Chương 2
Mày ở đây hở Nụ? Ông Cửu hơi ngỡ ngàng khi vừa bước chân qua ngưỡng cửa.
- Ở đây là nhất rồi.
Có lẽ vì mang mặc cảm nên ngay câu đầu Nụ đã dấm dẳn nói trống không lại còn khỏa lấp bằng cách chỉ những dãy nhà lầu cao lớn chung quanh:
- Nơi con ở là trung tâm thành phố Santa Anna còn được gọi là Little Saigon. Bước xuống cầu thang vài bước là hàng quán, chợ búa, vải vóc chưng bày đặc nghẹt to gấp mấy trăm lần thành phố Sài Gòn...
Trong đôi mắt long lanh ngời sáng ấy chứa đựng một sự tự mãn chưa từng thấy nhưng phố xá vui vẻ tấp nập cũng chỉ hiện ra trong đôi mắt Nụ chứ theo ngón tay chỉ ông Cửu có thấy gì ngoài những mái nhà mọc lên san sát, khô khan, cằn cỗi và lạnh như những đùn cát ngoài sa mạc. May lúc ấy trời đang lem nhem tranh tối tranh sáng nên khó phô bày hết tất cả sự tả tơi nghèo nàn của một chung cư. Ông nhìn sang dãy đối diện, dọc theo hành lang vài người già ngồi vò võ trên chiếc ghế dựa nhìn về cõi hư vô. Dưới mặt đất, thành hồ tắm còn đọng vài vũng nước loang lổ và chỏng trơ chiếc phao đã bị xẹp hơi. Xa hơn, ngoài cổng, vài đứa bé đạp xe đạp lùi lũi không tiếng cười. Cảnh như thế thì lòng mừng vui sao nổi, ông không trả lời cũng chẳng cần góp ý với Nụ mà lẳng lặng theo chân con bước vào phòng ngủ.
- Thầy bu nằm trong này cho kín đáo, con ra phòng khách ngủ cũng được.
- Nhà có một phòng thôi à?
- Chứ còn mấy nữa. Hôm nọ con xin được hai phòng nhưng tốn điện quá, lại phải dọn dẹp mỗi ngày vì lũ bạn cứ ăn dầm ngủ dề nên tức mình con xin đổi ngay nhà khác.
Tuy đã được Thành và Tâm kể sơ qua về Nụ nhưng ông vẫn thấy nghèn nghẹn vì nắm được cái tẩy nghèo của Nụ rồi mà nó cứ còn vờ vịt huênh hoang. Nụ tưởng muốn vẽ voi sẽ thành voi, muốn vẽ chuột sẽ thành chuột nhưng có điều rõ ràng và hiển hiện ngay trước mặt là trong phòng có mỗi chiếc giường mà ông bà chẳng bao giờ nằm chung đã gần mười năm nay. Thất vọng não nề, ông bỏ túi quần áo xuống cố lấy giọng thản nhiên.
- Thôi con cứ ngủ trong này khỏi dọn ra dọn vô cho mất thời giờ. Thầy già cả nằm ở đâu chả được.
Ông lại thẫn thờ bước theo con và tiếp tục nghe nó phách tướng dẫn sang phòng bếp, phòng tắm và mọi kẹt tủ như người mộng du, một giấc mộng hãi hùng đã đánh tan nát tất cả hy vọng của tương lai và sự sống. Lúc Nụ vào phòng nghỉ ngơi, ông đổ người xuống chiếc ghế sa lông cũ mặc cho hai dòng nước mắt thi nhau chảy. Cũng may bà Cửu còn đang đứng ở dưới đường bịn rịn với vợ Tâm vì nó không muốn vào. Tâm viện cớ bận rộn công chuyện phải đi ngay nhưng ông biết chắc nó sợ nhìn thấy bộ mặt thất vọng và đau khổ của bố mẹ mình.
Vừa về tối qua, ngay gần trưa Nụ đã thuê taxi xuống nhà Tâm mừng đón ông bà. Kể ra nó cũng chí tình chứ còn đi xa về nào ai đã vội thức sớm mà chạy ngay xuống. Có điều nhìn Nụ và những phỏng đoán cả gần tháng nay ông thấy chẳng những đúng như lời Thành nói mà còn có thể tệ hại hơn. Ngay như dung mạo Nụ, cái Nụ mà ông vẫn nghĩ con Cám được cởi lốt mới thê thảm. Mười sáu năm trời nó không có gì thay đổi ngoài trừ cằn cỗi theo tuổi tác. Trời nóng, nó chỉ mặc mỗi cái áo thung rộng thùng thình để lộ hai cánh tay gầy guộc và chiếc quần thung ống túm bó chịt lấy đôi chân khẳng khiu teo bóp. Trông nó ốm yếu đến thê thảm. Ở quê ông, những kẻ tật nguyền lam lũ không thiếu nên Nụ không bị tách biệt. Bên này ai nấy lượt là sang trọng vì thế cái xấu xí trên khuôn mặt và đôi chân tật càng rõ nét.
Nghĩ cũng tội, khi bà Cửu mang thai Nụ, trong chuyến về thăm người em gái ở Cái Sắn thì xe đò bị lật xuống ruộng. Cũng may ruộng lõng bõng nước nên kẻ bị thương nhẹ, người bị nặng chứ không ai chết. Bà Cửu tuy chỉ xầy xuộc sơ sơ nhưng vẫn được đưa vào nhà thương vì cái thai bị động mạnh. Vài giờ sau Nụ ra đời nhưng chỉ nhỏ bằng cái bình thủy một lít. Nó yếu quá, không chết là may vì chỉ được nằm vỏn vẹn trong bụng mẹ có tám tháng. Sau khi sanh, nó phải nằm trong bình dưỡng khí suốt một tháng mới được mang về nhà. Thương con yếu đuối nhưng giá nó chết liền lúc lọt lòng thì ông bà đỡ ân hận, đàng này thân nó đã còi cọt, bệnh hoạn lại còn bị sứt môi. Ngày mang Nụ về nhà lối xóm viện cớ thăm hỏi đến xem đông nghẹt. Kẻ bảo tại bà ăn thịt thỏ, người bảo tại điềm trời, lại cũng có người vẽ chuyện bày ra kiếp trước kiếp sau khiến ông rối cả ruột gan. Chẳng hiểu tại những lời trù ẻo của họ làm cho có huông hay tại mọi đau đớn bệnh tật trong nhà bắt nó phải một mình gánh hết mà Nụ rất khó nuôi. Mỗi ngày ngoài hai bữa chính bằng nước thịt bò hầm với khoai và cà rốt, bà Cửu còn dậm sữa Similac với nước cháo cho nó uống nhưng con bé vẫn èo uột bệnh lên bệnh xuống. Ông trách bà tại không cho nó bú sữa mẹ, không ẵm nó cho có hơi người nên khó nuôi. Vợ ông cũng nghĩ như thế nhưng khốn nỗi sữa đâu cho nó bú vì phải gián đoạn suốt thời gian một tháng Nụ nằm trong phòng kiếng.
Gần hai tuổi Nụ mới chỉ bò lết chứ chưa biết đi. Đôi ống chân nó teo bóp và đôi mông dúm dó khó coi, lại nữa vết bớt xanh dưới cổ càng tạo cho Nụ vẻ xanh xao gầy guộc. Đúng là những khốn khó dồn dập xảy tới cho những kẻ bất hạnh. Bước chập chững đầu tiên khi Nụ được ba tuổi cũng là bước chập chững của cả đời. Cái Nụ bị tật ở chân... Bà Cửu ôm con đau đớn còn ông đay nghiến "phúc đức tại mẫu". Lớn lên Nụ đi đứng khó khăn lại tính nết ương dở nên mãi mười tuổi nó mới chịu đến trường và cố gắng theo đuổi lắm cũng chỉ hết bậc tiểu học. Nụ luôn mang mặc cảm thua sút bạn bè nên ít đi đến đâu, có đi cũng không dám xài nạng vì sợ chứng tích tật nguyền mà vứt nạng thì chân nam đá chân xiêu, đâm xấp dập ngửa. Có điều không hiểu sao ông luôn nghĩ rằng nếu vứt nạng và đứng giữa đám đông trông Nụ cũng lành lặn như mọi đứa cùng lứa nhưng bộ mặt... bộ mặt rỗ chằng chịt, một chứng tích thê thảm sau trận đậu mùa và vết thẹo sứt môi đã được dính liền vào cuộc đời bất hạnh của nó. Bây giờ nhìn tận tường sự thật ông cảm thấy hối hận vì khi xưa đã cho Nụ đi. Giá nó cứ tiếp tục ở Việt Nam và dựa vào danh vọng của ông thì ít ra cũng kiếm được tấm chồng còn qua đây có lẽ phải ở vậy cho đến muôn đời. Đàn bà bên này hiếm nhưng chỉ hiếm nết, hiếm tài, hiếm sắc, hiếm những kẻ khôn ngoan hoạt bát chứ còn con ông chẳng ra hồn người có rước về cũng là của nợ. Từ lúc thấy Nụ hồn ông như bị ai lấy mất. Ai hỏi gì, nói gì ông cũng gật đầu gượng cười cho có lệ vì biết chắc rằng ông sẽ cần giữ sức để cầm cự đợt khám phá thứ hai, thứ ba, những sự thật mà ông muốn chạy trốn cũng không được.
Chiều hôm đó, bà Cửu soạn trong tủ tìm kiếm những thứ vặt vạnh liệu chừng có thể xài được trong việc bếp núc. Tủ nẻo trống trơn, đồ khô đồ tươi cũng chẳng có như ở nhà vợ chồng Tâm, ngay đến cái thùng đựng gạo cũng không. Tuy mệt mỏi nhưng trong lòng bà vẫn muốn phấn đấu vì nghĩ rằng có ông bà thì chắc chắn cuộc sống sẽ đổi khác, nhất là vấn đề ăn uống ngủ nghỉ của Nụ. Bà sục sạo tìm trong tủ lạnh được vài quả cà chua chín, nửa chục trứng gà, một khoanh chả lụa và vài ổ bánh mì. Thương hại con nên đầu óc bà chỉ luẩn quẩn nghĩ đến bữa ăn, cố nấu thế nào cho thật ngon, cho thật vừa miệng Nụ vì có đến cả mười năm nó thiếu vắng sự chăm sóc của người mẹ. Bà mở bịch tôm khô vợ Tâm vừa mua lấy ra một ít rửa cho sạch mùi hôi rồi mới ngâm nước nóng. Bà thích nấu canh tôm khô cà chua và đập vào quả trứng đánh sợi như nấu riêu ăn với chả kho nước mắm. Chỉ nghĩ tới đó thôi bụng bà đã cồn cào. Cũng may vợ Tâm chu đáo mua cho bao gạo, nếu không lại phải ăn với bánh mì hoặc cái "hem bơ gơ" như lúc trưa thì đành nhịn thêm bữa nữa. Nồi cơm không có nắp, bà phải lấy cái đĩa sành úp lại cho cơm khỏi sống. Nấu canh cũng lẹ, phải mỗi cái tội không chày không cối, cuối cùng bà đành bỏ tôm trong nồi và lấy lon đồ hộp giã mạnh xuống cho mau nát.
Đang nằm trong phòng, nghe tiếng nện ầm ầm dưới nền nhà bằng gỗ, Nụ hấp tấp chạy ra và khi thấy mẹ mình ngồi xổm còng lưng giã con tôm khô hôi hám, Nụ nhăn nhó:
- Nhà có máy xay sinh tố sao bu không xài?
Bà Cửu cười cởi mở:
- Ai mà biết đâu, thôi để bữa khác.
Tuy nói vậy nhưng bà vẫn đứng lên chờ Nụ cắm điện và để cái ly khổng lồ vào máy. Công việc nhẹ nhàng nhưng phải mất đến vài phút chỉ vì bàn tay Nụ dài hơn thước tấc, quờ qua quờ lại đến mấy lần mới cắm đúng vào chấu điện. Bà sốt ruột:
- Đứng bên chỉ cách thức cho bu làm.
- Bu làm sao được, lạng quạng điện giựt chết tươi.
Nhìn cái chấu cắm bé xíu mà sợi dây lại mới tinh nhưng nghe con dọa bà cũng cảm thấy ngan ngán, thôi thì chịu khó chờ một chút cũng chẳng sao. Tuy nó làm trông gượng gạo khó khăn nhưng điện đâu ăn được nó, bằng chứng là nó vẫn sống sờ sờ ra đó suốt mười năm trời.
- Xong rồi đấy, bây giờ bu bỏ tôm khô vào và nhớ cho thêm chút nước không thôi cháy máy.
Nụ nhấn nút đầu tiên, bốn lưỡi dao nằm dưới cùng xoay nhè nhẹ nhưng chỉ đủ cứa đứt đôi con tôm khô ngâm vội chưa kịp mềm.
- Bu muốn mạnh hơn nhấn nút kế tiếp nữa. Đây này, nhìn theo con làm cho biết...
Nụ có vẻ hãnh diện vì công việc chỉ dẫn tỉ mỉ này, giống như một cô giáo non nớt chỉ bảo cho cụ học trò:
- Sống ở Mỹ phải như thế chứ! Ai mà cứ ngồi bệt xuống bếp đâm với giã nhìn chán cả ra.
Bà Cửu dễ dãi và vô tư hơn ông. Ngay từ lúc gặp Nụ lòng bà mừng như mở hội, tình mẫu tử lâu nay lắng đọng giờ đảo lộn trong hạnh phúc trùng phùng. Bà nhìn con đầy ắp thương yêu.
- Bu nấu gì vậy?
- Canh riêu tôm với cà chua.
Nụ chun mũi lại rồi đưa mắt nhìn quanh:
- Ảm hết vào màn cửa, thảm thùa. Sao không nấu canh thịt nạc có phải ngon hơn không?
- Thịt nạc ai mua?
Nụ cười hề hề:
- Ừ nhỉ! Bu thích thì con đạp xe ra chợ chỉ vài phút là có ngay.
Nghe đến chợ búa gần nhà, mắt bà chợt sáng và giọng liến thoắng như vừa tiêm được mũi thuốc khoẻ:
- Ngày mai dẫn bu ra chợ mua ít rau rợ cá mú về ăn. Bu bảo thật, cả mấy tuần nay ở trên nhà vợ Tâm thèm rau chết đi được mà không dám há mồm kêu.
- Thì ăn cơm xong lát nữa con chở đi.
Nghĩ đến cái xe đạp cũ kỹ bánh đi đàng bánh, khung đi đàng khung dựng ở góc phòng bà lắc đầu:
- Thôi chả thèm vào, vừa mới sang đây tao chưa muốn chết đâu.
Nghe mẹ nói trúng ý Nụ cười hềnh hệch. Quả thật nếu Nụ chở bà đi chỉ có nước hai mẹ con đánh vật với chiếc xe đạp. Nụ nhìn nồi nước vừa sôi tới nhắc chừng. Bà Cửu bỏ vội những khoanh cà chua đã thái mỏng chung với tôm khô cùng một lượt:
- Nhà không có bột ngọt hở Nụ?
- Ở đây ít ai xài thứ ấy lắm, ba cái chất hóa học làm lủng bao tử. Lần sau muốn canh ngon bu cho vào lon soup gà là ngọt ngay.
- "Xúp" gà có "cà rốt" á!
- Nó là nước thịt gà hầm sẵn đổ vào lon đóng hộp lại. Nước trong vắt như nước lạnh lại có vị thịt gà thơm ngon.
- Thế thì đánh át mùi tôm khô còn gì?
Biết mẹ mình vẫn có tật thích nói chuyện kể lể dài giòng như ngày xưa, Nụ lửng thửng bỏ ra ngoài phòng khách xem ti vi. Tuy thương mẹ nhưng quá khứ nghèo hèn luôn ám ảnh, vì thế tình thương bị mặc cảm lấn át, Nụ luôn mang trong đầu ý tưởng phải gột rửa ông bà cụ thành một người mới để khỏi xấu hổ với bạn bè. Ra đến phòng khách, Nụ ngả người trên ghế. Đối diện, ông Cửu ngồi ngủ gà ngủ gật vì vẫn chưa quen giờ giấc thay đổi nơi đất mới.
- Thầy không dậy tắm rửa rồi ăn cơm à?
Tội nhiệp, ông cụ đang ngủ ngon lại thêm tật lãng tai nên nói đến lần thứ ba mới nghe thấy.
- Gì vậy? Ông giật mình nhưng đôi con mắt lờ đờ khép kín.
- Cơm sắp chín rồi, thầy dậy tắm cho khoẻ rồi còn ăn cơm.
- Tắm gì giờ này? Mà thầy có làm gì đâu phải tắm?
- Thì thầy vào rửa mặt cho tỉnh táo. Tập thức khi trời còn đang sáng cho quen.
- Tập làm sao được, từ khi sang đây đến nay chẳng đêm nào tao chợp mắt, ông thủ thỉ như muốn tâm sự với con, hôm nọ vợ Tâm chở đi mua cho một vỉ thuốc ngủ nhưng rõ là thuốc giả vì chẳng thấy công hiệu gì cả chỉ làm mệt mỏi thêm.
Nụ nhìn thầy mình thương hại vì thấy ông khác xưa quá nhiều. Vẻ mặt lúc nào cũng ủ rũ buồn bã và tư tưởng yếm thế nên kiếm lời an ủi.
- Ngày thầy ngủ đêm thức thì đâu gọi là mất ngủ.
- Nhưng nãy giờ tao đã ngủ được mấy phút?
Đã có sẵn thành kiến và lại cho là cái mặt Nụ nhăn nhẳn trêu chọc nên tự dưng ông nóng cả người lớn tiếng:
- Hết tiếng khua gõ ầm ầm lại tới mày ra đây phá đám.
- Thầy lúc nào cũng bẳn gắt cho nó khổ thân. Thượng đế sinh ra con người phải hơn cây cỏ lá hoa, phải hơn muôn loài cầm thú mà sao hoa biết xòe cánh tỏa hương sắc, chim biết líu lo ca hát, vượn đua nhau chuyền trên cành...
- Chuyền cái con khỉ già. Ngữ mày học hành tới đâu mà giờ giọng văn chương với tao. Tao bảo thật...
- Tao bảo thật... là tao chỉ biết chửi thôi...
Nụ tiếp lời ông rồi cười hề hề. Ông Cửu không thể hiểu nổi. Ngày xưa nó mặc cảm vô cùng, hễ ai nói động đến là tủi thân rúc vào một xó khóc, hễ ai trêu ghẹo gương mặt xấu xí là bù lu bù loa vừa gào vừa kể vừa trách hờn thân phận thế mà bây giờ mới mười sáu năm tính tình nó hoàn toàn khác.
- Tao đã nói gì mà mày bảo là chửi hở con xẽo kia?
- Thì con xẽo... con kia... con ranh... Thầy vẫn không bỏ được những tiếng nhà quê đó. Mình nghe quen nhưng thiên hạ sẽ cho là lời thô lỗ tục tằn. Cũng như có nhiều người mẹ ngắt yêu con mà tím cả mặt mày. Cái gì quá độ, quá lời, quá tay cũng không tốt.
- Phải, ông Cửu gật gù, bây giờ mày hay mày giỏi nên dạy cả thằng bố mày.
- Con thấy ở Việt Nam nhiều bậc cha mẹ thương con quá cũng khổ mà khắc nghiệt với chúng quá lại càng khổ thêm. Con cái vô tình làm rớt cái chén đôi đũa cũng bị đánh túi bụi, quên không cho con gà con chim uống nước là bị đá dập đá dụi. Có người lại còn thả con vô ổ kiến lửa hoặc đánh chúng bằng củi tạ cho đổ máu rồi giã muối ớt xát vào vết trầy cho đau rát đến nỗi phải la làng. Cha mẹ gì mà tra tấn con cái dã man hơn kẻ thù, tội phạm. Qua đây nhiều người vẫn còn tật cũ không bỏ bị lũ con gọi điện thoại số chín một một báo về tội bị cha mẹ hành hung. Dĩ nhiên những người tàn ác như thế bị còng ngay tại chỗ.
Ông Cửu nhìn con, không hiểu nó có ám chỉ gì không vì vụ xát muối hay thả vào ổ kiến lửa tuy ông không làm nhưng dồn bao trấn nước Nụ thì đã có một lần.
- Con người qua đây mới thực sự được coi là một con người. Ngay những tên ăn trộm, ăn cắp bị bắt tại trận cũng không được quyền hành hung đánh đập nó. Có lần bạn con bị giật bóp, chụp vuột tay nên nó thoát chạy mà có súng cũng không dám bắn chỉ vì luật không cho bắn người đàng sau lưng. Súng chỉ để tự vệ chứ không phải dùng để giết người nhất là một khi nó đã sợ và quay lưng bỏ chạy...
Nụ nói và nói nhiều lắm như đang phô bày, khoe khoang mười sáu năm học hỏi nơi xứ tự do. Ông nghe nhưng tai bên này để lọt sang tai bên kia rồi chui tọt ra ngoài vì luôn cho rằng ý ông mới là đúng.
- Mày mới nứt mắt ra mà đã bày đặt dạy đời.
- Con đâu dám nhưng sống giữa xã hội văn minh mình không thể cứ mãi ăn lông ở lỗ, cũng không thể ăn mắm chuột, mắm tôm...
- Con xẽo lại nói nữa cho mẹ mày nghe thấy đào ông bới cha mày lên. Đã ngu thì ngậm cái mồm vào. Còn tao chẳng thà nhịn đói chết nhăn răng chứ không bao giờ ăn cái "hem bơ gơ" béo bổ hồi trưa của mày.
- Nhưng nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục. Bên xứ Mỹ nhà cao cửa rộng, máy lạnh máy nóng thổi ì ì mà nấu ba cái mắm thối cho nó ảm vào quần áo, vào thảm, vào màn cửa thì chịu sao cho nổi...
Buổi trưa sau bữa ăn, bà Cửu ra chiếc ghế salon cũ nằm ngủ say sưa như một đứa trẻ thơ dù đầu bà đã ngoẹo hẳn sang một bên. Nhìn bà ngủ mà thèm trong khi bụng ông lưng lửng những nỗi buồn phiền. Ông đưa tay kéo hẳn miếng màn cửa sổ nhìn ra ngoài. Trời nắng gay gắt nổi rõ từng cụm mây trắng đục lơ lửng lưng trời che lấp mọi cảnh vật như cách ngăn hẳn thế giới loài người. Cái nắng cho ông cảm giác mây được nắng nung nóng rực lên như lòng ông bây giờ, trông vĩ đại, hùng dũng, cao dầy như những vách núi khổng lồ vẫn bị gió xuyên thủng. Lòng ông đã từng bị những mũi nhọn lần lượt đâm nát bấy, như kẻ đói khát còn bị thêm đòn roi vọt. Ông cứ nghĩ thức ăn sẽ ấm lòng con người nhưng không thể ấm được lòng ông. Những lúc ngồi một mình ông thấy lòng trống trải vô nghĩa. Ông nhớ ngày nào từ Bắc vô Nam, dù có vất vả cực khổ trong bước đầu tạo dựng cũng không cay đắng và tủi nhục như thế này. Thật vậy, những ngày sống với Nụ ông mới thấy cả một nền luân lý tự thuở nào bị sụp đổ. Nó chẳng coi ông ra gì. Ông nói một nó cãi mười, đôi khi còn cố tỏ ra hiểu biết để dạy khôn ông. Vẫn biết "tre già măng mọc và vẫn biết rằng "con hơn cha là nhà có phúc" nhưng nó đã được cái khôn ngoan gì ở ngoài đời? Có chăng chỉ là khôn vặt, láu cá và hỗn láo. Ông uất ức khi nhìn thấy nó dằn mạnh đống nồi niêu chén đũa mẹ nó rửa sẵn úp trên rổ:
- Có cái sponge ngay đó sao bu không lấy rửa mà lại tha miếng giẻ hôi thối ở đâu về thế này! Bởi vậy mấy bà già Việt Nam đi đến đâu cũng bị người Mỹ coi thường và chê dơ bẩn đến đó. Tại sao không dùng dishwashing liquid mà lại để mỡ nhẫy nhầy, thật là khủng khiếp!
Nó quăng cái nọ, ném cái kia lăn lông lốc dưới mặt thảm:
- Thầy bu vác của quỷ này từ đâu về cho bẩn nhà.
Bà Cửu ngu ngơ sợ con vất thật vơ vội mấy cái chai bằng thủy tinh cất vào chỗ cũ không dám mắng lại mà chỉ cười hiền hòa:
- Sư con khỉ. Nước cam nước táo uống hết, tao giữ mấy cái chai cái lọ để đựng ba cái vớ vẩn, khỏi mua bán cho tốn tiền.
- Ối trời ơi, Nụ trề môi, ở đây chứ nào phải Việt Nam mà bu giữ lấy để bán ve chai lông vịt. Thứ quỷ này có vất đi cũng chả ai thèm nhặt.
Ông Cửu tức lắm, bây giờ nó ra cái chuyện cha mẹ nghèo nàn thất học, đến một chữ tiếng Tây tiếng Mỹ cũng chả có, lại còn tham bô vơ vét những của thừa thãi rác rến làm dơ nhà bẩn cửa. Nó có biết đâu rằng không để dành làm sao có chai kẹo đắng, chai tôm khô, lọ bột ngọt, lọ gia vị nấu nướng, không nhặt nhạnh sao có hũ dưa, hũ củ cải muối?
Có lẽ ở nhà buồn, theo ông nghĩ, mặc cảm thì đúng hơn, ngay sáng sớm, vừa banh mắt Nụ đã leo lên xe đạp đi khắp cùng đường phố ra chuyện "ét xơ xai" cho người khoẻ mạnh. Đến đúng bữa trưa nó trở về với ba miếng bánh mì vừa tròn vừa dẹp, ở giữa kẹp một miếng thịt băm nướng khắm khói mà nó gọi là "hem bơ gơ" cùng với sáu lon "RC strawberry" nằm ngạo nghễ trên chiếc bàn vuông bốn chân èo ọt xiêu vẹo. Hành động của nó có khác nào dằn mặt ông bà đừng nấu nướng vì sợ bẩn nhà.
Hôm nọ bà hàng xóm biếu đến cả rổ cải bẹ xanh. Ăn không hết bà Cửu cắt ra phơi nắng và muối chua. Nhìn hũ dưa vàng rệu trông đến thích mắt thế mà chẳng biết mới đi đâu về Nụ chun cái mũi lại rồi huỳnh huỵch chạy xuống nhà bếp tìm tòi lục lọi. Cuối cùng khám phá ra, chẳng những nó đổ hũ dưa mà còn lôi được hũ mẻ ông dấu kỹ trong kẹt tủ dồn hết vào thùng rác với lý do mất vệ sinh và hôi cửa nhà. Trong thoáng chốc, bà Cửu thấy bao công lao của mình đi vào trong cái thùng hôi thối kia. Tức quá bà tru tréo cho hả cơn giận:
- Sư bố mày láo lếu, đền tao ngay hũ mẻ.
- Con không đền, bu còn mang nó về con đập vỡ ngay. Nụ trả treo.
- Mày tưởng xin dễ lắm à! Nói năm lần bảy lượt bà hàng xóm mới cho một muôi để gây. Công tao nấu nồi cháo suốt buổi trưa, mày nghĩ xem làm như thế mà coi được hở? Có mẻ nấu tí canh, tí giả cầy, cái gì mà chẳng được.
- Bu biết con mẻ là con gì không? Là con dòi. Con dòi ăn phân người. Nụ gục gặc cái đầu ra chiều bực bội.
Đúng là thứ ngu độn, bà Cửu không thèm chấp với Nụ vì dòi trong mẻ mà đi so sánh với dòi trong phân. Có điều bà cũng phải cho nó biết thế nào là cội nguồn:
- Hồi xưa sang đây mày đã mười tám. Mười tám năm trời đứa nào rúc ở nhà tao ăn canh cá củ chuối nấu mẻ? Đứa nào ăn cá hãm thủy với mẻ? Đứa nào ăn lươn nấu hoa chuối với mẻ? Đứa nào...
Nụ ngắt lời:
- Mười tám năm trời không lẽ con người không thay đổi? Hơn nữa, thịt gà thịt heo ê hề bổ dưỡng như vậy thầy bu không ăn lại đi ăn ba thứ vớ vẩn.
- Nhưng khốn nỗi tao ăn không được những thứ mày gọi là bồi bổ đó, ông Cửu xen vào, cũng như tao không tin được những gì mày đã nói. Mày bảo mày có xe, bây giờ xe đâu hay vẫn chiếc xe đạp thổ tả nghèo nàn nhất nước Mỹ. Mày bảo mày lành lặn, đẹp đẽ ai ngờ nào có khác gì xưa. Rồi mày bảo mày giầu có nên sắm sẵn áo quần mền gối và phòng riêng, ai ngờ qua đây phải nằm đất. Nhà cũng chẳng phải của mày, nay nó tới xét nhà, mai nó cho người theo dõi rình rập. Sống thế thì sống sao được...
Bà Cửu nghe chồng tố khổ Nụ cũng tru lên gào khóc, kể lể nghe thật thảm thiết mặc cho Nụ đứng nghệt mặt ra. Còn thương gì được nữa mà thương quân lừa dối. Sự dối trá hành hạ ông thì ít nhưng sự tin tưởng đến nỗi cuồng dại lại hành hạ ông quá nhiều. Ngày nào qua đây ông chỉ nuôi hy vọng ở một mình nó. Nó đã làm cho ông nở mặt nở mày với xóm ngõ láng giềng và đi đến đâu người ta chẳng nhắc nhở hỏi han cô Út. Cô Út được coi như một thần tượng của các thiếu nữ đang xuân, được coi như thần tài của những gia đình túng thiếu và với ông là cả một hãnh diện tột cùng. Nào ngờ qua đây mới biết nó lại là thứ nghèo đói khố ránh áo ôm nhất nước. Số tiền tàn tật mà ông cho là của trời cho, là một sự may mắn nào ngờ chính là niềm bất hạnh, mất mát của con mình.
Ông Cửu buồn lắm, ông nhớ lại những bữa lễ giỗ dai dẳng kéo dài cả tuần lễ. Song song với việc giỗ chạp là nghe những lời tâng bốc con ông cho xứng đáng với bữa cơm thịt cá thịnh soạn. Việc đó làm ông hãnh diện và vui sướng tột cùng, niềm hãnh diện của một ông bố có con gái giàu sang phú quý, như vua của một cõi mà chung quanh ông là đám quần thần tung hô chúc tụng. Ông tưởng qua đây, bà con láng giềng và những người nào đã từng quen biết ông sẽ phải kính nể, khúm núm, nào ngờ con ông còn nghèo hơn bất cứ đứa nào trong xóm. Thằng con ông Tá, cả năm mới gửi về nhà có mỗi thùng đồ. Ở nhà gia đình nó xúm lại chia năm xẻ bẩy, bóp chắt cũng chỉ đủ ngày hai bữa cơm độn thì nói chi đến việc đình đám thế mà bên đây nó vẫn còn có một chiếc xe hơi cũ làm phương tiện di chuyển, vẫn còn mướn được cái "ờ pá tơ mân" ở thoải mái với vợ con, vẫn còn có công việc để làm chứ không lang thang vất vưởng như con ông.
Ông buồn vì niềm hy vọng hoàn toàn sụp đổ nhưng vẫn còn gượng gạo lây lất sống qua ngày. Điều ông cảm thấy bất lực và buông tay thua cuộc là những bữa cơm khô khan mãi tiếp diễn như loài người phải ăn cỏ khô. Mấy ngày liên tiếp chịu không nổi ông đành than phiền với Tâm. Hôm sau, vợ chồng Tâm mang đến một bao gạo nhỏ, một bịch tôm khô, một chai nước mắm, một hũ mắm tôm và vài cái nồi cũ. Tâm xếp cả lên bàn và bằng giọng trịnh trọng cô con gái rơm rớm nước mắt:
- Chính ra thầy bu phải ở với chúng con, vì dù sao chúng con cũng khá giả tươm tất hơn nhưng cái Nụ côi cút ở một mình cũng buồn. Hơn nữa nó cứ ăn rông ăn rài, học hành chẳng lo học, tính tình cũng quái đản nên có thầy bu ở bên cạnh ép nó vào khuôn phép, ăn uống có chừng có bữa hẳn hòi thì con nghĩ chỉ vài tuần sau là đổi khác ngay.
Nghe Tâm nói thế ai chẳng mủi lòng nhưng thực ra Nụ đâu cần sự săn sóc của ông bà mà trái lại Nụ còn muốn dậy khôn, làm thầy đời.
- Cái Nụ có trở chứng với thầy bu chưa vậy?
- Tao chẳng hiểu ra làm sao cả. Đứa nào qua đây cũng muốn nhà sạch nhà thơm trong khi ăn uống khô khan nguội lạnh. Ăn như thế thì làm sao sống nổi.
- Bên Mỹ khác bên mình thầy ơi. Khổ lắm có nói ra thì bị coi là mất gốc mà ăn uống bày biện ra như thé thời giờ đâu để nấu? Thời giờ đâu mà giặt thảm?
- Nhà giàu mới sợ thảm hôi chứ còn nghèo thì sợ gì ai?
- Cứ như thầy thì mình khác nào mọi.
Ông Cửu nhìn Tâm hậm hực. Ông tưởng than thở với Tâm cho vơi bớt những uất ức chán nản trong lòng ai ngờ Tâm lại cũng cùng một luận điệu như Nụ. Ức mình ông chỉ vào đống nồi niêu cũ và vài món đồ khô Tâm vừa mang tới cất giọng sang sảng với vợ như thuở nào:
- Bà vào cầm cuốn sổ để tôi ghi xem hết bao nhiêu sau này trả lại cho vợ chồng nó.
Quay sang Thành đứng xớ rớ gần đó ông nói tiếp:
- Để lãnh được tiền già thầy sẽ trả cả lời lẫn vốn.
Tâm khẽ cười, nụ cười đầy ngượng ngùng nhưng không phải với ông mà với chồng.
- Còn lâu lắm thầy ơi, phải ba năm nữa. Mà có đáng là bao mà thầy phải bận tâm.
Hơn ba tuần sống trong giả dối, hết che đậy cho chồng lại đến cha mẹ, Tâm tưởng là thoát ách khi ông bà dọn sang nhà Nụ, nào ngờ thấy ông lúc nào cũng bổn cũ soạn lại, vừa dở lại vừa ương. Nàng phân vân không biết nói gì để bớt ngượng với chồng thì Nụ đã nhét ba mươi đồng vào túi Thành:
- Từ bây giờ mọi chuyện ăn ở của thầy bu để em lo. Anh chị còn nhà cửa nợ nần, riêng em đã có chính phủ nuôi không, chẳng đói đâu mà phải sợ. Có điều em không thích thầy mẹ ăn mắm sặc mắm ngóe nên đừng tha xuống nữa.
Tâm giật mình nhìn ông Cửu và đoán chắc cứ luận điệu này trong nhà sẽ xảy ra chuyện lớn. Nàng vội nắm tay mẹ để từ giã nhưng còn làm bộ ra chiều bịn rịn:
- Bu giữ số phone này. Sau năm giờ chiều là con có mặt ở nhà, bu gọi lúc nào cũng được.
Xa Tâm mới có vài ngày nhưng thiếu người trò chuyện bà Cửu mủi lòng oà lên khóc như cuộc chia tay vĩ đại từ Bắc vào Nam:
- Con ở xa thế làm sao đến với thầy bu thường xuyên được.
- Đâu bao xa, Thành chen vào, chỉ mười lăm phút lái xe thôi. Thầy bu yên chí, chúng con sẽ đến đây mỗi tuần chở thầy bu đi lễ nữa chứ!
Ông Cửu giật mình, hôm nọ ở nhà vợ chồng nó đi lễ đã phải mất hơn nửa tiếng mới tới nơi, bây giờ thêm mười lăm phút nữa. Đi về mất tiếng rưỡi cộng với giờ xem lễ là mất toi buổi chiều Chủ Nhật. Ông thở dài:
- Sao chúng mày không kiếm chỗ nào gần nhà thờ mà ở? Xa thế này sáng tối lễ lậy làm sao?
Tâm nhún vai:
- Có sát vách cũng hơi sức nào đi lễ mỗi ngày. Thầy coi làm quần quật từ sáng cho tới đêm, giờ ngủ không đủ lấy đâu mà lễ với lạy.
Ông Cửu bực lắm, nếu ở Việt Nam mà nói với ông những lời lếu láo như thế thì đã bị chửi cho một trận nhưng bên này chúng được tự do ăn nói nên ông cố giữ lời trách thật nhẹ nhàng:
- Chúa ban cho của ăn hàng ngày thì con cố gắng sốt sắng kinh hạt, đi lễ sớm tối tạ ơn Người mới đúng.
- Đi như vậy lấy tiền đâu trả bills hàng tháng? Thầy làm cứ như đang còn ở Việt Nam nằm chơi dài dài khỏi lo lắng gì hết. Bên này nội tiền nhà trả đến mãn đời cũng chưa hết nợ.
- Tao tưởng nhà cửa đó là của chúng mày? Ông ngạc nhiên.
- Thì của chúng con chứ sao! Nhưng tiền đâu mà trả một lúc mấy trăm ngàn trong khi mỗi tháng làm chỉ dư vài trăm bạc cho nên phải ra ngân hàng mượn, như thế tính ra trả ba mươi năm mới hết nợ. Nợ xong cũng đâu có yên, nào thuế đất, thuế county, city, bảo hiểm cháy, bão, động đất... Ôi bằng đó thứ cũng muốn khùng, thầy có tin rằng nhà đã trả xong rồi mà không có tiền trả thuế đất cũng mất nhà luôn?
Ông Cửu nghe lùng bùng ở lỗ tai, cái gì nhà mình rồi không phải nhà mình. Cái gì nợ đến ba mươi năm cũng chưa xong mà còn có thể mất luôn nếu không trả thuế? Thuế là cái quái gì mà chúng nó phải sợ đến thế! Nhà ông đã từng nợ thuế đất đến hai chục năm mà có ai làm gì được đâu. Nếu không phải sang tên cho vợ chồng thằng Chẩn trước khi đi Mỹ thì chắc gì chúng lấy của ông được một xu. Ông định mang kinh nghiệm của mình ra kể cho thằng Thành sáng mắt nhưng mấy lần định mở lời là mấy lần vợ Tâm cố tình gạt đi. Chán nản ông đưa mắt nhìn sang vợ...
Lúc ấy bà Cửu đang nhìn ra cửa sổ và dừng lại thật lâu ở những dãy lầu san sát bọc vòng cái hồ tắm vĩ đại với màu nước xanh biếc. Trong hồ, một đám trẻ đang đùa giỡn với những chiếc phao nổi đủ màu sắc làm bắn nước tung tóe. Mặt chúng đỏ au vì say nắng pha lẫn tiếng cười nói rổn rảng. Chung quanh hồ, loang lổ vài đám cỏ khô trơ đất. Bà chép miệng:
- Giá được miếng đất kia trồng thì có vô số rau mà ăn.
Tâm nhìn theo tầm mắt mẹ, nàng lắc đầu:
- Thảm cỏ xanh tươi đẹp như thế mà bu đòi trồng rau. Thật đúng là...
- Là... là cái gì hở khỉ? Bà quay lại mắng yêu con. Tao chẳng thấy đẹp một khi nhìn nó vô dụng.
- Người ta phá cả vườn cây ăn trái để trồng cỏ cho đẹp cho sang, còn đây có sẵn bu lại đòi phá đi. Nhớ hôm nọ bu ươm trên con mấy hột mướp, sáng nay anh Thành nhổ tiệt.
Tâm giật mình ngưng lại khi biết mình lỡ lời. Quả nhiên bà Cửu quay phắt sang nhìn Thành:
- Hôm đi tôi dặn kỹ là đừng có mở lớp lá khô che bên trên vì nó mới nhú non, nắng gắt quá sợ sẽ chết. Tại sao chưa được vài ngày anh đã nhổ đi?
Tâm nháy mắt nhìn chồng cầu cứu. Nếu bà biết được chính tay Thành hất tung lớp lá khô, cào nát những mầm non mướt như người ta diệt chết một loại cây độc thì bà sẽ tiếc biết chừng nào. Mảnh đất nhỏ bằng chiếc nón khó có thể làm xấu mảnh vườn sau nhưng nếu để lớn lên nó sẽ bò ra cỏ vì không có giàn. Nhà nàng chắc chắn chẳng bao giờ có giàn mướp vì Thành đang cần ánh sáng mặt trời rọi qua khung cửa kính mỗi chiều để làm ấm áp đôi phần cái nền nhà lạnh toát. Hơn nữa, ánh nắng sẽ giết chết vi trùng, khử bớt mùi hôi hám trong nhà. Buổi sáng cào nát cây đâu đã yên, Thành lái xe vào nursery mua bốn miếng cỏ vuông đắp vào khoảng trống mà ông Cửu cuốc lên để trồng cây tuần trước. Thế là xong, từ bây giờ trở đi Thành sẽ không còn ấm ức mỗi khi nhìn thấy nó.
- Tao gieo cả ba mươi hạt, định vài ngày nữa đánh ra cho mỗi nhà ít cây mà trồng. Thật đúng công toi!
Bà Cửu tiếc công trình chăm dẵm lại kèm thêm sự bực dọc khi khám phá rằng đất cát ở đây còn mắc hơn vàng. Chính vợ chồng Thành có nhà cửa rộng rãi mà còn tiếc cả nắm đất nói gì đến những nơi khác, như nhà cái Nụ, giọng bà gay gắt:
- Biết chúng mày nhổ đi thì tao đã mang hết xuống đây mà trồng.
Ông Cửu cũng ấm ức nãy giờ nhưng vẫn nhỏ nhẹ:
- Bà nhổ lên nó động rễ trồng sang năm cũng chẳng có trái. Mà thôi tiếc làm gì, bây giờ ươm lại cũng đâu có muộn. Mình còn cả bao hạt giống cơ mà!
Bà còn đang ngẩn người ra ngẫm nghĩ thì Nụ giọng nửa đùa nửa thật:
- Ở đây đất đâu có mà bu trồng? Còn nếu cứ ngoan cố trồng trong chậu cho nó bò trên tường thì con chỉ tặng cho ly nước sôi là xong ngay.
Nhìn dáng điệu ngông nghênh của Nụ, bà lườm yêu nó một cái thật dài:
- Ngoan cố cái thằng bố mày. Lớn tồng ngồng mà ăn nói không phép tắc thì liệu cái phần hồn mày.
Nụ cười hề hề, tiếng cười dễ dãi của ngày xưa nhưng bây giờ đối với ông Cửu hình như đang pha trộn cả sự khiêu khích lẫn thách đố. Nụ không còn im lặng khoanh tay cúi đầu nhận lỗi mỗi lần ông quở trách dù đúng hay sai mà luôn luôn dùng lý lẽ để biện hộ cho mình. Ngay vấn đề ăn uống tắm rửa vệ sinh của ông nó cũng chen vào khích bác và chống trả kịch liệt dành phần đúng về nó. Nụ luôn kết luận bằng một câu nói mà ông ghét cay ghét đắng: "Ở nước Mỹ mà thầy làm như đang ở với mọi Rha Đê".
Bảo vợ chồng Tâm tệ bạc chứ suy ra Nụ còn tệ hơn nhiều. Cái tình cảm cha con mặn nồng khi xưa giờ như chỉ còn liên hệ bởi những câu thưa gọi thầy bu, ngoài ra cách đối xử không thua người dưng nước lã. Chính ra ông về đây Nụ phải vồn vã, mừng rỡ, đàng này lại dửng dưng ra chuyện chấp nhận như rước của nợ. Hễ đi đâu thì thôi mà về đến nhà là nó chun mũi hửi chỗ này, hít chỗ kia. Hôm nọ bà Cửu đang kho chả với nước mắm. Từ ngoài vào nó chun cái mũi rồi nhảy lên như bị phong giật và hấp tấp lao đầu về phía trước.
- Chúa ơi! Bu nấu cái gì mà thối tha như thế!
Thấy Nụ về nhưng ông Cửu vẫn giật mình vì tiếng hét của nó. Mùi đồ ăn thoang thoảng, đúng là mùi chả kho nước mắm, cái mùi khăm khẳm quen thuộc làm các tế bào trong ông chỗi dậy và buồng phổi nở to ra. Ông thấy bụng cồn cào đói và bước nhanh theo Nụ xem nó định dở trò gì. Dưới bếp, bà Cửu đang lui cui đổ chả ra dĩa và trên bàn đã bày sẵn hai tô canh bí đao. Sau lưng bà, Nụ đứng chống nạnh mặt sưng lên.
- Bà làm gì mà ngon thế! Vừa nói để đánh trống lảng ông vừa kéo ghế ngồi xuống.
- Ngon với chẳng ngon, Nụ gắt khá lớn, mình đâu phải là mọi Rha Đê mà đòi ăn mắm chuột. Sang đến xứ sở này mà còn ăn kiểu hôi hám đó.
- Sư mày, không ăn thì xéo đi chỗ khác.
Bà Cửu lườm con nhưng vẫn dọn ba cái chén trên bàn.
- Con không ăn đâu, nuốt gì nổi mà nuốt. Nhà Mỹ mà bu nấu nước mắm tanh như chuột chết.
Hình như mỗi lần trước mâm cơm vừa chín tới, ông bà quên tất cả mọi chuyện đang diễn tiến chung quanh. Có thể cả hai cùng áp dụng câu trời đánh còn tránh miếng ăn nên cố nín nhịn nhưng thái độ tảng lờ của ông bà càng khiến Nụ thêm bực dọc. Mặt đằng đằng sát khí, mắt Nụ bất chợt dừng lại ở cửa sổ, nơi treo tấm màn bằng voan đã cũ. Phải làm một cái gì đó để biểu tỏ sự tức giận hơn là la hét. Không chần chờ, Nụ với tay lên và giựt mạnh xuống, lớp bụi phủ theo đà rơi bay tứ tán trong lúc bà đang lấy cơm ra đĩa. Ông Cửu tuy kẻm nhẻm nhưng cũng nhìn thấy tận tường. Ông cố vuốt giận cho chính mình:
- Một nháng là mùi hôi bay đi hết ấy mà. Nấu món ăn Việt Nam mà không bốc mùi ăn làm sao ngon.
Quả tình ông muốn nhịn Nụ thực sự vì nấu được lần này sẽ có lần khác. Ông sợ những bữa cơm lạt lẽo mùi vị, ông sợ những cái "hot dog" Nụ mang về
- Ngon cái miệng mà chết cái nhà, Nụ vẫn cứ gân cổ, khách khứa bạn bè ra vô chúng khinh cho.
- Nhà có phải của mày đâu mà giữ như mả tổ?
- Nhà ai thì cũng phải ăn ở cho vệ sinh sạch sẽ chứ! Chẳng thấy ai như mấy bà già Việt Nam dơ bẩn...
Bà Cửu cảm thấy bực bội vì Nụ cứ càu nhàu những chuyện không đáng, bà dằn mạnh nắm đũa lên bàn:
- Chúng khinh là khinh thứ lêu lỏng chơi bời, không tiền không bạc chứ khinh mùi nước mắm kho chả à!
Bị va chạm tự ái, Nụ nói như hét:
- Nhưng con không bằng lòng nấu nước mắm trong nhà. Rồi bu xem, thằng chủ nhà tí nữa bò lên đây nó sẽ cho một tràng vệ sinh thường thức. Nào là văn hóa dân tộc, nào là tiến bộ của loài người. Thầy bu có tai đâu mà nghe, chỉ tội cho con mà thôi.
Gì chứ nói đến chủ nhà là bà Cửu ngậm tăm. Tuy không rành nhưng nghe vợ Tâm bảo ở nhà housing tụi nó rất khó nhất là tụ họp ăn uống đông đảo, ngay như Nụ tật nguyền thế mà động một chút là chúng "đì" bắt dọn tới dọn lui. Bà Cửu không sợ phiền đến Nụ nhưng sợ bị đuổi ra khỏi nhà. Thân ông bà đã ăn đậu ở nhờ lại bám cả vào Nụ cũng đang ăn nhờ ở đậu nốt. Vừa giận lại vừa tủi, tay bà run lên khi bới cơm ra chén:
- Dù gì cũng lỡ rồi, để nuốt cho trôi bữa nay rồi từ mai tao chỉ luộc tí rau chấm với nước mắm. Thôi ngồi xuống đi đừng hùng hổ nữa Nụ ạ!
Chuyện chẳng có gì đáng để làm to nhất là đang trong bữa ăn nhưng khốn nỗi Nụ vẫn bực mình vì chẳng hiểu tại sao ông Cửu lại cứ lời nặng lời nhẹ với mình. Thêm vào đó Nụ muốn chứng tỏ mình văn minh tân tiến nên vùng vằng mở tủ tìm chai nước khử mùi hôi và cứ để như vậy vung vẩy đi từ nhà trên xuống nhà dưới xịt nước bay mù. Bà Cửu nhìn theo lắc đầu:
- Nhà có thua gì cái ổ chó. Bộ ghế nệm cũ ảm toàn mồ hôi, thảm cũng đen cáu toàn những đất mà ra bộ quý hoá trưởng giả. Mà cũng tại ông viết thư sang tán dương sự giàu có sang trọng làm nó được thể càng thêm hống hách.
Nãy giờ cố nín nhịn với con, bao nhiêu tức giận bị dồn nén ông Cửu quay ra gay gắt với vợ:
- Phải, lỗi tại tôi cả mọi đàng. Ấy thế mà lại có người đứng ngay kế bên cổ võ mới lạ.
- Tôi mù chữ biết đọc đâu mà cổ với đầu.
- Không biết đọc nhưng bà có tai nghe chứ!
- Thì ông đọc chứ còn ai vào đó nữa.
- Có đọc cũng nhìn trong thơ chứ chẳng lẽ bịa ra à!
- Vậy chứ ai đi khoe từ đầu trên xuống xóm dưới?
- Tôi khoe thì nào đã mất mát gì?
Những ấm ức đang xảy ra từ Nụ không ngờ hai ông bà lại quay đầu lại la ó nhau như hai đứa trẻ nít. Bà Cửu cảm thấy mặt nóng bừng và cơn giận từ đâu kéo tới, bà nói hơi lớn tiếng:
- Ai bày tiệc lớn tiệc nhỏ? Ai bảo nó gửi máy này máy nọ về nhà? Rồi ai viết thư xin hết vải "suýt" đến vải gân cho cả giòng họ? Ai...
- Ra bà kể tội tôi đấy nhỉ! Nó bảo nó giàu, tiền của xài không hết phải gửi cho các hội từ thiện để giúp đỡ trẻ em bệnh tật bên Phi Châu hoặc những thuyền nhân còn đang tạm trú bên đảo. Bà nghĩ xem giòng họ mình không nghèo hơn những người đó hay sao?
Mỗi khi tranh luận, bao giờ ông Cửu cũng thắng, chả thế mà cả một đời lúc nào bà cũng cung cúc nghe theo chồng. Hơn năm mươi năm làm vợ và làm dâu bà nhận thấy những khó khăn, độc đoán bên gia đình chồng hầu như đã trở thành chuyện bình thường và một người yếu đuối không lập trường như bà thì cũng dễ dàng chấp nhận. Thoạt đầu là nhượng bộ những quá trớn của chồng, sau nữa vì yêu thương và vì muốn gia đình êm thắm cho nên bà luôn tâm niệm "một câu nhịn là chín câu lành." Dần dần từ "nhịn" chuyển sang "sợ" không mấy khó, lúc nào bà cũng ở cạnh ông như một kẻ đầy tớ hiền lành và trung thành nhất. Ông bảo sao bà nghe vậy, ngay đến quyền làm mẹ cũng chẳng có, thương đứa này bỏ đứa kia cũng từ ông mà ra. Những khi ông la mắng con cái, bà cũng len lén trốn một chỗ cho qua cơn sóng gió hoặc mẹ con ôm nhau ngậm ngùi.
Ông oai phong là thế, ông uy quyền là thế mà bây giờ bà dám trả treo một đối một là sự chẳng vừa. Cái lý do để bà được quyền bình đẳng, ngang hàng với chồng chỉ vì ông không dám đánh bà nữa sau lần đuổi bà chạy từ nhà ra vườn. Dù chuyện xảy ra cách đây tám năm nhưng bà nhớ rõ như in là chiều đó sau khi la cà ở nhà hàng xóm đến gần nửa ngày mà không xin phép ông trước Biết tội, bà lấm la lấm lét lẩn về đến đầu ngõ, lòng mừng khấp khởi vì nghĩ ông đi đâu chưa về. Ai ngờ rình sẵn từ lúc nào nên bà vừa bước chân vào nhà ông đã giơ cao chiếc gậy phạng vào lưng. Nhanh như cắt, bà tránh được và quay ngược lại phóng bay ra ngoài. Thế là hai mái đầu bạc trắng nhấp nhô theo đôi chân nhỏ thó đuổi nhau trước sự thích thú reo hò của đám con nít. Bà tuy bé người nhưng chạy thật khoẻ, cũng có thể vì sợ khúc gậy quá to đang gần kề nên bà quên hết nhức lưng phong thấp, quên luôn bờ ruộng ướt và trơn tuột. Bà thoăn thoắt băng ngang những vườn rau xanh lá, đạp lên cả luống su hào vừa gieo hột tuần trước. Hấp tấp thế nào mà khi chạy dọc theo bờ ao bà ngã sõng xoài và lăn tỏm ngay xuống.
Ở dưới ao nước lạnh cắt da, bà quên buốt giá quơ mạnh chân tay lội bì bõm. Cũng may ông Cửu vừa tới nơi thò vội cán gậy cho bà bám lấy để trèo lên. Trông bà nhanh nhẹn khỏe khoắn nhưng khi vừa bò lên tới bờ ao đã nằm ngất xỉu làm ông tủm tỉm cười. Ông cho rằng bà mưu mô nên cố giả đò để vừa tránh cảnh bị đòn lại vừa được chồng thí dỗ năn nỉ. Ai ngờ gọi đến năm lần bẩy lượt cũng không nhúc nhích, lại thấy mặt bà càng lúc càng tái mét, ông hốt hoảng la to cho mọi người đến giúp.
Lúc đó, những người làm vườn còn ở đủ cả nên họ xúm lại kẻ thoa dầu người cạo gió. Vần qua vật lại, đến lúc cạo trúng ngay đốt xương sống bà oằn người và kêu thét lên. Thế là kẻ đoán gẫy lưng người cho là bị trật xương sống bèn gọi xe đưa bà vào ngay bệnh viện. Thuốc men cả tháng trời nhưng khi xuất viện bà vẫn khập khễnh chống cái nạng gỗ vì hai dĩa sụn bị bẹt ra theo thời gian gồng gánh nặng nề nay có cơ hội phát chứng.
Từ hôm bị ngã ao, bà chỉ loanh quanh trong nhà làm những việc nhẹ. Ngoài vườn không người phụ giúp, có mỗi thằng con nuôi còn nhỏ lại ham chơi hễ ra tới vườn là xuống ao mò cua bắt ốc. Ông bảo cách nào cũng không được. Vắng một chút đã thấy nó biến mất nhưng bù lại có những buổi tối nó mang về cả rổ ốc mít. Ông Cửu thích ăn ốc nấu chuối xanh với mẻ, bỏ thêm vài lát bì heo hầm cho nhừ, chút mắm tôm và rắc vài cộng tía tô hoặc lá lốt. Nghĩ đến món canh ốc, ông quên mình đang gầm gừ với vợ con nên múc muôi canh đổ vào chén xì xụp húp:
- Giá có ốc nấu chuối bà nhỉ?
Hương vị quê nhà bốc lên khí quản làm bà nuốt nước bọt ừng ực và cũng quên luôn câu chuyện vừa xảy ra. Bà nghiêng chén sát bên đĩa cơm rồi lấy đũa gạt vào, cơm dẻo trắng tinh không chút mùi thơm nhưng bà vẫn lấy đũa gẩy một bểu cho vào miệng nuốt trửng như mọi lần rồi mắng yêu chồng:
- Có voi đòi tiên, hơn nửa tháng nay ở nhà vợ Tâm bó buộc, cố mơ ước có ngày được tự do xào nấu, bây giờ vừa bữa đầu tiên đã đòi ốc với chuối. Bên này đào đâu ra thứ ấy.
- Cứ để yên rồi bà xem, vừa gắp miếng chả kho ông vừa rung đùi làm chiếc ghế èo ọt lại được dịp lắc lư, chỗ nào có Việt Nam là có tiết canh, dồi chó. Mắm tôm họ còn đóng chai được, không lẽ lươn, ốc, hoa chuối lại không? Một vài ngày cho quen nước quen cái, tôi đảo khắp một vòng quanh đây thể nào chả kiếm ra.
- Ông thì chỉ cứ giở giọng khoác lác, hồi trưa dọn nhà vào đây tôi nào có nhìn thấy ai là Việt Nam đâu.
- Bà không thấy nhưng tôi ngửi thấy.
Bà Cửu hom hem cười, hình như đã lâu, từ ngày rời Việt Nam bà không có được nụ cười nào cả.
- Làm như là chó.
Biết vợ hết giận ông cũng cười đồng tình coi như chuyện cãi nhau vừa xong chỉ là món canh nấu mặn, khó nuốt nên ông không chấp nhất những lời đùa giỡn của vợ.
- Còn giỏi hơn cả chó nữa, nếu không sao tôi ngửi thấy mùi trứng chưng mắm tôm. Mai bà làm một bữa mà ăn, món nào mà cứ hôi um lên là tôi chịu.
Nghĩ đến đĩa trứng chưng mắm tôm màu nâu đất vừa đặc vừa sệt bốc vị thơm ngào ngạt, bà chợt nhớ đến Nụ và những tức giận của nó nên nhỏ giọng:
- Thôi đừng chọc cho nó nổi điên lên nữa. Bớt mồm ăn bớt miệng nói lại là yên ấm cửa nhà. Nó cũng tròm trèm băm tư chứ còn nhỏ nhít gì, nay mai lỡ đứa nào phải lòng lấy nó là thành mẹ, thành bà mấy hồi.
Ông Cửu nhìn vợ, không hiểu bà dùng sai chữ hay vì lý do gì mà lại nói "phải lòng". Thường thường hai tiếng phải lòng để ám chỉ những gì không mấy tốt đẹp xảy ra. Tuy nhiên bữa cơm hợp khẩu vị nên ông cười dễ dãi và cùng a dua với vợ:
- Bà nói thế mà hay. Chỉ có đứa nào lầm lỡ nên mới phải lấy nó mà thôi.
Thực ra bà Cửu dùng tiếng lỡ cũng hơi quá đáng. Nụ tuy xấu và tật nguyền nhưng dưới đôi mắt của những người Mỹ, những người có lòng nhân từ bác ái thì lại là kẻ đáng thương. Ngay vài tuần đặt chân sang Mỹ, nàng đã được bác sĩ Tim McCabe đề nghị mổ để đặt lại sợi dây gân cho thẳng, may ra có thể trở lại bình thường như mọi người. Lúc đó còn trẻ, còn hy vọng nên Nụ vui vẻ yêu đời lắm. Nàng viết thư cho bạn bè ở khắp mọi nơi, nhất là thơ về Việt Nam tường thuật mỗi biến chuyển của căn bệnh. Mổ xong, Nụ chỉ được nằm nhà thương vài ngày làm nàng thấy ngỡ ngàng. Tụi Mỹ dùng tiếng surgery nghe có vẻ to lớn vĩ đại chứ thật ra chỉ rạch mỗi một đường dài khoảng hai phân ở hai cổ chân. Nụ thở hắt ra khi ngày đầu tiên y tá lại thay băng và nhìn tận tường vết cắt:
- Tại sao không mổ dài thêm tí nữa hoặc rạch hết cả ống chân?
Nụ nằm vật vã trên giường sắt với thất vọng tột độ làm bình nước suối nối dài bằng vòi cao su nhựa chao động mạnh. Cô y tá hiểu lầm sự đau đớn của Nụ nên vỗ về:
- Không sao đâu, vết thẹo rồi sẽ biến mất.
- Tôi muốn có thẹo, thật nhiều thẹo cô nghe rõ chưa?
Nụ khóc lên rưng rức y như nhiều thẹo thì sẽ được lành bệnh và bằng thái độ trẻ con, nàng phân trần:
- Chỉ rạch một chút như vầy thì cần gì đến thuốc mê, cần gì người đến ký giấy tờ? Tôi tự rạch cũng được vậy.
Giờ thì vỡ lẽ, cô y tá ái ngại:
- Không phải vậy, bác sĩ chỉ giải phẩu những chỗ cần thiết thôi. Bệnh của cô khả quan lắm mà.
Nụ để mặc nước mắt nhỏ xuống từng giọt dài không cần dấu diếm. Bao nhiêu hy vọng đều tùy thuộc vào vết khâu, vết khâu càng dài, càng đau đớn nhức nhối thì sự thành công càng cao thế mà lý do gì bác sĩ chỉ mổ lấy vì? Tuy buồn nhưng cũng chưa hẳn là Nụ đã hoàn toàn tuyệt vọng vì bác sĩ chưa cho biết kết quả thì mọi phỏng đoán chỉ là tưởng tượng. Nụ cố lấy buồn làm vui nên hôm xuất viện nàng gọi thằng Peter, bạn học cùng lớp, mang máy chụp hình và nhờ cô y tá chụp dùm. Peter tướng tá cao ráo, mắt xanh, tóc vàng lại khá đẹp trai và rất tự nhiên. Nó đứng đàng sau vòng cả hai tay quanh vai Nụ, mặt cúi thật thấp và thật sát. Mắt nó cười mơ màng như đang chụp với người yêu mặc dù nhiều lúc đùa cợt nó hay gọi Nụ là "little sister". Đôi khi thân mật hơn nó ôm lấy cổ Nụ kêu "Oh! my baby". Mặc kệ, gọi gì thì gọi. Việc trước tiên là phải gởi những tấm hình "như là tình yêu" này đi tứ xứ để "giựt le" với bạn bè, nhất là với cha mẹ mình để ông bà phải la hoảng. Quả nhiên, vừa trông thấy hình ông bà nhảy dựng lên như điện giựt nhưng sự hốt hoảng chứa đựng đầy vẻ hãnh diện nên chỉ vài phút sau ông bà hân hoan đi từ đầu trên xóm dưới khoe thành tích "vinh quang" của con mình. Qua Mỹ lấy được chồng Mỹ mới ngon, vì nếu không nói được tiếng của họ thì ai mà cưới. Ông bà chỉ đơn giản hiểu như thế, cũng như mọi người trong xứ ai cũng quan niệm nếu nói được tiếng Mỹ là đã thành công trong tất cả mọi mặt kể cả kinh tế vì tụi Mỹ tuy lớn xác nhưng đầu óc không hơn gì một đứa con nít.
Xuất viện về Nụ ở nhà thêm một tháng để tập cử động, tập đi và tập đứng. Chẳng có gì khác biệt hơn ngoài cây gậy chống cho khỏi ngã. Tuy nhiên, gậy làm Nụ coi bộ chững chạc và có vẻ bà cụ hơn, dáng đi cũng khoan thai chứ không vung vẩy, loạn xạ như trước. Tóm lại Nụ cố giả vờ tự tin một cách ngu xuẩn, bám víu vào những vết thẹo như một bằng chứng hiện hữu để đánh lừa những cay đắng của mình vì một tháng trôi qua vẫn không xóa được một phần nhỏ của bệnh tật, có chăng thêm được hai vết thẹo con đã liền da non.
Lúc đó Tâm chưa lấy chồng, chưa xin được housing ngoài welfare, foodstamp nên hai chị em ở chung phòng với một số bạn bè khác. Thỉnh thoảng những lúc vắng người, Nụ ném gậy thử đi một mình. Lại y như xưa, có nghĩa là lúc nào cũng như vồ như ôm chầm lấy người khác. Là con gái nên lắm nước mắt, nhiều lúc khóc chưa đủ, Nụ chống nạng thất thểu ra ngoài park rồi thừa lúc nhìn quanh quất không thấy ai, Nụ vung gậy quất vun vút vào những đám cỏ non mướt khiến rễ, đất cát tung bay vùn vụt. Từ đó chiếc gậy không còn là điểm tựa cho Nụ dùng để đi mà dùng để biểu lộ những uất hờn đã che dấu một tâm trạng vô cùng đau khổ. Chiếc nạng bị sứt sẹo cào nát nhiều chỗ thì cơn buồn giận của Nụ càng vơi đi.
Lâu dần cũng nguôi ngoai, Nụ đã tập cho mình một thói quen che đậy, cứ nghĩ như đã khỏi bệnh hẳn và cố quên buồn bằng cách bỏ học dù mới chỉ lớp mười. Tiền tàn tật được hơn sáu trăm mỗi tháng, sau này lại xin được housing nên vật chất tương đối thoải mái. Hơn nữa Nụ ăn uống dễ dãi, nhiều khi buổi trưa chỉ cần một ly nước lạnh và gói potatoes chip hai mươi lăm cents cũng xong. Tối nào vui trong lòng hoặc bụng cồn cào đói thì đi bộ ra đầu đường kiếm cái Big Mac, tiện tặn chút nữa thì cái hamburger cho nên Nụ cũng dư khá tiền dù đã gởi hàng tháng về nhà.
Một lần Nụ đi ra nước ngoài thăm bạn bè. Cái phút cảm động và sung sướng nhất đời là lúc Nụ chống nạng từng bước một từ hành lang nối liền máy bay đến tận phòng đợi giữa tiếng reo của cái Xu, cái Hào, giữa tiếng "Oh, my God" rất Mỹ và những cái bắt tay nồng nàn, những vòng ôm cứng ngắc không khác một bà tổng thống đi kinh lý. Nụ hãnh diện với cái nhãn hiệu "công dân Mỹ" và bộ quần áo "Mỹ" trên người mặc dù hai con bạn đến đón trông nó cũng "hơi văn minh" giống Nụ. "Mặc kệ, diện thế nào thì diện chứ Thụy Sĩ sao bằng Mỹ, đem so sánh chẳng khác nào lấy đá phân bì với cẩm thạch.
Hai con bạn thân từ hồi còn ở quê nhà, chung trường tiểu học, chung lớp, chung mâm và đôi khi còn chung cả giường nên ra chiều vui vẻ thân mật lắm. Chúng đón Nụ bằng chiếc xe Pinto cà rịch cà tàng. Tuy nhiên tiếng nổ lớn lại làm Nụ vui vì có bao giờ nàng được ai đưa đón bằng xe hơi ngoài vợ chồng Tâm. Tâm thì màu mè kiểu cách, mỗi lần bỏ Nụ xuống y như rằng vội vã phủi bụi, đất cát ở miếng thảm con để chân. Đã vậy những giấy kẹo ăn xong lỡ có rơi xuống cũng không thoát khỏi đôi mắt cú vọ của ông anh rể.
Xe loanh quanh trước một sân parking rộng lớn nhưng khó tìm được chỗ đậu sau sáu giờ chiều. Đeo túi xách trên vai, Nụ khệnh khạng chống gậy theo chân bạn lên cầu thang vào một trong những building nghèo nàn cũ kỹ ngay trung tâm thành phố. Đám bạn khố rách áo ôm lẫn lộn sáu đứa trong một phòng, tưởng đón được "bà Mỹ con" từ xứ văn minh giầu có để được chia chác chút đỉnh. Nào ngờ trong túi xách Nụ mang theo chỉ vỏn vẹn vài bộ quần áo đã qua mùa, vài chục tấm hình với những "thằng kép" Mỹ mập phục phịch nhỏ hơn Nụ đến cả mười lăm tuổi và chiếc máy ảnh "thổ tả" không đáng giá mười đồng bạc. Ngày đầu chúng còn mong ngóng may ra Nụ mang theo chút đỉnh tiền bao đi uống cà phê hay ăn tô phở. Nào ngờ Nụ quen tính tằn tiện bóp chắt cho nên suốt từ sáng, trưa đến chiều tối chúng chỉ thấy Nụ mò vào tủ lạnh lục lọi kiếm vài khoanh bánh mì kẹp vào miếng cheese, hoặc nấu chén mì gói trông thật thê thảm. Thế là cả đám đứa thì cáo bệnh, đứa phải đi học, đi làm thành ra Nụ trơ trọi một mình. Một hai ngày đầu Nụ không để ý nhưng lâu ngày thấy sự lơ là của chúng bạn, Nụ chột dạ vội gọi điện thoại mượn Tâm năm trăm đồng để tiêu xài và góp thêm phần ăn của mình chờ cho hết tháng và chờ cho chóng tới ngày về.
Sau chuyến đi Thụy Sĩ kèm theo những kinh nghiệm đã có, Nụ chỉ loanh quanh trong nước và rút ngắn thời gian thăm nom vừa tiện túi tiền vừa đỡ vất vả cho bạn bè. Mười năm, Nụ tổ chức bốn cuộc du lịch. Chính vì thế mà làm xóm ngõ xì xào bàn tán và làm cha mẹ Nụ mang cái hãnh diện lầm lẫn. Con bé tật nguyền đã biến mất chỉ còn nàng Cám vớ được chiếc hài tiên đã thoát xác với những ăn xài vung vít, rộng rãi giàu có và ngay đến vấn đề chồng con ai cũng cho là Nụ kén chọn chứ nào ngờ...
Giận con, ông châm biếm cho hả cơn tức nhưng thực ra tâm can lại thấy nhói đau. Dù gì nó cũng là con ông, là máu mủ ruột thịt, là công vợ ông mang nặng đẻ đau và cũng là công dưỡng dục