Chương 15
Tôi nhận ra tiếng động ấy nhưng không biết nên xử sự như thế nào. Rõ ràng tôi đã nghe thấy tiếng động ấy không phải một lần nhưng tôi vẫn không hề có ý định động đậy. ở nhà bố mẹ tôi thường là gia nhân ra mở cửa khi có người bấm chuông. ở nhà già Derkum, đã nhiều lần tôi nghe thấy tiếng gọi ngoài cửa hàng tôi vẫn không phải động chạm chân tay một lần nào. ở Cologne, chúng tôi đã sống, Marie và tôi, trong một nhà trọ ở đấy người ta chỉ dùng telephon.
Như vậy là tôi không động đậy khi nghe thấy tiếng chuông. Tiếng chuông nghe lạ tai. Tôi chỉ nghe thấy nó hai lần trong ngôi nhà này: hôm người giao hàng đem sữa đến và hôm Zỹpfner gửi tặng Marie một bó hoa trà.
Khi người đưa hoa tới, tôi còn nằm ở giường. Marie bước vào, rất vui chìa ra cho tôi xem bó hoa, em vục mặt vào bó hoa hít hương thơm của chúng. Nhưng tiếp theo sau đó là một sự việc đau buồn: thực ra tôi tưởng là hoa người ta tặng tôi, có nhiều người hâm mộ tôi vẫn thỉnh thoảng gửi hoa đến khách sạn tặng tôi. "Những bông hoa thật đẹp, em giữ lấy", tôi nói với Marie. Em nhìn tôi ngạc nhiên: "Nhưng đây là hoa của em!" Tôi đỏ mặt, càng ngượng nghịu khi chợt nhận ra tôi chưa hề lần nào tặng hoa em. Cố nhiên là tôi đã mang về tất cả những bó hoa người ta tặng tôi ở trên sân khấu, nhưng đúng là tôi chưa thật sự tặng hoa em. Hơn nữa nhiều khi, chính tôi phải bỏ tiền túi ra mua hoa để người ta mang lên sâu khấu cho tôi.
- Ai gửi hoa cho em đấy? Tôi hỏi.
- Zỹpfner.
- Mẹ kiếp! Thế là thế nào?
Tôi bỗng nhớ lại là họ đã cùng nhau bước ra ngoài hội quán, tay cầm tay.
- Tại sao anh ta lại không thể gửi hoa cho em? Marie nói, mặt đỏ lên.
- Cần phải đặt câu hỏi khác đi: tại sao hắn lại gửi hoa cho em?
- Chúng em đã biết nhau từ lâu rồi, và có thể là anh ấy mến em.
- Tuyệt vời! Anh ta có mến em bao nhiêu cũng được! Nhưng tặng em cả một đống hoa đắt tiền như thế thì anh cho đó là một cử chỉ không đúng chỗ, nếu không muốn nói là bất nhã!
Bị xúc phạm, em bước ra khỏi phòng.
Hôm người giao hàng đem sữa đến, chúng tôi, Marie và tôi, đương ở phòng khách, chính em ra mở cửa và trả tiền cho ông ta. Rút cục chúng tôi chỉ tiếp khách ở nhà có một lần, đó là Léo trước ngày nó quy đạo, nhưng vì nó cùng đi với Marie, nên không bấm chuông.
Tiếng chuông lần này kêu một cách lạ lùng, vừa rụt rè vừa dai dẳng. Tôi rất sợ đó là Monika - biết đâu? - Sommerwild có thể lấy cớ gì đó phái cô đến. Chuyện phức tạp những người lùn Nibelungen đương choán ngợp tôi. Tôi chạy vội ra phòng ngoài với đôi păngtúp ẩm ướt, không tìm ra nút bấm để mở cửa. Trong khi loay hoay, tôi nghĩ là Monika cũng có chìa khoá nhà này. Cuối cùng cũng tìm ra nút bấm, tôi ấn vào và nghe thấy phát ra từ tầng dưới một tiếng động giống như tiếng vo ve của một con ong va đầu vào cửa kính. Tôi bước ra bậc cầu thang và đứng vào cửa buồng thang máy. Tín hiệu đỏ "bận", sau đó số 1 bật ra, rồi số 2. Tôi dán mắt vào các con số khi bất thình lình nhận thấy có người đứng ở ngay cạnh tôi. Giật mình tôi quay lại: một người phụ nữ xinh đẹp, có bộ tóc rất hoe, người không quá mảnh khảnh, với đôi mắt trìu mến. Theo thị hiếu của tôi thì chiếc mũ của bà ta màu đỏ hơi quá rực rỡ. Tôi mỉm cười, bà ta cũng vậy.
- Hẳn là tôi đương đứng trước ông Schnier, bà ta nói. Tôi là bà Grebsel, người hàng xóm cùng tầng với ông, và rất sung sướng được trông thấy ông bằng xương, bằng thịt.
- Tất cả sự vui thích là về phía tôi, tôi đáp lại.
Đúng như thế. Mặc dù màu đỏ của chiếc mũ quá rực rỡ, bà Grebsel trông vẫn rất ngon mắt. Tôi thấy cánh tay bà kẹp tờ báo: Tiếng nói của Bonn. Bà ta nhận thấy cái nhìn của tôi và đỏ mặt bà nói:
- Không nên cho việc này có gì đáng quan trọng.
- Cái tên đểu cáng ấy, tôi kêu lên, tôi sẽ tát vào mặt hắn khi có dịp. Nếu bà biết hắn là một con người hôi thối như thế nào - tên đạo đức giả bẩn thỉu!... Và thêm vào đó, hắn đã mặc cả để rồi lừa tôi có một chai rượu!
Bà ta cười trước khi nói:
- Nhà tôi và tôi sẽ rất sung sướng nếu có thể hôm nào được cụ thể hoá mối quan hệ hàng xóm giữa chúng ta, ông có ý định ở lại đây một thời gian không?
- Vâng, và nếu bà cho phép, tôi sẽ tới gõ cửa chỗ ông bà một hôm nào đó. ở bên ông bà, tất cả cũng đều một màu gỉ sắt?
- Đúng vậy, màu gỉ sắt là dấu hiệu riêng biệt của tầng năm.
Thang máy dừng lại một lúc ở tầng ba, rồi con số 4 bật sáng và cuối cùng đến con số 5. Tôi bất thình lình mở cánh cửa và bật lùi lại vì kinh ngạc: bố tôi từ buồng thang máy bước ra. Ông giữ cho cửa mở để bà Grebsel bước vào, rồi quay lại. "Trời ơi, bố!" Tôi thốt lên. Đây là lần đầu tiên tôi không gọi ông là ba(1). Ông nói "Hans" và vụng về định ôm hôn tôi. Tôi đi trước đưa ông vào phòng tôi, cởi áo khoác và cất mũ cho ông, mở cửa phòng khách và mời ông ngồi vào ghế tràng kỉ. Ông ngồi xuống một cách nghiêm trang.
Cả hai chúng tôi đều tỏ ra rất ngượng nghịu. Hình như sự ngượng nghịu là mối quan hệ duy nhất có thể xảy ra giữa bố mẹ và con cái. Người "bố" mà tôi chào hẳn là đã đáp lại bằng một lời thống thiết, điều đó chỉ có thể làm tăng thêm sự ngượng nghịu, dù sao cũng không tránh khỏi. Bố tôi, ông vẫn khoái ngồi trong một ghế bành màu gỉ sắt, nhìn tôi và lắc đầu: lúc đó tôi đi đôi giầy păngtúp thấm nước, tôi bít tất ẩm và khoác chiếc áo choàng tắm quá dài, ngoài ra nó lại có màu đỏ gắt hoàn toàn không cần thiết. Bố tôi không cao lớn, mảnh khảnh, ông mặc quần áo với một sự cẩu thả có nghiên cứu kĩ lưỡng đến nỗi các nhân viên đài truyền hình có thể phải tranh nhau mời ông mỗi khi họ quyết định đưa lên màn ảnh cuộc tranh luận về một vấn đề kinh tế nào đấy. Sự khôn ngoan và lòng nhân từ của ông toát ra bên ngoài làm ông càng trở nên nổi tiếng như một ngôi sao màn ảnh nhỏ, điều đó ông không thể có được nếu chỉ là một Schnier - than linhít. Ông ghê tởm bóng dáng một sự thô bạo nhỏ nhất. Chính vì dáng vẻ ấy mà người ta ngờ là ông còn phải hút xì gà nữa, không phải loại xì gà gộc, mà là những điếu xì gà mảnh và nhẹ, và việc ông chỉ hút có thuốc lá đã làm ông, một nhà tư bản gần bảy mươi tuổi, có một vẻ thư thái và tân tiến kì lạ. Tôi biết là người ta kéo ông vào tất cả các cuộc bàn luận chung quanh vấn đề tiền bạc. Người ta nhận thấy ông không chỉ toát ra lòng nhân từ, mà chính ông nhân từ. Tôi đưa thuốc ra mời ông và bật lửa cho ông.
- Bố không hiểu nhiều, đúng thế, về các diễn viên hài, lúc ấy ông nói, nhưng bố hoàn toàn không biết là họ lại tắm bằng cà phê.
Bố tôi có thể rất dí dỏm.
- Con không tắm bằng cà phê, bố ạ, con chỉ muốn rót ra một ít nhưng lại làm đổ ấm cà phê! (Lẽ ra tôi phải nhân cơ hội này gọi ông là ba, nhưng đã quá chậm).
- Bố có muốn dùng chút gì không?
Ông mỉm cười và nhìn tôi vẻ nghi ngờ trước khi hỏi:
- Anh có gì mời bố đấy?
Tôi đi vào bếp mở tủ lạnh ra: trong đó ngoài cognac, còn có mấy chai nước khoáng, nước chanh và một chai vang đỏ. Tôi lấy ra mỗi thứ một chai mang sang buồng khách và xếp chúng lên bàn trước mặt bố tôi. Ông rút kính trong túi ra đeo vào, xem xét các nhãn hiệu. Lắc đầu, ông bắt đầu gạt ra chai cognac. Thế mà tôi biết là ông thích thứ rượu này, vì thế tôi tự ái:
- Hình như đấy là loại tốt.
- Loại hảo hạng, nhưng rượu cognac tốt nhất cũng không còn ra gì khi đã làm lạnh.
- Bố muốn nói là không nên để cognac trong tủ lạnh...?
Ông nhìn tôi qua phía trên mắt kính của ông như thể tôi là một tên có thói lắp đít. Theo cách của ông, bố tôi là một nhà duy mĩ, ông rất có thể trả lại nhà bếp ba hoặc bốn lần các lát bánh mì nướng ở bữa điểm tâm cho đến khi Anna đã làm cho chúng có được độ vàng như ý muốn; cuộc chiến đấu thầm lặng lặp đi lặp lại mỗi buổi sáng. Anna cho là dù sao đi nữa, những lát bánh mì nướng bao giờ cũng chỉ là một sự "phi lí ănglô xắcxông".
- Thế con thật không biết là không được ướp lạnh rượu cognac, bố tôi hỏi tôi bằng một giọng khinh thường, hay là con giả vờ đấy? Với con, người ta không biết thế nào!
- Con không biết thế...
Ông chăm chú quan sát tôi và bề ngoài hình như đã được thuyết phục, ông cười to:
- Thế mà bố đã phải bỏ ra biết bao nhiêu tiền của cho việc học hành của con.
Nhận xét này muốn được coi là hóm hỉnh, như vậy thích hợp trong một câu chuyện giữa một người bố gần bảy mươi tuổi và một người con đã trưởng thành, nhưng ông thất bại: từ "tiền của" làm cho sự mỉa mai trở nên lạnh lùng. Lắc đầu, ông cũng gạt ra cả chai nước chanh và chai rượu vang.
- Trong điều kiện này, ông nói, nước khoáng có thể chắc chắn đảm bảo hơn cả.
Tôi lấy trong tủ ra hai chiếc cốc và mở chai nước khoáng. Cũng có một cái gì ít ra tôi còn có thể làm được một cách đúng đắn. Nhìn tôi mở chai, ông gật đầu với một vẻ khoan dung.
- Bố có thấy phiền lòng nếu lúc này con mặc áo choàng tắm không? Tôi hỏi ông.
- Mặc như vậy không được. Mời anh mặc quần áo tử tế vào đi. Quần áo lố lăng và... mùi cà phê của anh so với hoàn cảnh một người đóng vai khôi hài không thích hợp đâu. Bố có chuyện nghiêm túc cần nói với con. Và hơn nữa - con không nên giận bố đã nói thẳng
- con biết là bố ghê tởm sự bừa bãi bất cứ dưới dạng nào.
- Không không phải là một dạng bừa bãi, mà là thư dãn.
- Bố không biết đã có được bao nhiêu lần con thực sự nghe lời bố, nhưng nếu bây giờ con vẫn không muốn, bố đơn giản yêu cầu con làm vui lòng bố lần này.
Thật lạ lùng! Tôi vẫn hình dung bố tôi dưới vẻ một con người rụt rè và hầu như ít nói. Như vậy là ở truyền hình ông đã học được cách tranh luận và lí lẽ với cái vẻ "duyên dáng có sức lôi cuốn". Tôi đã quá mệt mỏi để có thể tìm cách khước từ sự lôi cuốn ấy.
Tôi trở vào buồng tắm, tụt ra đôi giầy đẫm cà phê, lau chân, mặc áo sơmi, quần và áo ngoài, chạy chân không ra bếp đổ đậu trắng đã hâm nóng vào đĩa, bỏ đi lòng đỏ của mấy quả trứng chần nước sôi, rồi dùng thìa bóc lấy lòng trắng trứng sau đó, lấy thêm một lát bánh mì và thìa mang tất cả ra phòng khách. Bố tôi nhìn vào đĩa ăn của tôi với một vẻ ngạc nhiên khéo nghiên cứu xen lẫn sự kinh tởm.
- Xin lỗi bố, tôi nói, nhưng từ chín giờ sáng đến giờ con chưa ăn gì và con không nghĩ là bố đến đây để thấy con lăn ra bất tỉnh dưới chân bố.
Ông đã có được một nụ cười rồi lo lắng ông lắc đầu, thở dài nói:
- Thôi được... nhưng con xem, chỉ lòng trắng trứng, bố thấy thức ăn như vậy không lành lắm.
- Con sẽ ăn tráng miệng một quả táo.
Tôi trộn đậu với trứng, cắn bánh mì và nuốt một thìa món hổ lốn của tôi. Cũng không tồi chút nào.
- ít ra con cũng nên thêm vào một ít tương cà chua, bố tôi nhận xét.
- Nhưng vấn đề là phải có nó đã!
Tôi ăn một cách quá vội vã, không khỏi không phát ra những tiếng động làm bố tôi có vẻ bực mình. Ông đã cố kìm lại sự kinh tởm của ông, nhưng với một cách quả là thiếu che đậy đến nỗi tôi phải đứng lên mang đĩa thức ăn vào bếp đặt lên mặt tủ lạnh, vừa đứng ăn vừa ngắm mình trong chiếc gương treo ở trên. Thời gian qua tôi hoàn toàn bỏ mất sự tập luyện quan trọng nhất: cơ bắp mặt. Một diễn viên hài muốn gây được ấn tượng bằng sự trơ ì của vẻ mặt thì phải nuôi dưỡng cho được sự cơ động của nó. Trước kia, trước khi tập, bao giờ tôi cũng để cho mình khát khô cổ, như vậy để đi vào sự tiếp xúc với bản thân trước khi trở thành xa lạ với chính mình. Sau này, tôi bỏ phương pháp ấy và tập bằng cách tự nhìn mình trừng trừng nửa tiếng mỗi ngày, không dùng một tí mẹo nào, cho đến khi cuối cùng không còn thấy mình nữa. Tránh mọi xu hướng đi đến quá tự say mê, tôi thường gần như lên cơn điên. Kết thúc buổi tập, quên mất là tôi đương đứng nhìn bộ mặt của tôi phản chiếu trong gương, tôi quay ngược mặt gương vào tường và rồi sau đó, trong cả ngày, gặp lúc nhìn thấy mình khi đi qua một mặt gương, tôi sợ hãi: kẻ lạ mặt nào kia đang làm gì thế ở trong buồng tắm của tôi, rửa ráy? Một kẻ tôi không biết là bi hay hài, một bóng ma mặt tái xanh với chiếc mũi dài ngoẵng... lúc ấy tôi lao đến với Marie để nhìn cho thấy được tôi trong mắt em. Từ khi em bỏ tôi, tôi không còn có thể tập luyện như thế được nữa: tôi sợ trở thành điên dại. Trước kia, sau buổi tập, tôi đều đứng sững trước mặt Marie, tôi gần như áp mặt tôi sát mặt Marie, tự nhìn tôi trong măt em. Nhỏ xíu, hơi méo mó, nhưng nhận ra được, đấy là tôi và cũng như thế tôi lại sợ sệt khi soi gương. Làm sao tôi có thể giải thích cho Zỹpfner là, không có Marie tôi không thể tập trước gương được? Ngắm nhìn mình trong gương khi đương ăn thì không có gì đáng sợ, mà chỉ thấy buồn. Tôi có thể bíu vào chiếc thìa, nhận ra những hạt đậu lẫn lộn với lòng đỏ, lòng trắng trứng, lát bánh mì đương dần dần nhỏ đi. Mặt gương chứng nhận với tôi sự tồn tại một thực tế thật xúc động về một chiếc đĩa trơn, một lát bánh mì cứ nhỏ đi mãi và một cái miệng hơi nhờn mỡ tôi lấy tay áo quệt vào. Đấy không phải là một buổi tập, và không còn ai để bứt tôi ra khỏi tấm gương. Tôi chậm chạp trở lại phòng khách.
- Con ăn quá nhanh đấy, quá nhanh, bố tôi nhắc. Ngồi xuống đi. Con không uống gì sao?
- Không, con muốn uống cà phê, nhưng không pha được.
- Con có muốn bố pha cho con không?
- Bố biết pha cà phê à?
- Bố có tiếng là pha cà phê tuyệt vời.
- Chà, thôi bố ạ! Con uống một ít nước ga cũng được.
- Nhưng bố sẵn sàng pha cà phê cho con mà.
- Thôi, cám ơn bố. Bếp bừa bãi kinh khủng: lai láng nước cà phê, lỏng chỏng những vỏ hộp, rải rác đầy vỏ trứng...
- Tuỳ con.
Bố tôi có vẻ bị xúc phạm một cách quá mức. Ông rót nước khoáng cho tôi, ông rút trong hộp thuốc lá đưa tôi một điếu và châm lửa cho tôi. Chúng tôi cùng hút thuốc. Tôi thấy thương ông. Có lẽ cái đĩa đậu của tôi làm ông bối rối. Ông đã trông chờ ở chỗ tôi cái mà từ "lãng tử" gọi ra trong đầu ông: một sự mất trật tự thông thái và các công trình hiện đại đủ loại trên trần và trên tường. Thế nhưng sự tình cờ lại biết cách bài thiết trong căn hộ không ra gì, còn có vẻ tiểu thị dân, và điều đó rất rõ đương đè nặng lên ông. Chúng tôi đã mua chiếc tủ buýp phê theo catalogue. Và trừ hai bức tranh mẫu thuốc nước đẹp của Monika Silvs treo trên tủ commốt: phong cảnh Rênan III và phong cảnh Rênan IV (loại màu xám đậm với vài đường nét màu trắng lơ thơ mờ ảo), những bức khác đều là các bản sao, trong đó chỉ có hai bức vẽ trừu tượng. Những đồ vật đẹp nhất chúng tôi có như thế, bình để cắm hoa và bàn uống chè di động là do Marie sắm. Bố tôi là một người cần sống có không khí, và không khí phòng tôi làm ông bị lạc hướng, trở nên trầm lặng. Khi chúng tôi đã đốt đến điếu thuốc lá thứ hai, vẫn chưa ai nói gì, cuối cùng tôi hỏi:
- Có phải mẹ cho bố biết con ở đây?
- Phải, nhưng con thật không thể tránh cho mẹ con cái kiểu đùa ác ấy được sao?
- Nếu mẹ đã không trả lời con bằng cái giọng của ủy ban của mẹ thì các chuyện đã không đi theo kiểu ấy.
- Thế con có điều gì phản đối cái ủy ban ấy? Ông hỏi giọng bình tĩnh.
- Không. ý muốn chống phân biệt chủng tộc là tốt, nhưng ý kiến của con về vấn đề chủng tộc rất khác với ý kiến của ủy ban. Vấn đề người da đen chẳng hạn là mốt mới nhất đấy... vả lại con muốn tặng mẹ làm vật thờ một người da đen mà con rất quen... và khi người ta cho rằng có hàng vài trăm giống người da đen! ủy ban còn lâu mới thất nghiệp! và rồi còn cả người Gitan... hôm nào đó mẹ cần mời vài người trong số họ đến nhà uống chè sau khi đã tuyển mộ được họ ở ngoài đường. Mẹ không thiếu gì việc làm!
- Đấy không phải là chuyện bố định đến nói với con.
Tôi im lặng. Bố tôi nhìn tôi, rồi ông khẽ nói:
- Bố muốn nói chuyện với con về chuyện tiền nong (tôi vẫn im lặng). Bố cho là con đương gặp lúc rủi ro. Này, con nói đi, nói điều gì đi!
- Rủi ro, còn hơn thế! Có thể con sẽ không thể đi biểu diễn được trong một năm. Đây, bố xem!
Kéo ống quần lên, tôi chìa chân tôi ra, chỉ cho bố tôi xem chỗ sưng ở đầu gối, rồi kéo ống quần xuống, tay phải tôi chỉ vào ngực bên trái, tôi nói:
- Và ở đây nữa...
- Trời ơi, tim.
- Vâng, tim.
- Bố đi gọi cho ông Drohmert yêu cầu ông ta đến khám cho con. Đấy là người thày thuốc khoa tim mạch cừ nhất của chúng ta.
- Bố hiểu lầm con rồi, con cần gì ở ông Drohmert.
- Vậy mà con nói là: đau tim.
- Có lẽ nên nói là tâm hồn, tình cảm, nội tâm, biết nói thế nào... có thể trái tim là từ đúng nhất.
- Bố hiểu, ông nói xẵng. Cái chuyện ấy...
Hẳn là Sommerwild đã nói với ông về "chuyện" ấy ở câu lạc bộ ca hát ngẫu hứng, trước một đĩa sivê thỏ và một vại bia.
Ông đứng lên, đi đi lại lại một lúc rồi dừng lại sau thành ghế của ông, tì tay vào lưng ghế nhìn tôi.
- Bố thấy việc dùng những từ to lớn là hơi ngu xuẩn, ông nói, nhưng con biết con thiếu cái gì không? Con thiếu cái điệu ai cũng cần phải có nếu muốn trở thành một con người chân chính: khả năng thích nghi với số phận của mình.
- Hôm nay, đây là lần thứ hai người ta nói với con điều ấy!
- Vậy thì hãy nghe một lần thứ ba nữa, con cần tập làm quen với số phận của con!
- Đủ rồi, tôi mệt mỏi nói lại.
- Con có biết bố cảm thấy như thế nào khi Léo đến báo cho bố biết là nó quy đạo? Bố cũng đau khổ như đối với việc chúng ta mất Henriette. Có thể bố sẽ ít xúc động hơn nếu được biết nó gia nhập Đảng Cộng sản. Một thanh niên tự huyễn hoặc mình, mơ ước công bằng xã hội... bố còn có thể tưởng tượng được. Nhưng chuyện này! (ông bíu vào lưng ghế của ông và lắc đầu mạnh). Không thể thế được! Không!
Ông nói với một niềm tin tuyệt đối. Mặt ông bỗng tái xanh, trông ông già đi rất nhiều.
- Ngồi xuống, bố, và uống một ít cognac!
Ông ngồi xuống và nhìn vào chai cognac ra hiệu đồng ý. Tôi lấy ra một chiếc li trong tủ và rót đầy rượu đưa ông. Ông cầm uống không cám ơn, cũng không nâng chén chúc sức khỏe tôi.
- Đấy là điều hẳn con không thể hiểu được, ông nói.
- Vâng, đúng thế.
- Bố đã run sợ biết bao khi thấy thanh niên đi theo thứ tín ngưỡng ấy, con sẽ hiểu là việc quy đạo của Léo đã tác động sâu sắc đến bố như thế nào; nhưng bố cũng tập làm quen dần đi với chuyện đó, cũng như với chuyện khác. Tại sao con nhìn bố như thế?
- Con cần phải xin lỗi bố về một cái gì đó. Khi con thấy bố trên màn ảnh ti vi, con thấy bố tuyệt vời, đúng như một diễn viên, không có chút nào gọi là pha trò.
Ông nhìn tôi nghi hoặc, như bị xúc phạm. Tôi vội nói tiếp.
- Con đảm bảo với ba đấy, thật tuyệt vời!
Tôi sung sướng thấy mình đã trở về được với tiếng "ba"(1).
- Đơn giản là người ta ép ba phải đóng vai ấy, chàng trai của ba ạ.
- Nó rất hợp với ba đấy. Về phương diện đóng trò, ba còn đóng tốt là khác.
- Ba không đóng trò, ông nói một cách trịnh trọng, tuyệt đối không, ba không thấy cần thiết đóng bất cứ trò gì.
- Thật đáng buồn cho các đối thủ của ba.
- Ba không có đối thủ! Ông phẫn nộ.
- Như vậy còn tệ hại hơn đối với họ!
Ông lại nhìn tôi nghi hoặc, rồi cười thú thật:
- Họ không đủ sức làm đối thủ của ba.
- Thế thì còn tệ hại hơn là con nghĩ. Những kẻ mà với họ ba không ngớt nói chuyện về tiền nong, họ có biết là ba vẫn lờ đi điều chủ yếu không... hay là ba đã thu xếp ổn với họ rồi trước khi lên màn ảnh?
Ông tự rót cho mình một li cognac rồi nhìn tôi hỏi:
- Ba muốn chúng ta nói chuyện về tương lai của con.
- Khoan đã, ba, con thấy hứng thú với tình hình công việc của ba. Ba luôn luôn nói về những tỉ lệ phần trăm, mười, hai mươi, năm mươi phần trăm... nhưng không bao giờ ba nói rõ những khoản mà những tỉ lệ phần trăm đó được áp dụng.
Ông nhấc li cognac lên, vừa uống vừa nhìn tôi với một vẻ gần như khờ khạo.
- Con muốn nói là, tôi nói tiếp, tuy kém cỏi về số học, ít ra con cũng biết một trăm phần trăm của một nửa penning là một nửa penning trong khi năm phần trăm của một tỉ đồng là năm mươi triệu đồng. Bố có hiểu không?
- Trời ơi! Con bỏ ra nhiều thời gian đến thế để ngồi xem ti vi ư?
- Vâng. Từ sau cái "chuyện" như ba nói, con thường ngồi xem ti
vi. Nó có tác dụng làm cho con trở nên trống rỗng một cách kì diệu! Hoàn toàn trống rỗng! Và khi người ta chỉ gặp lại ông bố của mình ba năm một lần, thỉnh thoảng được trông thấy bố mình trên ti vi cũng thích thú, dù trước một vại bia trong một quán rượu nào đó vào lúc trời chập choạng tối. Có lúc con thật tự hào về ba, về việc ba khéo léo tránh né câu hỏi của người nào đó về khoản tiền theo tỉ lệ phần trăm này nọ.
- Con nhầm đấy, ông nói xẵng, ba không tránh né gì hết.
- Có thể làm nản lòng các đối thủ mà không bao giờ cần giáp mặt họ không, ba?
Ông đứng lên ném vào tôi một cái nhìn không hay ho gì. Đến lượt tôi, tôi cũng đứng lên. Chúng tôi đều đứng ở phía sau ghế của chúng tôi, tay tì vào lưng ghế.
- Chính do nghề nghiệp của mình, tôi vừa nói vừa cười, con không tránh khỏi không quan tâm đến những hình thức biểu hiện hiện đại của kịch câm. Có một hôm, ngồi một mình trước máy ti vi, ở trong phòng của một quán rượu, con đã tắt tiếng đi. Tuyệt vời! Đem "l'art pour l'art"(1) vào chính sách tiền lương và vào kinh tế! Rất tiếc là ba chưa bao giờ xem tiết mục Hội đồng quản trị họp của con.
- Còn phải nói với con là ba đã nói về con với Genneholm. Ba đã yêu cầu ông ta xem một số tiết mục của con và cho ba một... một thứ báo cáo.
Tôi không thể kìm mình không ngoác mồm ra ngáp. Một sự phản ứng thô tục, nhưng không tránh được. Điều đó không ngăn cản tôi ý thức hoàn toàn sự khó coi của một biểu hiện như vậy. Sau một đêm rất khó ngủ, quả là hôm nay tôi thấy người rất mệt. Dù sao khi đã ba năm không gặp bố mình và nhất là khi đương nói chuyện nghiêm chỉnh với ông lần đầu tiên trong đời, ngoác mồm ra ngáp nhất định là một phản ứng không đúng chỗ tí nào. Tôi hết sức bực bội, nhưng mệt chết người và ân hận là đã không thể kìm lại cái ngáp của mình. Tên của Genneholm tác động vào tôi như một thứ thuốc ngủ. Những người như bố tôi nhất định chỉ sử dụng "những gì cừ nhất": Drohmert, người thày thuốc khoa tim mạch cừ nhất thế giới, Genneholm nhà phê bình sân khấu cừ nhất liên bang, rồi thợ may cừ nhất, rượu champagne, cừ nhất, khách sạn cừ nhất, nhà văn cừ nhất. Thật là phiền! cái ngáp của tôi chuyển thành một chứng co cứng và hàm tôi kêu răng rắc. Cho dù Genneholm có là tay lắp đít đi nữa, điều đó cũng không làm cho việc nhắc đến tên hắn có thể gây ra cho tôi một sự chán ngán đến như vậy. Hẳn là những tay lắp đít rất vui nhộn, nhưng chính những tay vui nhộn đó lại làm tôi chán, và những tay có tính nết kì quặc còn đáng chán hơn. Thế mà Genneholm lại là một tay lắp đít có thêm tính nết kì quặc. Có thể thấy không có buổi tiếp khách nào của mẹ tôi mà ở đó hắn lại quên thói quen đến khó chịu của hắn bám riết lấy người đối thoại, buộc con người đáng thương này, mặc dầu không muốn, cũng phải nín thở ngồi lại với hắn cho đến cuối bữa tiệc. Lần cuối cùng gặp hắn, cách đây bốn năm, tôi lại thấy hắn sặc mùi khoai tây; vì cái mùi khoai tây ấy mà chiếc áo màu hồng điều và bộ ria quỷ quái màu mật ong của hắn không còn có vẻ gì là kì quặc nữa. Hắn rất dí dỏm, mọi người đều biết như vậy, nên họ cũng phải tỏ ra hóm hỉnh. Đời sống thật là khổ cực!
- Xin lỗi ba, tôi nói sau khi tôi gần như chắc chắn là hàm tôi tạm thời hết co cứng, thế Genneholm nói sao?
Bố tôi bị xúc phạm. Ông vẫn như thế trước mỗi sự buông thả, và cái ngáp của tôi tác động đến ông không phải một cách chủ quan mà là một cách khách quan. Ông lắc đầu như lúc ông nhìn vào đĩa đậu của tôi.
- Genneholm hết sức quan tâm theo dõi sự tiến triển của con. Ông ấy rất có thiện ý đối với con.
- Không bao giờ một tên lắp đít nào lại chịu tuyệt vọng, cái bọn ấy dai như đỉa ấy.
- Đủ rồi, giọng bố tôi trở nên quả quyết, con cần thấy hạnh phúc có được một người bảo trợ có kinh nghiệm và có ảnh hưởng như ông ta.
- Nhưng con thấy rất hạnh phúc mà.
- Tuy vậy, ông ta phản đối không ít những tiết mục từ trước đến nay của con.
- Ông ta cho rằng bằng bất cứ giá nào con cũng phải tránh thể loại Pierrot(1), rằng đúng là con có tài làm trò hề nhưng đáng tiếc là, và rút cuộc... nghệ thuật hề của con chẳng ra gì. Theo ý ông ta, con chỉ nên tập trung vào kịch câm... Con có nghe ba không đấy?
Giọng ông mỗi lúc một thêm quả quyết.
- Con nghe đây mà, tôi nói, con nghe thấy từng lời, đầy đủ từng lời một. Những lời thông minh, thích đáng làm sao. Ba không nên nghĩ ngợi gì việc con nhắm mắt khi nghe ba nói.
Trong khi ông nhắc lại lời Genneholm, đúng là tôi nhắm mắt. Như vậy tôi thấy thư thái và hơn nữa khỏi phải nhìn thấy chiếc tủ commốt kê sát tường, sau lưng bố tôi. Thứ đồ đạc xấu xí, không hiểu tại sao lại gợi lên ở tôi về trường học với màu hạt dẻ sẫm, các núm đen và các đường viền mép bên trên của nó. Chiếc tủ này Marie mang từ nhà bố mẹ em đến.
- Xin ba cứ nói tiếp, giọng tôi nói lúc này nhỏ.
Tôi mệt đứt hơi; nhức đầu, đau bụng; đứng sau lưng ghế người tôi co lại làm cho đầu gối tôi càng sưng thêm. Qua mí mắt khép vào của tôi, tôi thấy bộ mặt tôi hiện ra như nó đã đạt được sau hàng nghìn giờ tập trước một tấm gương: hoàn toàn im sững, trát đầy phấn, lông mi cũng bất động, và cả lông mày cũng thế, chỉ có hai con mắt di chuyển chậm chạp từ trái sang phải, từ phải sang trái như những con mắt sợ sệt của một con thỏ, và như vậy để có được kết quả mà những nhà phê bình như Genneholm cho là "khả năng kì lạ biểu lộ sự u buồn của loài động vật". Tôi đã chết và tự giam mình đến hàng nghìn giờ với bộ mặt của tôi... mà không thể tự giải thoát được trong đôi mắt của Marie.
- Ba nói đi, tôi nhắc lại.
- Ông ta khuyên ba nên gửi con đến một trong những giáo sư cừ nhất của chúng ta. Trong một hoặc hai năm, có thể trong sáu tháng. Ông ta cho rằng con cần có sự tập trung tư tưởng và nghiên cứu để đạt được một sự hiểu biết về chính mình tới mức con có thể trở lại hồn nhiên. Và cũng để tập luyện, tập luyện không ngừng... Con vẫn nghe ba đấy chứ?
Giọng ông, may thay, đã dịu đi.
- Vâng, thưa ba.
- Như vậy, ba sẵn sàng trả tiền học cho con.
Tôi có cảm giác như đầu gối tôi to và tròn ra như một bể chứa khí. Vẫn không mở mắt, như một người mù, tôi đi vòng qua ghế, ngồi xuống và sờ soạng tìm bao thuốc lá trên mặt bàn. Bố tôi bật ra một tiếng kêu hốt hoảng. Tôi có thể bắt chước một người mù hoàn hảo đến mức bất cứ ai cũng có thể lầm được. Tôi tự tạo ngay cho bản thân mình ấn tượng bị mù... Có lẽ tôi sẽ là như vậy... Tôi không đóng vai người mù mà là đóng vai người mất khả năng về thị giác, vậy mà khi điếu thuốc vừa mới để vào môi, tôi đã cảm thấy lửa từ chiếc bật lửa của bố tôi, và tôi cũng cảm thấy nó rung rinh thật dữ dội.
- Con trai của ba, ông nói vẻ lo âu, con có ốm đấy không?
- Vâng, tôi thì thầm, kéo hết hơi thuốc và hít thật sâu, con đau chết đi được, nhưng không bị mù. Đầu con nhức, bụng đau, đầu gối sưng và buồn phát ốm... nhưng điều tệ hại hơn cả là con biết chính xác Genneholm nói trăm phần có lí và con còn biết là ông ta còn nói thêm gì đó. Ông ta nhắc đến Kleist(1).
- Có đấy, bố tôi nói.
- Ông ta có nói là con cần phải từ bỏ tâm hồn của con, tóm lại tự trút sạch hoàn toàn để có thể lúc đó tạo được cho mình một tâm hồn mới? Có phải đúng là ông ta nói thế không?
- Phải... sao con biết?
- Trời, con biết các lí thuyết của ông ta, con còn biết cả nguồn gốc của chúng. Nhưng con không muốn đánh mất tâm hồn của con, trái lại con còn muốn tìm lại nó.
- Con để mất nó ư?
- Vâng.
- ở đâu?
- ở Rome!
Tôi mở mắt ra phá lên cười.
Tôi thấy bố tôi đúng là tái mặt lại và già đi. Ông thốt ra một tiếng cười khe khẽ, tất nhiên có vẻ thấy nhẹ người đi, nhưng rõ ràng cáu kỉnh.
- Đồ chết tiệt, ông nói, tất cả chuyện vừa qua là đóng kịch à?
- Chẳng may lại không phải thế. Genneholm còn có thể nói thế này, còn quá nhiều tính tự nhiên chủ nghĩa và ông ta có thể đúng. Những tên lắp đít bao giờ cũng đúng, chúng có khiếu lạ lùng hòa theo trình độ... và biết ngừng lại đúng chỗ. Nhưng như vậy cũng không đến nỗi tồi!
- Đồ chết tiệt, bố tôi nhắc lại, đúng là con đã đánh lừa được ba đấy!
- Không đâu, không một người mù thực sự nào làm thế. Ba hãy tin con, anh ta hoàn toàn không cần phải sờ soạng hoặc tìm một sự giúp đỡ. Rất nhiều người mù, dù họ thật sự mù, vẫn "đóng vai" người mù. Con có thể dễ dàng, nhảy lò cò ra đến tận cửa, làm cho ba khóc lên vì đau xót và thương hại, đến nỗi ba phải chạy vội ra telephon để gọi cho bác sĩ... Fretza, nhà phẫu thuật cừ nhất thế giới. Ba có muốn con biểu diễn cho ba xem không?
Tôi đã đứng dậy.
- Không, này con, hãy ngồi yên! Ông nói hốt hoảng. Tôi lại ngồi xuống. - Ba ngồi xuống đi, ba, tôi nói với ông, nhìn ba đứng con dễ bị kích động.
Ông ngồi xuống, tự rót cho mình một ít nước khoáng rồi nhìn tôi, bối rối.
- Với con, người ta không biết thế nào, hãy trả lời ba một cách rành mạch. Ba sẵn sàng trả tiền học cho con, bất kể con muốn học ở đâu, ở London ở Paris, ở Bruxelles... trong trường hợp này, nơi tốt nhất cũng không thừa.
- Không cần, tôi mệt mỏi nói, đó sẽ là một sai lầm. Con không cần học mà cần làm việc. Con đã học từ lúc mười ba tuổi cho đến lúc hai mươi mốt tuổi. Đơn giản là ba đã không nhận ra đấy thôi. Và nếu Genneholm cho là con còn có thể học ở thời điểm này thì ông ta còn ngốc hơn là con tưởng đấy.
- Ông ấy là một chuyên gia, bố tôi nói, cừ nhất mà ba biết.
- Và còn là cừ nhất mà chúng ta có thể có được ở đây, nhưng chỉ thế thôi. Ông ta biết một chút gì đó về sân khấu, về bi kịch, về kịch ứng khẩu, và hài kịch, về kịch câm, nhưng hãy nhìn qua những tiết mục hài đầu tay của ông ta khi ông ta bỗng nhiên xuất hiện với chiếc áo sơmi màu tím và một chiếc nơ lụa màu đen. Bất cứ người ham thích nghệ thuật nào khi xem cũng phải đỏ mặt lên vì xấu hổ. Cứ để mặc những nhà phê bình với đầu óc phê phán của họ, điều đó không có gì là tai hại, nhưng điều tai hại chính là ở chỗ họ không có đầu óc phê phán và hài hước chút nào đối với chính bản thân họ. Thật đáng buồn. Genneholm là một người chuyên nghiệp, đúng thế, nhưng thử nghĩ xem, sau sáu năm với sân khấu con lại còn phải đi học thì ông ta quả phi lí!.
- Vậy ra con không cần đến số tiền ấy? Bố tôi hỏi. Tôi cảnh giác khi phát hiện ra vẻ thoải mái trong giọng nói của ông.
- Cần chứ ạ, tôi nói, đúng là cần!
- Thế con có những ý định như thế nào? Tiếp tục đi biểu diễn... ở tình cảnh này?
- Tình cảnh nào?
- Thế... ông nói có vẻ ngượng nghịu, con biết là báo chí nói về con...
- Nói về con? Nhưng đã ba tháng nay con chỉ đi biểu diễn ở địa phương.
- Ba đã cho tìm các bài báo, ông nói, và ba đã cùng nghiên cứu với ông Genneholm.
- Chết thật! Ba đã phải xì ra bao nhiêu tiền vào việc ấy?
Ông đỏ mặt.
- Điều đó không liên quan gì đến con! Nào, ý định của con ra sao?
- Tập dượt, làm việc trong sáu tháng hay một năm. Con còn xem.
- ở đâu?
- ở đây. Nếu không ở đây thì còn ở đâu con có thể tập dượt được.
Ông không giấu được vẻ hốt hoảng.
- Con không quấy rầy ba, cũng không làm gì hại đến thanh danh của ba đâu, ba cứ yên tâm. Con cũng không xuất hiện vào jour fixe(1) ở nhà ta đâu.
Ông đỏ mặt. Tôi đã một hai lần về nhà vào jour fixe, không phải với tư cách là người trong gia đình, mà như bất cứ ai khác. Tôi đã nốc rượu cocktail, ăn ô liu, uống chè và, trước khi ra đi, còn nhét thuốc lá đầy túi. Tôi làm các việc đó công khai đến nỗi những người hầu bàn phải đỏ mặt quay đầu đi.
- A! Bố tôi thốt ra.
Ông xoay người trên ghế. Chắc ông muốn đứng dậy đi ra cửa sổ. Nhưng rồi, mắt nhìn xuống, ông nói:
- Ba muốn con chọn con đường chắc chắn hơn theo lời khuyên của ông Genneholm. Chẳng hay ho gì khi phải bỏ tiền ra cho một việc không có gì là chắc chắn. Vậy ra con không dành dụm được gì ư? Con đã kiếm được khá trong suốt những năm qua cơ mà?
- Con không dành dụm được gì hết và tất cả chỉ còn có một mác, duy nhất một mác.
Móc đồng mác trong túi ra, tôi giơ ra cho bố tôi xem. Ông cúi xuống nhìn và ngắm nghía như đó là một con côn trùng lạ.
- Ba thấy thật khó tin được, ông nói. Ba có dạy con vứt tiền qua cửa sổ đâu. Con cần bao nhiêu mỗi tháng? Con dự định tiến hành công việc như thế nào?
Tim tôi đập dữ dội. Tôi đã không tin là ông có thể nghĩ đến việc giúp đỡ tôi trực tiếp như vậy. Tôi nghĩ: không nên đòi hỏi nhiều quá, không nên đòi hỏi ít quá, nhưng dù sao cũng phải kha khá; nhưng tôi lại không có một ý niệm nào về khoản tiền cần thiết cho tôi. Tiền điện, tiền telephon, và tiền sinh hoạt hàng ngày. Tôi toát mồ hôi vì thần kinh căng thẳng.
- Trước hết, tôi nói, con cần có một tấm đệm cao su bằng kích thước của gian phòng này, bảy mét trên năm. Nhà máy chế biến cao su vùng Re Nan của ba có thể cung cấp cho con với giá hạ.
- Được, ông mỉm cười, ba còn có thể tặng nó cho con. Bảy mét trên năm... Nhưng theo ý kiến của ông Genneholm thì con không được mất thì giờ vào việc tập nhào lộn.
- Hoàn toàn không có chuyện đó. Ngoài tấm đệm ra, con cần mỗi tháng một nghìn mác.
- Nghìn mác!
Ông nhảy lên. Ông hốt hoảng thực sự, môi ông run lên.
- Kìa ba, ba ngỡ thế nào?
Tôi không có một ý niệm nào về tài sản của ông. Nghìn mác một tháng - đấy là sự tính toán ở sức của tôi - như vậy là mười hai nghìn mác một năm, và đó đâu đã là một khoản chi có thể làm ông sạt nghiệp. Ông là nhà triệu phú, bố của Marie một hôm đã đảm bảo với tôi như vậy, không phải là đã không tính toán một cách chặt chẽ. Tôi không nhớ chi tiết. Ông có cổ phần ở khắp nơi, "những lợi tức trong tất cả". Ngay cả trong cái xưởng sản xuất dầu tắm kia.
Ông bắt đầu chầm chậm đi đi lại lại sau ghế của ông, môi mấp máy như đương tính nhẩm, có lẽ trường hợp này cần phải thế, nhưng kéo dài quá lâu.
Tôi nghĩ đến trò bẩn thỉu của họ khi tôi cùng với Marie rời khỏi Bonn. Bố tôi đã viết cho tôi là ông từ chối mọi sự cứu trợ vì lí do đạo đức, là ông để tôi tự nuôi lấy thân anh bằng chính đôi tay của anh, anh và người con gái đáng thương mà anh đã quyến rũ, là ông - tôi biết - vẫn tôn trọng già Derkum như một người đàn ông, cũng như địch thủ của ông, và cuối cùng đây thực sự là một chuyện tai tiếng.
Chúng tôi trú ngụ trong một nhà trọ ở Cologne - Ehrenfeld. Sau một tháng chúng tôi đã tiêu hết bảy trăm mác. Marie được thừa hưởng của mẹ em, và tuy vậy tôi vẫn có cảm giác là chúng tôi đã rất tiết kiệm.
Nơi chúng tôi ở nằm trong vùng lân cận ga Ehrenfeld. Phòng chúng tôi quay về hướng bức tường chắn xây bằng gạch màu đỏ. Các đoàn tàu chở đầy than vào ga, rồi ra khỏi ga sau khi đã dỡ hàng. Quang cảnh khái hoạt, tiếng ồn ào xao xuyến, rất phù hợp với cảm giác chắc chắn về sự cân bằng tài chính của gia đình. Nhà tắm công cộng quay về hướng sân đầy những chậu kẽm đựng nước và dây phơi quần áo. Thỉnh thoảng người ta nghe thấy những tiếng động ngoài sân trong đêm tối: vỏ hộp mứt hoặc túi giấy đựng đầy rác ai đó lén lút tống qua cửa sổ. Tôi thường xuyên sử dụng buồng tắm, hàng giờ nằm trong bể tắm hát các bài lễ ca, cho đến hôm bà chủ nhà bắt đầu cấm tôi không được hát ("những khách trọ khác tưởng là bà cho một thày tu hoàn tục ở trọ"), rồi cuối cùng hạn chế cả việc tôi sử dụng buồng tắm. Bà ta đã phải dùng đến cả que cời lò để moi các thứ trong những gói rác vứt ra ở sân, cố phát hiện ra những chủ nhân của chúng: vỏ hành tây, bã cà phê hoặc xương cốtlét, đem đối chiếu tỉ mỉ với nhiều nguồn tin bà điều tra được ở người bán rau hoặc người bán thịt, mặc dầu vô tích sự. Tất nhiên không bao giờ những đồ thừa vứt đi có thể giúp bà ta kết luận được dứt khoát ai là kẻ chịu trách nhiệm. Thế là bà ta phun lên mảng trời tắc nghẽn các loại quần áo phơi phóng những lời đe dọa dưới các dạng đủ cho mỗi người thấy là mình đang được chĩa vào: "Không phải tôi, tôi rất biết giữ gìn!" Buổi sáng, chúng tôi đứng ở cửa sổ ngóng người đưa thư đôi khi mang đến cho chúng tôi một gói đồ của Léo, của Anna hoặc của một người bạn gái của Marie, và thỉnh thoảng rất không đều - cả một tấm séc của ông nội. Về phía bố mẹ tôi, tôi chỉ nhận được những lời cổ vũ: "nắm lấy vận mệnh của mình trong tay và khắc phục nỗi bất hạnh bằng mồ hôi của mình".
Sau này, mẹ tôi đã đi đến chỗ viết cho tôi là bà đã "truất quyền thừa kế" của tôi. Sự thiếu tế nhị của bà gần như là ngu ngốc. Công thức của bà rút ra từ quyển chuyện đề Coeur pise(1). Người ta thấy trong cuốn chuyện này một thiếu nữ bị bố mẹ "truất quyền thừa kế" vì cô không chịu cho ra đời đứa trẻ mà một tay "nghệ sĩ có tấm lòng cao thượng nhưng tinh thần nhu nhược" làm cô mang thai, hình như anh ta là một diễn viên. Mẹ tôi dẫn ra nguyên văn một câu ở chương thứ tám của cuốn truyện: "lương tâm của mẹ buộc phải truất quyền thừa kế của con". Hẳn là bà đã thấy công thức này hoàn toàn thích hợp. Dù sao, bà cũng "truất quyền thừa kế" của tôi. Tôi tin chắc rằng đó chỉ là cách để bà đồng thời bảo vệ được lương tâm của mình cùng tài khoản của bà ở ngân hàng. Bố mẹ tôi tin là, để nuôi người tình của tôi, tôi phải sống một cuộc sống anh hùng: đi làm công nhân nhà máy hay công nhân xây dựng. Đối với tôi, chuyện đó không xảy ra và sự thất vọng của bà mới cay đắng làm sao. Bản thân Léo và Anna cũng không che giấu sự thất vọng. Mọi người đã như thấy tôi sáng sớm ra đi, chuẩn bị qua loa bữa ăn trưa, ngửng mặt lên phía cửa sổ chào từ biệt Marie một lần chót, buổi chiều trở về "mệt nhoài nhưng hài lòng", ngồi đọc báo và nhìn Marie đan áo. Nhưng tôi lại không có một chút cố gắng nào để cụ thể hoá hình ảnh ấy. Tôi ngồi bên Marie, và Marie rất thích có tôi ở bên em. Lúc ấy tôi tự coi mình thật sự là một "nghệ sĩ" (nhiều hơn vào thời gian sau này), và chúng tôi thực hiện những ý nghĩ như của trẻ con, sống bừa bãi, treo lên tường các chai rượu vang Kiangti(1), vải đay và những mẩu đồ dệt đủ màu. Bây giờ tôi vẫn còn đỏ mặt lên vì xúc động mỗi khi nhớ lại thời kì ấy. Đến ngày cuối tuần, để xin hoãn trả tiền trọ, Marie tìm đến bà chủ nhà và không thoát được cơn giận của bà ta và câu hỏi là tại sao tôi không đi làm. Và Marie trả lời giọng thống thiết tuyệt vời: "Chồng tôi là một nghệ sĩ, bà thấy không, một nghệ sĩ!" Một hôm, từ trên bậc thang bẩn thỉu Marie hét lên với bà ta: "Vâng, một nghệ sĩ đấy!" Bà chủ nhà tru tréo với cái giọng khàn khàn của bà ta: "Sao! một nghệ sĩ? và thêm vào đó là chồng của cô! Hẳn là người ta phải cười rất vui ở phòng hộ tịch!" Điều làm cho bà ta bực nhất là thấy chúng tôi cứ nằm dài trên giường cho đến tận mười hoặc mười một giờ trưa. Bà ta thiếu óc tưởng tượng để có thể quan niệm được rằng bỏ một bữa ăn là cách tốt nhất để tiết kiệm điện lò sưởi. Vả lại bà ta cũng không biết là chúng tôi chỉ có thể tập dượt từ buổi trưa trong ngôi nhà nhỏ của cha xứ, ngôi nhà này bận suốt buổi sáng: khám bệnh cho các trẻ sơ sinh, giảng giáo lí, hướng dẫn nghệ thuật nấu ăn hoặc có các cuộc thảo luận của một hội chia lô Cơ Đốc giáo nào đó. Nơi chúng tôi ở rất gần ngôi nhà thờ ở đó Heinrich Behlen làm phó linh mục. Cùng lúc thuê phòng trọ cho chúng tôi, ông ta đã để tôi sử dụng gian buồng nhỏ có cả sân khấu làm chỗ luyện tập. Nhiều giáo dân khi đó tỏ ra ân cần đối với chúng tôi. Như bà hướng dẫn nghệ thuật nấu ăn ở bếp nhà cha xứ, bao giờ bà cũng cho chúng tôi những thứ còn lại: thường là súp và bánh puđinh, đôi khi cả thịt nữa. Khi Marie giúp bà thu dọn, nếu gặp dịp bà còn giúi vào tay Marie cả một gói bơ hay một túi đường. Thỉnh thoảng bà ra xem tôi tập và cười đến đau bụng, rồi pha cà phê mời chúng tôi. Một hôm bà biết được là chúng tôi chưa cưới nhau, nhưng không vì thế mà thay đổi thái độ. Tôi có cảm tưởng là bà không thể ngờ được một nghệ sĩ lại có thể "cưới vợ". Vào những ngày trời lạnh, chúng tôi thường đến rất sớm. Như vậy, Marie có thể cùng dự nghe nghệ thuật nấu ăn, còn tôi ngồi đọc sách ở phòng gửi quần áo bên một lò sưởi điện nhỏ. Qua vách ngăn mỏng, tôi nghe thấy những tiếng cười bịt miệng, các bản tường trình nghiêm túc về calo, về vitamin, về liều lượng... cả một không khí vui vẻ trong suốt buổi họp. Khi có buổi khám bệnh trẻ sơ sinh, chúng tôi chỉ được phép vào sau buổi khám. Người nữ bác sĩ trẻ đến khám bệnh trông rất dễ thương, nhưng cô rất nguyên tắc... và sợ kinh khủng bụi tôi gây ra do những động tác tôi thực hiện trên sân khấu. Về sau, cô còn khẳng định là cho đến ngày hôm sau bụi vẫn còn đọng trong không khí và nguy hại cho trẻ nhỏ; do đó cô đòi tôi chỉ được sử dụng sân khấu trước hai mươi bốn giờ trước buổi khám. Heinrich Behlen cũng bị rắc rối với cha xứ về chuyện đó, ông này hoàn toàn không biết việc tôi sử dụng gian buồng vào việc luyện tập. Khi ông biết chuyện, ông bảo Heinrich "không nên đẩy quá xa tình thương đồng loại". Thỉnh thoảng tôi cũng đưa Marie đi nhà thờ. Không khí ở đó hết sức dễ chịu, nhất là khi được ngồi trên ống dẫn khí nóng. Hơn nữa ở đây bao trùm một sự yên ắng hoàn toàn - tiếng động ngoài đường có vẻ vô cùng xa xôi - và số tín đồ hiếm hoi (không bao giờ quá bảy hoặc tám người đến cùng một lúc), tạo nên một không khí rất từ thiện: đôi khi tôi có cảm giác như mình là một bộ phận của cái cử tọa buồn rầu và lặng lẽ những người sống sót của một thế giới trong đó sự yên tĩnh đạt tới sự hùng vĩ. Ngoài Marie và tôi ra chỉ có các bà già. Và cách Heinrich Behlen làm lễ, không có gì là thống thiết, rất hợp với ngôi nhà thờ tối om và xấu xí này. Một hôm vào cuối buổi lễ, người tu sĩ hầu lễ đi vắng, tôi còn giúp vào việc chuyển sách kinh từ bên phải sang bên trái bàn thờ. Đúng lúc thấy Heinrich lúng túng như mất tập trung tư tưởng, tôi vội bước tới phía bên phải bàn thờ cầm lấy sách kinh đặt nó sang phía bên trái, không quên giữa chừng làm động tác quỳ gối bắt buộc. Sẽ thật là thô bỉ nếu không cứu giúp bạn bè. Mặt Marie đỏ lên như quả cà chua còn Heinrich thì mỉm cười. Chúng tôi biết nhau đã từ lâu, ông ta và tôi. Hơn tôi mấy tuổi, ở nội trú ông làm đội trưởng đội bóng của chúng tôi. Nhiều khi sau buổi lễ, chúng tôi đứng lại chờ Heinrich ở trước kho nhà thờ. Sau khi mời chúng tôi cùng dùng buổi điểm tâm nhẹ với ông, ông mua chịu ở một quán hàng trứng, giăm bông, cà phê và thuốc lá. Khi người ở gái làm công chỗ ông bị ốm không đến được, ông tỏ ra sung sướng gần như trẻ con.
Tôi nghĩ đến tất cả những người đã giúp đỡ tôi trong khi gia đình tôi, ngồi chồm hỗm trên hàng đống tiền triệu điếm nhục, truất quyền thừa kế của tôi và nhấm nháp những lí lẽ đạo đức đã chi phối quyết định của họ.
Bố tôi, môi mấp máy, tiếp tục đi đi, lại lại phía sau ghế. Tôi đã chực tuyên bố không nhận tiền của ông, nhưng kịp thời thay đổi y kiến: dù sao, tôi cũng có quyền chờ đợi ở ông một cái gì đó, và chỉ có một mác trong túi tôi không thể tự cho phép mình có hành động anh hùng đến thế để rồi sau này lại sẽ phải hối tiếc. Tôi thật rất cần có tiền, cần một cách thúc bách là đằng khác, mà ông thì đã không cho tôi đến một xu từ khi tôi bỏ nhà ra đi. Léo, nó đã cho chúng tôi tất cả tiền túi của nó, Anna về phần mình thỉnh thoảng vẫn gửi đến chỗ chúng tôi bánh mì trắng do cô làm, và về sau chính ông tôi cũng gửi tiền cho chúng tôi, bằng những tấm séc gạch chéo mười lăm và hai mươi mác, một lần - có trời biết tại sao - cả đến hai mươi hai mác. Những tấm séc đó mỗi lần tới lại gây ra sự ồn ào ở chỗ chúng tôi: bà chủ nhà không có tài khoản ở ngân hàng, Heinrich cũng thế, ông ta không hiểu gì hơn chúng tôi về séc gạch chéo. Thế là ông nộp luôn tấm séc gạch chéo đầu tiên vào quỹ Caritas(1) của nhà thờ xứ, đến quỹ tiết kiệm hỏi ý nghĩa và mục đích của séc gạch chéo, rồi đi tìm cha xứ đòi lấy một tấm séc theo người mang tên mười lăm mác; tức giận đến đỏ mặt khi ông này cho biết là ông ta không thể cấp séc trả tiền cho người xuất trình giấy tờ mà không ghi rõ lí do dùng nó vào việc gì, tài khoản Caritas là một chương mục gai góc người ta thường xuyên kiểm tra, và nếu ghi "séc không xuất cho cha xứ Behlen để đổi lấy một séc gạch chéo tư nhân" thì ông sẽ bị lôi thôi, bởi vì dù sao, chương mục Caritas cũng không phải để dùng cho việc chuyển đổi lấy séc gạch chéo "nguồn gốc mờ ám". Ông ta nói ông chỉ có thể công bố tấm séc gạch chéo sử dụng vào một mục đích nhất định như một khoản tiền trợ cấp trực tiếp của Schnier này cho một Schnier khác và đưa cho tôi số tiền tương đương dưới danh nghĩa một món quà từ thiện. Có thể làm được như thế, ông ta nói thêm, mặc dầu không bình thường lắm. Rút cục, chúng tôi phải đợi mất mười ngày mới thực tế nhận được mười lăm mác, dĩ nhiên Heinrich còn hàng trăm nghìn việc khác để làm, không thể bỏ hết thì giờ vào việc đi điều đình cho các tấm séc gạch chéo của tôi. Từ sau đó, mỗi lần một tấm séc gạch chéo ông tôi gửi đến, là cả một nỗi kinh hoàng. Loại tiền hoàn toàn quỷ quái, nhất là khi chúng tôi thực không cần đến nó: phải là tiền mặt hẳn hoi kia! Cuối cùng Heinrich phải mở một tài khoản ở ngân hàng, như vậy ông ta mới có thể chuyển tới cho tôi được những tấm séc có thể trả tiền cho người xuất trình giấy tờ lấy những tấm séc gạch chéo của tôi. Nhưng ông thường đi vắng nhiều ngày và tấm séc nổi tiếng hai mươi hai mác gửi đến đúng vào lúc ông đi phép ba tuần. Khi đó tôi quyết định tìm đến người bạn độc nhất hồi thơ ấu của tôi, Edgar Wieneken, một chức trách thực thụ gì đó ở ban văn hoá của SPD(1) tại Cologne. Tôi tìm ra địa chỉ của anh ta ở danh bạ điện thoại, nhưng tôi không có đến hai groschen để gọi telephon, tôi đành phải cuốc bộ từ Cologne Ehrenfeld đến Cologne Kalk. Anh ta không có nhà, vì vậy tôi đứng đợi ở trước cửa nhà anh ta đến tám giờ tối, bà chủ nhà không đồng ý để tôi vào nhà trong lúc anh ta đi vắng. Cách nơi anh ta ở không xa lắm là một ngôi nhà thờ lớn và tối om phố Engels (tôi vẫn không hiểu tại sao là đảng viên SPD anh ta lại cho là mình có thể trú ngụ được ở phố Engels). Tôi mệt lử, sụn cả lưng, đói, không có lấy một điếu thuốc lá và tôi biết là Marie, hết sức lo lắng, đương chờ tôi trở về. Vậy mà ở Cologne Kalk, phố Engels và nhà máy hoá chất ở cạnh đó không có chút gì để an ủi một con người đương khắc khoải lo âu. Cuối cùng tôi bước vào một cửa hàng bánh mì để hỏi xin một người phụ nữ đứng sau quầy hàng một chiếc bánh nhỏ. Mặc dù còn trẻ, trông bà ta không có vẻ dễ dãi. Trước hết tôi đứng chờ ở gần cửa. Đợi lúc cửa hàng không có khách, chạy bổ vào trong và hỏi người phụ nữ đứng sau quầy hàng, không cả chào bà ta nữa. "Bà có thể cho tôi xin một chiếc bánh mì nhỏ được không?" Tôi chỉ lo nhỡ có một khách hàng nào đó bước vào. Người phụ nữ nhìn tôi, miệng bà ta mỏng và cau có, càng mỏng đi rồi tròn ra và phình lên. Sau đó, không nói gì, bà ta nhét ba chiếc bánh mì nhỏ và một khoanh bánh xốp vào một túi giấy đưa cho tôi. Tôi cho là tôi đã cầm lấy cái túi ấy và lủi vội không cả cám ơn bà ta. Tôi ngồi ở bậc thềm nhà Edgar ngốn mấy chiếc bánh mì và bánh xốp, vẫn nhớ thỉnh thoảng xem lại tấm séc gạch chéo hai mươi hai mác có còn nguyên ở trong túi tôi không. Hai mươi hai mác, một số tiền kì cục! Tôi moi óc một cách vô ích để cố hiểu cho ra ý nghĩa của nó: có thể là số dư của một tài khoản, có thể là một việc đùa chơi hoặc đơn giản chỉ là do ngẫu nhiên. Cũng lạ lùng, vì số tiền hai mươi hai lại vừa ghi bằng chữ số vừa ghi bằng chữ viết, chắc là ông nội có ý nghĩ gì đó trong đầu. Tuy nhiên cho đến bây giờ tôi vẫn không biết là ông tôi đã có ý nghĩ gì. Sau tôi phát hiện ra là tôi đã chỉ phải đợi Edgar có một tiếng rưỡi đồng hồ... song là một tiếng rưỡi đồng hồ dài dằng dặc đầy đau khổ: những mặt nhà tối đen, những cuộn khói của nhà máy hoá chất. Edgar hớn hở sung sướng khi thấy tôi. Anh ta vỗ vai tôi và kéo tôi vào trong phòng của anh, ở đấy tôi thấy một bức ảnh lớn của Brecht(1) treo trên tường, một cây đàn ghi ta và cả một dãy sách bỏ túi xếp trên một chiếc giá do anh tự tạo. Anh rời tôi một lúc - tôi nghe thấy anh thóa mạ bà chủ nhà vì đã không để tôi vào nhà - rồi trở lại với một chai rượu và hớn hở, đầy hưng phấn, kể tôi nghe về việc anh vừa gành được thắng lợi ở ủy ban sân khấu đối với việc chống lại "bọn đểu cáng CDU(2)". Cuối cùng anh yêu cầu tôi cho anh biết về cuộc sống của tôi từ sau lần chót gặp nhau. Chúng tôi cặp kè với nhau nhiều năm hồi bé. Bố anh, huấn luyện viên bơi lội, trở thành người coi sân vận động gần nơi chúng tôi ở. Tôi muốn anh miễn cho tôi chuyện đã qua, rồi trình bày ngắn gọn với anh hoàn cảnh của chúng tôi và yêu cầu anh tìm cách thanh toán bằng tiền tấm séc của tôi. Anh hết sức tử tế, đầy thông cảm, đưa ngay cho tôi ba mươi mác tiền mặt, còn muốn từ chối nhận tấm séc mặc dầu tôi đã nằn nì yêu cầu anh cầm lấy nó. Tôi cho là tôi đã phải năn nỉ gần như phát khóc. Cuối cùng anh nhận tấm séc, tuy có hơi phật ý, rồi tôi mời anh hôm nào đó đến thăm chúng tôi để xem tôi tập. Anh tiễn chân tôi đến tận chỗ xe điện đỗ, trước nhà bưu điện phố Kalk. Tôi chợt thấy một chiếc xe taxi còn trống đỗ lại. Tôi chạy vội đến, nhảy lên xe và chỉ còn thoáng thấy bộ mặt nhợt nhạt, bực tức và sửng sốt của người bạn Edgar của tôi. Đây là lần thứ nhất tôi tự cho phép mình đi taxi, và nếu bao giờ có ai thật xứng đáng được hưởng điều này chiều hôm ấy thì đó chính là tôi. Tôi không còn có thể chịu đựng được việc phải kéo lên bằng xe điện qua suốt Cologne để sau một tiếng đồng hồ nữa mới được gặp lại Marie. Chuyến xe lấy đi của tôi tám mác, thêm năm mươi pfennig thù lao lái xe. Tôi nhảy bốn bậc một lên gác nhà trọ. Marie nhảy lên ôm lấy cổ tôi khóc, và tôi cũng khóc với em. Chúng tôi đều lo lắng, đều thấy như đã vắng nhau cả một thời gian dài, quá tuyệt vọng, ôm hôn nhau chúng tôi chỉ có thủ thỉ với nhau là sẽ không bao giờ nữa, không bao giờ nữa xa rời nhau, "cho đến khi nào cái chết chia lìa chúng ta", Marie nói thêm. Rồi em "trang điểm công phu" như em nói, đánh phấn, tô môi và chúng tôi đến một quán rượu phố Venloerstrasse ăn mỗi người hai suất gulat(1). Tiếp theo chúng tôi còn mua một chai vang đỏ và trở về nhà trọ.
Edgar không bao giờ hoàn toàn tha thứ cho tôi về việc tôi trở về bằng xe taxi khi ấy. Về sau chúng tôi thường hay gặp lại nhau; anh ta còn giúp đỡ chúng tôi tiền nong một lần nữa khi Marie bị sẩy thai. Tất nhiên anh không nhắc đến chuyện xe taxi, nh?