lên: “Cậu điên à”. Thuần đi “đợi mùa” về chưa đầy nửa tháng. Ngót hai tháng trời vác thuê chở khoán công xá chỉ đủ mua nửa chiếc xe thồ.

“Thà ở nhà đi đánh dậm còn hơn”. Chính Thuần nói với tôi như thế. Giờ ma quỷ nào xui khiến Thuần đi tiếp? Hay là... Tôi buột miệng:

- Vợ chồng cậu hục hặc phải không?

Thuần lắc đầu:

- Không! Mình phải đi vì một chuyện lạ lắm. Cậu đi với mình, được không?

Tới lúc này tôi mới để ý thấy gương mặt Thuần nhợt đi và trong đáy mắt đầy ắp lo âu. Chưa bao giờ tôi thấy thần thái như thế nơi Thuần. Tôi bối rối không giữ được bình thường giọng nói:

- Có việc gì vậy Thuần?

- Chuyện lạ lắm. Cho mình chén nước đã.

Uống liền hai chén nước, Thuần nắm chặt cái chén trong lòng tay, nhìn xa xăm thủ thỉ như độc thoại, như không có tôi ngồi trước mặt... Bến Quảng không lớn nhưng khá tấp nập tàu thuyền. Đây là bến đầu mối vật liệu của thành phố trẻ và khu công nghiệp lớn.

Tôi hình dung ra Thuần mồ hôi nhễ nhại, sọt đá trên vai, lầm lũi vượt dốc đưa tám mươi tấn đá cập bến. Nhóm bốc vác hai mươi người, nội mười hai tiếng đồng hồ phải giải phóng xà lan. Không xong là không công xá. Chủ thợ đã thỏa thuận từ trước.

Đột ngột, ông chủ điều năm người lên khu khai thác. Thuần và Hậu ở trong số ấy. Hậu quê Hưng Yên, là bộ đội phục viên, lớn tuổi nhất nhóm. Ba cậu trẻ hơn bất tuân lệnh ông chủ. Họ rủ Thuần đi tìm việc khác. Ở bến Quảng không thiếu việc làm. Thuần đang phân vân thì Hậu vỗ vai:

- Đắn với đo làm quái gì cho mệt. Thân phận làm thuê mô tê như rứa cả. Ông chủ chỉ đâu đánh đấy. Miễn đừng trả công bèo, bắt đánh sai luật, còn thì chơi tuốt.

Tám giờ tối có xà lan ngược bến. Thuần và Hậu xin đi nhờ. Ra khỏi bến một quãng, xà lan giảm tốc độ, đón thuyền đưa khách. Khoang thủy thủ lập tức biến thành cái bến Quảng di động. Cờ bạc, hút chích, làm tình công khai. Thuần và Hậu lánh ra khoang hàng. Trời mưa lâm thâm. Hai người trùm bạt ngủ tít.

Nơi làm mới nhưng vẫn việc cũ. Có khác chăng là chiếc xe cải tiến thay cho cái sọt sắt. Những chiếc xe cải tiến được tôn cao thành để tăng sức chứa. Quãng đường từ bãi khai thác ra bến chừng bảy trăm mét, một bên vực cạn một bên vách đá, dốc đứng, xe đá xuôi một lèo vào bụng xà lan.

Tôi như nhìn thấy quãng đường hun hút, gập ghềnh. Và những xe đá chất ngất ngọn. Các anh tài bặm môi trừng mắt dồn hết sức lực xuống càng xe, hãm bớt sức lao dốc. Lơ mơ là xe đá nặng bất tuân sự điều khiển của con người. Hoặc lao xuống vực. Hoặc đâm vào vách đá. Tôi rùng mình buột miệng:

- Tai nạn như chơi!

Nhưng Thuần không nghe thấy lời thốt của tôi.

Trong lòng tay Thuần, chiếc chén đã thôi xoay nhưng đường gân ngón xiết báo trước nó có thể vỡ bất cứ lúc nào trong khi Thuần vẫn thủ thỉ như độc thoại, như không có tôi ở bên cạnh... Một hôm, Hậu đi chơi rất khuya mới về. Thuần vẫn thức chờ, hỏi nhỏ:

- Anh đi ngồi chiếu phải không? Sạch bách rồi chứ gì!

Hậu bực dọc:

- Đâu có. Tao vào xóm chơi. Dân xóm núi hiền thật. Phải như nơi khác thì bọn mình nhừ đòn.

- Sao vậy?

- Còn sao! Địa điểm được phép khai thác cách đây năm cây số. Ông chủ lo lót thế nào mà được tàn phá chỗ này.

- Chỗ này gần đường tiện bến. Ông chủ có lợi, thợ thuyền được hưởng sái. Anh không thích thế sao?

- Nói như cậu ấy!

Hậu vùng vằng bỏ ra ngoài. Linh cảm có chuyện gì đó không bình thường, Thuần ra với Hậu. Đêm đã rất khuya. Trăng sáng. Khí núi đá lành lạnh. Hậu đứng dựa vách lán, hai con mắt đăm đăm. Thuần có cảm giác Hậu sẽ gục xuống bất cứ lúc nào dù đã dựa hẳn vào bức vách chắc chắn.

- Anh Hậu! - Thuần thốt lên, không hiểu mình định nói gì.

Hậu như bừng tỉnh, khoát tay về phía dãy núi trước mặt.

- Cậu có nhìn thấy không? Hai khối đá hình nhân kia là cả một câu chuyện về những lẽ đời. Mãi tối nay ngồi uống chè với các già, mình mới biết. Hình nhân lớn là Đá Chồng, xê sang trái, thấp hơn là Đá Vợ. Bên hai người không có am miếu thờ nhưng hàng năm vào ngày rằm tháng tư, dân xóm núi vẫn dâng hương tưởng niệm. Ngày kia rằm, thế mà sáng mai cánh thợ khoan nổ mìn phá Đá Chồng... - Hậu đứt lời ngồi sụp xuống chân vách lán.

Tôi nghe thấy không phải lời Thuần thủ thỉ mà như từ xa vời vọng về lời người già xóm núi. Bên bếp lửa nhà sàn chậm chạp và yếu ớt, người già kể cho con cháu truyền thuyết của làng...

Xóm Núi ngày xưa. Lúa là cô gái nết na, xinh đẹp. Ngô là chàng trai giỏi việc, hiền lành. Trước cả khi chàng và nàng thầm yêu trộm nhớ, dân quanh vùng đã bảo ông Trời sinh ra Ngô, Lúa là để hai đứa nên vợ nên chồng. Như cây lúa đến thì lúa trổ, cây ngô đến kỳ lên cờ kết bắp. Người già chọn cho đôi trẻ một ngày đầu thu. Đám cưới Lúa, Ngô là ngày hội của xóm Núi. Nhưng ngày vui chẳng tày gang. Hạnh phúc của vợ chồng Lúa, Ngô là cái gai chọc vào mắt đám con nhà giàu có quyền bính. Bởi nàng Lúa nhiều lần từ chối lời cầu hôn của đám ấy. Một hôm, nàng Lúa về thăm đẻ ốm. Quãng nửa đêm, Ngô thức giấc vì tiếng gọi cửa xin nước uống. Lòng ngay, Ngô mở cửa mời khách đi đường. Cả chục thằng người bịt mặt gậy gộc xông vào. Một mình Ngô giữa vòng đòn hội chợ. Lũ người bịt mặt khênh chàng ném lên nương dưa. Tinh mơ, tuần đinh khua mõ réo làng có vạ. Quan làng phạt kẻ trộm dưa ba xâu bạc trắng và một đôi lợn béo. Nàng Lúa đội đơn kêu oan. Quan huyện bác đơn. Quan tỉnh bác đơn. Dân xóm Núi quyên góp được món tiền cho nàng Lúa về kinh kêu cứu. Nhưng đám quan nha ngựa xe nhanh hơn nàng. Nàng Lúa bị kết tội vu khống, phạt năm chục gậy trước án một mùa rẫy lao tù.

Lại nói về chàng Ngô. Trận đòn hội chợ khiến chàng bị liệt tay phải, thành tật khoèo chân trái. Một tháng... ba tháng... chồng bặt tin vợ yêu. Luống cà chua ngày nào vợ vun chồng tưới đã qua xanh đến rực hồng luống đất. Ngày ngày chàng Ngô lết lên triền núi đầu thôn ngóng xuôi con đường. Cho đến một ngày kia. Nỗi buồn ngơ ngác của lũ trẻ chăn trâu khiến người lớn phải để tâm. Ngần ấy đứa trẻ một câu trả lời: Chú Ngô đi đâu đã ba ngày nhà kín cửa, bếp không khói. Dân xóm hò nhau đốt đuốc đi tìm. Khi những ngọn đuốc sắp tàn, không hẹn mà người đi tìm tụ cả lại ở lưng núi Gội. Những ngọn đuốc sắp tàn chợt bừng sáng. Một cậu bé đi theo chợt kêu lên, chạy ào lên đỉnh núi. Dân xóm ùa theo. Mọi người hết sức kinh ngạc, vội quỳ xuống. Trên đỉnh núi từ lúc nào hiện lên khối đá hình người đứng nhìn xuôi con đường thiên lý.

Cũng ngày hôm ấy nơi kinh kỳ nàng Lúa mãn hạn tù. Ngót tháng trời thân gái dặm trường. Nửa đêm trăng sáng nàng về tới bên này núi Gội. Nàng vượt núi rút ngắn đường về. Lên đến đỉnh núi, nàng ngạc nhiên dừng lại. Trước mặt nàng là pho tượng đá chung quanh đỏ rực hương trầm. Nàng đồ rằng có việc hệ trọng dẫn tới việc dân xóm dựng tượng phụng thờ. Nàng quỳ xuống chắp tay cung kính: “Kẻ dân quê này tù tội trở về chưa được biết linh danh, xin Người rộng lòng tha thứ. Mai ngày rằm vợ chồng con xin dâng lễ tạ tội”. Đi được một quãng, nàng Lúa nghe vẳng tiếng gọi tên mình. Lại như có bàn tay vuốt mái tóc nàng. Và đằng kia, những nén hương trầm bùng lên ngọn lửa. Ngọn lửa lan lan quấn quýt quanh nàng. Ngọn lửa réo rắt kể với nàng chuyện hôm nào của xóm Núi.

Sáng mai, lại vẫn lũ trẻ chăn trâu báo cho dân xóm biết sự lạ nữa trên đỉnh núi...

Câu chuyện Thuần đem về từ miền cao nguyên đá đã cuốn hút tôi. Một lần nghe đã chắc tin câu chuyện khó mà quên được. Truyền thuyết dựng lên trong ký ức của tôi hình ảnh hai khối đá hình người. Tượng đá với điệp trùng núi đá. Với con đường... Và mối liên tưởng mơ hồ về công lý ngày xưa - bây giờ...

Thuần vẫn thủ thỉ như độc thoại, như không có tôi bên cạnh.

Chín giờ sáng. Tiếng mìn nổ dây chuyền. Cơn bão đá khủng khiếp kéo dài cả giờ đồng hồ. Vạt núi chân Đá Vợ biến mất. Đá Chồng đứng chơ vơ trong quầng quầng khói bụi.

Xế chiều, trời mưa lâm thâm. Xà lan liên tục hú còi thúc cánh vận chuyển. Đoàn xe đá nối nhau lao dốc, mất hút vào bụng xà lan. Thuần nhìn suất đá quyết định tăng trọng giảm chuyến. Mười bảy chuyến sẽ chỉ là mười, mười một. Suất đá “ăn thêm” dễ dàng ngon lành trước mười hai giờ đêm.

Mưa mỗi lúc một dày hạt. Dốc bến ngập ngụa trơn nhẫy. Lơ mơ là tai nạn. Thuần dồn hết sức xuống đôi càng xe. Tốp phía sau thúc vống lên. Thuần ngoái đầu toan vặc lại. Roắc... Roắc... Càng xe gẫy gục. Thuần lỡ đà trượt chân ngã lăn lông lốc xuôi dốc. Xe đá hằm hằm lao theo. Còi xà lan rú. Những tiếng thét tuyệt vọng...

Tôi đã đúng. Cực kỳ đúng một lời khuyên. Hai tháng trước, trong số bạn bè, tôi là người duy nhất gàn việc Thuần đi kiếm việc đợi mùa. Họa có hâm, có gì gì... mới để cô vợ xinh đẹp mới cưới “chưa bén hơi” đêm đêm vò võ. Cứ cho là công xá cao đi. Nhưng tiền bạc nào đủ sức khỏa lấp hai đầu nỗi nhớ. Ôi chao! Cái cục tiền công Thuần mang về kia đủ mua nửa chiếc xe thồ. Và, Thuần đang nói đó thôi! Hậu và Thuần phá ngang hợp đồng chịu phạt tiền công mới được tháo về.

Tôi hình dung ra Thuần toòng teng ba lô đứng nép nhìn qua khe cửa. Trong nhà sáng đèn. My ngồi cặm cụi với khung nón. Lời đùa Thuần chuẩn bị dọc đường về không vượt qua được tiếng gọi của nỗi niềm:

- My ơi.

- Ôi! Anh.

Họ lao vào vòng tay nhau, mặt áp mặt. Khoảnh khắc ấy qua nhanh. My thoáng hụt hẫng. Thuần tinh ý đặt ba lô vào tay vợ:

- Trong này có vật báu, em cất kỹ cho anh.

My nhắc nhắc ba lô:

- Báu vật gì mà nặng như đá thế này?

- Đúng là đá đấy. Em giỏi đoán thật. Đá vô tri vô giác mà cứu được chồng em thoát chết đấy. Lát nữa anh sẽ kể em nghe.

Thuần vặn nhỏ ngọn đèn, lên giường. Ngót hai tháng trời, hơn năm mươi đêm vợ chồng son trẻ mới lại bên nhau. Vậy mà Thuần không mảy may ham muốn. Hình như My cũng thế. Cô ngay đơ và nhanh chóng ngủ thiếp. Thuần khó khăn giấc ngủ sau đẫy ngày tàu xe nắng gió. Mỗi lúc gắng vượt qua lằn ranh giữa mơ và tỉnh, Thuần lại giật mình lõa mồ hôi.

Văng vẳng đâu đó tiếng đá văng xe đổ, những tiếng hét. Thuần sực nhớ chưa kể với My chuyện vật báu. Thuần khẽ lay vai vợ:

My ơi...

... Đó là một đêm mưa chân núi Gội. Xe đổ càng gẫy, Thuần đổi xe khác. Nghỉ năm mươi phút ăn cơm. Vào suất đá thứ hai, Thuần “đánh” theo cách của Hậu: giảm trọng tăng chuyến. Bốn chuyến ngon lành. Chuyến thứ năm, vừa đến chỗ xe đổ ban chiều, Thuần bị vấp. Xe nhẹ tải, Thuần dễ dàng làm chủ tay lái. Chuyến thứ sáu, thứ bảy... Chuyến thứ chín, thứ mười... Cả chục chuyến cứ đến chỗ xe đổ, Thuần lại bị vấp. Chuyến thứ mười ba, cú vấp mạnh làm tóe máu đầu ngón chân cái. Thuần gồng mình, tạt xe dựa vào vách núi. Hậu chạy lên ngó qua, lắc đầu:

- Còn may đấy. Nghỉ đi. Còn vài chuyến nữa để tao “ăn” hộ. Bảo phải nghe.

Sáng mai thức dậy, Thuần ngạc nhiên thấy Hậu ngồi góc sạp, vẻ mặt tần ngần rất lạ. Thuần nhao lại hỏi:

- Có chuyện gì thế, anh Hậu?

Hậu gật, lật gối cầm lên hòn đá cỡ um tay:

- Chiều hôm qua không có hòn đá này chặn bánh xe, giờ này chắc cậu nằm đắp chiếu chờ hậu sự rồi.

Hồi đêm hơn chục lần cậu vấp hòn đá này.

- Sao anh biết?

- Hòn đá còn vết máu. Nhưng có chuyện lạ nữa, đêm rồi mình không sao ngủ được. Hễ chợp mắt là thấy lượn tròn trước mắt hòn đá nhỏ. Rồi như có ai cầm tay mình dắt ra dốc bến, bảo dừng lại ở chỗ xe đổ. Mình nhặt lên hòn đá giống hệt hòn đá nhìn thấy trong lúc mơ màng. Mình nghĩ, hình như có cái gì đó can dự vào chuyện này. Không bỗng dưng hòn đá nhỏ cản được, đổi hướng chiếc xe nặng. Không bỗng dưng cứ đến chỗ xe đổ cậu lại vấp hòn đá ấy. Hòn đá này dù sao cũng là vật cứu mạng. Cậu hãy giữ lấy...

Thuần im lặng, xoay xoay cái chén vài vòng rồi đặt lại khay. Lo âu vẫn đầy trong đôi mắt Thuần. Tôi muốn hỏi Thuần một câu nhưng câu hỏi bị chính nỗi lo mơ hồ trong tôi chặn lại.

Tôi như nhìn thấy vào lúc nửa đêm Thuần choàng thức. My ngồi giữa giường, mái tóc dài buông xõa, hai mắt trân trân.

- Em làm sao thế?

- Em vừa có giấc mơ lạ lắm. Hòn đá trong hòm trồi ra, sáng rực, quay tròn trong buồng.

Thuần cố nín cười.

- Thế mới gọi là mơ mộng chứ. Ngủ tiếp thôi em.

Mấy đêm liền cứ đến giờ ấy Thuần lại vỡ giấc và thấy My ngồi giữa giường, tóc buông xõa, hai mắt trân trân. Vẫn giấc mơ như những đêm trước.

Cho đến đêm kia, ngày rằm. Vợ chồng Thuần đi ngủ sớm. Giấc ngủ như bình thuốc mê vô hình chỉ chờ vợ chồng Thuần lên giường là mở van xịt hết cỡ.

- Anh Thuần.

Thuần trộc dậy. My ngồi giữa giường, tóc buông xõa, hai mắt trân trân.

- Em lại mơ à!

- Vâng. Thoạt đầu hòn đá trồi ra, sáng rực, bay tròn khắp buồng. Rồi có cô gái bước ra từ trong quầng sáng. Nàng trẻ đẹp lắm. Rồi em sẽ kể hai người phụ nữ có chồng nói với nhau những gì. Nhưng chuyện này thì không thể để ngày mai được. Đồng tiền hôm nay đã giết chết cô gái ngày xưa. Linh anh thể phách cô gái xóm Núi hội quy cả vào hòn đá anh mang về. Nàng nói, chồng nàng sắp bị giết lần nữa. Nàng muốn gặp chồng lần cuối. Em hứa bàn với anh giúp nàng việc ấy. Anh hiểu ý em không?

Thuần lặng lẽ đi lại góc buồng, mở hòm cầm lên hòn đá. Hòn đá lạnh ngắt lòng tay và như run rẩy. Lúc chiếc xe nặng đá của Thuần lao vùn vụt cách miệng vực chỉ gang tấc, chính hòn đá này đã bất ngờ khiến chiếc xe đá xoay ngang, đổ dựa vào vách núi. Hôm đó Thuần đã lồm cồm ngồi lên, phải mất mấy phút mới dám tin mình còn được sống...

Dễ có đến vài phút im lặng. Vài phút ấy tôi kịp pha ấm chè mới đặt trước mặt Thuần. Cầm chén nước lên tay, Thuần nhấp một ngụm, nhìn thẳng vào mắt tôi:

- Cậu có tin không?

Tin ư? Sẽ là không phải nếu tôi nói thật. Tôi chưa bao giờ tin vào mơ mộng, dù lắm giấc mơ y như thật. Giấc mơ, suy cho cùng, muôn đời là sản phẩm của giấc ngủ. Điều tôi quan tâm là việc khác. Từ hôm Thuần ở núi Gội về, hai vợ chồng trẻ mà cứ như đôi đực rựa, lên giường là ngủ tít. My xanh xao gầy rộc trông thấy. Ở cô không có dấu hiệu bệnh lý, cũng không phải là tín hiệu ốm mừng của vợ chồng trẻ. Chuyến đi ngày mai với vợ chồng Thuần không gì khác, là một liệu pháp tâm lý. Bạn bè vì nhau những lúc thế này. Tôi vỗ vai Thuần:

- Đêm nay cứ mơ đi. Ngày mai tớ sẽ đi với cậu.

Quá trưa chúng tôi mới đến khu vực núi Gội. Thuần đưa tôi đi vòng qua dãy lán xơ xác, tan hoang. Dấu vết còn lại chứng tỏ nơi đây vừa xảy ra cuộc chạy trốn của con người.

- Họ phá tan Đá Chồng rồi! - Thuần kêu lên, phăm phăm về phía chân núi.

Thực ra không còn núi. Chỉ thấy ngổn ngang đá tảng đủ hình thù kích cỡ chồng chất. Thỉnh thoảng, cơn gió thốc bụi đá bay mù mịt. Tôi dụi mắt bám theo Thuần. Qua khúc suối cạn, gặp lũ trẻ chăn trâu quây quần chơi bài tam cúc, tôi dừng lại.

- Chào các cháu. Vui quá nhỉ.

Lũ trẻ đứng cả lên. Một cậu bé nhanh nhảu:

- Các chú đi kiểm tra phải không ạ?

- Không! Chú có việc ngang qua đây - Tôi vỗ vai cậu bé - Ở đây vừa xảy ra chuyện gì vậy?

Cô bé lớn nhất bọn lễ phép:

- Núi lở chết người chú ạ. Ba người chết, bảy người bị thương. Những người sống sót tháo chạy. Cụ nội cháu bảo, núi giận, phạt người đấy, ai tháo chạy cũng chẳng được yên đâu chú ạ. Cả tuần nay ngày nào cũng có đoàn kiểm tra quay phim chụp ảnh. Người lớn buồn cười thật. Núi tan người chết rồi mới canh cấm.

Tôi chia tay lũ trẻ. Càng lên cao càng ngổn ngang đá. Tôi đi trên đá chất chồng. Phía trước, Thuần đi khó nhọc. Cứ vài bước lại cúi xuống nhặt lên hòn đá ngắm nghía rồi ném đi.

Gió thốc bụi đá bay mù mịt. Tôi đuổi kịp Thuần. Thuần dừng lại, nói:

- Chỗ chúng mình đứng đây là chân Đá Chồng. Thấp dưới kia, chỗ tảng đá nhọn đầu là nơi Đá Vợ.

Tôi im lặng. Còn gì nữa đâu! Chỉ thấy ngổn ngang đá tảng đủ hình thù, kích cỡ. Và bụi đá. Những cơn bão bụi đá.

- Thấy rồi Cừ ạ - Thuần thì thào, hai tay chìa ra hai hòn đá nhỏ - Cậu nhìn xem.

Trong lòng bàn tay trái Thuần là hòn đá mang từ nhà đi. Trong lòng tay phải Thuần là mẩu xác Đá Chồng. Hai hòn đá giống hệt nhau như đúc một khuôn. Thuần run giọng nói:

- Lạ lắm. Để riêng thì hai hòn đá lạnh ngắt. Nhưng để áp gần, hai hòn đá như hút nhau, ấm sực lòng tay, khẽ rung lên. Cậu thử xem.

Tôi đón hai hòn đá, căng mắt soi tìm. Không hề có dấu vết khác nhau dù rất nhỏ. Và điều ngỡ như vô lý đã xảy ra: Hai hòn hút nhau, tỏa hơi ấm và khẽ ngân lên.

Đoạn kết

Khi mọi việc đã đâu vào đấy, Thuần mới cho tôi biết. Tôi sang ngay nhà Thuần. Sự việc diễn ra ngoài sức tưởng tượng của tôi. Dưới gốc cây mít xế cửa nhà, Thuần xếp hai dãy mười viên gạch Bát Tràng cổ và đặt lên đó cặp đá Vợ - Chồng. My trồng bao hàng tóc tiên và hai góc trồng hai khóm hoa giấy. My bảo, khi hoa giấy vươn cành, cô sẽ kết tạo thành vòm mái. Tôi chợt liên tưởng đến những am thờ cổ kính. Không lâu nữa, hai trái tim yêu hóa đá sẽ có mái am bốn mùa xanh lá đỏ hoa. Như hiện hữu của một sự thật huyền ảo. Phải vậy chăng?