← Quay lại trang sách

Chương tám

Lama tu viện trưởng gọi lấy thêm nước để giải khát, do đó câu chuyện buộc phải ngừng lại; Conway không lấy làm ngạc nhiên vi nói chuyện lâu như vậy hẳn đầu óc căng thẳng. Bản thân anh cũng cảm ơn việc ngừng nghỉ. Anh cảm thấy quãng ngắt này cần thiết về phương diện nghệ thuật cũng như về mọi phương diện khác, và những chén trà kèm theo những câu nói lịch sự ngẫu nhiên theo tập tục thông thường làm nhiệm vụ như một Cadenza30 trong âm nhạc. Ý nghĩ ấy (trừ phi đây chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên) đã đưa ra một thí dụ kỳ lạ về khả năng thần giao cách cảm của Lama tu viện trưởng, vì lập tức ngài bắt đầu nói chuyện về âm nhạc và tỏ ý rất thích thú khi thấy sở thích của Conway về âm nhạc không phải hoàn toàn không được thỏa mãn ở Shangri-La. Conway trả lời rất lễ phép và nói thêm rằng anh lấy làm ngạc nhiên, vì thấy tu viện Lama có một thư viện với đầy đủ những tác phẩm của nhà soạn nhạc châu Âu. Lời chúc mừng được thu nhận giữa những hớp trà chậm rãi uống. “À, Conway thân mến của ta, chúng tôi rất may mắn trong những người của chúng tôi có một nhạc sĩ có tài - thực tế, người ấy vốn là học trò của Chopin và chúng tôi lấy làm sung sướng được đặt trong tay ông ta toàn bộ việc quản lý phòng tiếp khách của chúng tôi. Ông chắc chắn cần phải gặp ông ta.”

“Tôi rất mong được gặp. Tu sĩ Tưởng đã nói cho tôi biết nhà soạn nhạc phương Tây mà tu viện trưởng ưa thích là Mozart.”

“Đúng vậy,” có lời đáp lại, “Mozart có một vẻ tao nhã khắc khổ mà chúng tôi thấy rất vừa lòng. Ông ta tạo nên một ngôi nhà không to quá mà cũng không bé quá và trang bị đồ đạc cho nó với một khiếu thẩm mỹ tuyệt hảo.”

Cuộc trao đổi tiếp tục cho đến khi các bát uống trà được cất đi, lúc đó Conway đã có thể hoàn toàn bình tĩnh nói. “Vậy, để tóm lại những câu chuyện cha và con trao đổi vừa qua, cha muốn giữ chúng con lại phải không. Đây, theo con hiểu, là điều kiện quan trọng và không thay đổi?”

“Con đã đoán rất đúng.”

“Nói cách khác, chúng con sẽ phải ở lại đây vĩnh viễn?”

“Cha rất muốn cùng cái thành ngữ tuyệt vời của tiếng Anh và nói rằng tất cả chúng ta ở đây for good31“.

“Điều khiến con băn khoăn là tại sao lại chọn bốn chúng con trong số tất cả những người trên thế giới này?”

Trở lại thái độ trước và có vẻ quan trọng hơn nữa, Lama tu viện trưởng đáp: ” Đấy là một câu chuyện khá phức tạp, nếu con muốn lắng nghe. Con phải biết rằng, chúng ta bao giờ cũng hết sức giữ con số người của chúng ta ở đây không thay đổi qua tuyển mộ liên tục và không kể đến nhiều lý do khác, chúng ta ở đây thích sống chung với nhũng người ở nhiều độ tuổi và đại diện cho những dân tộc khác nhau. Chẳng may, từ cuộc Âu chiến vừa qua và cuộc Cách Mạng Nga, việc đi du lịch và thám hiểm ở Tây Tạng đã hầu như hoàn toàn gián đoán; sự thực, người khách cuối cùng đến đây là một người Nhật, vào năm 1912. Thực thà mà nói, vị khách này không phải quý giá lắm. Conway thân mến, con biết đây, chúng ta ở đây không phải là những người giả dối ba hoa; chúng ta không làm và cũng không thể làm chuyện bảo đảm mọi sự thành công; một số khách đến không kiếm được lợi lộc gì với việc họ ở lại đây; một số khác chỉ sống đến cái tuổi có thể gọi là tuổi cao một cách bình thường rồi chết vì một cơn yếu đau vặt. Nói chung, chúng ta thấy người Tây Tạng do họ sống quen với cả độ cao cùng nhiều điều kiện khác, nên họ là những người hấp dẫn và chúng ta đã kết nạp họ nhiều, nhưng ta vẫn chưa tin nhiều người trong số họ qua được trên một trăm tuổi.

Người Trung Quốc có thuận lợi hơn, song ngay trong số họ cũng rất nhiều người không đạt. Những tín đồ tốt nhất của chúng ta chắc chắn là những người Miền Bắc và dòng giống Latinh ở châu Âu; có lẽ người Mỹ cũng có thể thích nghi được, và ta coi đây là một cơ may lớn cho chúng ta nếu chúng ta cuối cùng có được một trong số nhũng người cùng đi với con, mang quốc tịch nước đó. Nhưng ta phải tiếp tục giải đáp câu con hỏi. Hoàn cảnh là, như ta vừa đã giải thích, gần hai chục năm nay ở đây chưa đón được một người nào mới, trong khi ấy nhiều người ở đây đã mất đi, một vấn đề bắt đầu được đặt ra. Song, cách đây mấy năm, một người trong chúng ta đã có một ý nghĩ mới để giải quyết; anh ta là một thanh niên, một người thổ dân ở thung lũng này, một người tuyệt đối đáng tin và cảm thông tha thiết với mục đích của chúng ta; nhưng, cũng như tất cả mọi người dân ở thung lũng, do bản chất nên anh đã không có được cái cơ hội mà nhũng người ở xa thường may mắn có được hơn. Chính anh ta đã đề ra ý kiến là anh ấy cần phải ra đi, tìm đường đến một vài nước xung quanh đây để rồi mang về một số đồng nghiệp bổ sung bằng một phương pháp mà ở thời đại trước kia không thể thực hiện được, về nhiều phương diện, đây là một đề nghị táo bạo, cách mạng, nhưng chỉ sau khi cân nhắc suy xét kỹ chúng ta mới chấp thuận. Vì, như con biết đây, chúng ta phải tiến kịp thời đại, ngay cả ở Shangri-La đây.”

“Cha muốn nói anh ta được cử đi với chủ tâm đưa một ai đó về đây bằng máy bay?”

“Ồ, con biết đây, anh ta là một thanh niên cực kỳ tài giỏi, tháo vát và chúng ta rất tin cậy. Đây là ý kiến của chính anh ta, nên chúng ta đã cho phép anh ta tùy ý thực hiện. Tất cả những gì mà chúng ta biết chính xác là giai đoạn đầu kế hoạch của anh ta là học tập tại một trường dạy lái máy bay của Mỹ.”

“Nhưng còn về sau thì anh ta xoay sở ra sao?” Có phải chỉ ngẫu nhiên xảy ra có chiếc máy bay ở Baskul?

“Đúng thế, anh Conway thân mến, ở đời rất nhiều sự việc xảy ra một cách ngẫu nhiên. Song, nói cho cùng, dịp may ngẫu nhiên xảy ra lại đúng là cái mà Talu đang mong đợi. Nếu không gặp dịp may này, thì có thể sẽ có dịp may khác trong vòng một hai năm và tất nhiên, có thể cũng chẳng có dịp nào hết. Thú thực, ta cũng ngạc nhiên khi người canh gác báo tin anh ta đã đáp xuống cao nguyên. Tiến bộ của ngành hàng không thực nhanh, nhưng ta đã thấy dường như còn lâu một chiếc máy bay loại thông thường mới có thể vượt qua được những ngọn núi này.”

“Đây không phải là một chiếc máy bay thường mà là một kiểu đặc biệt chế tạo để bay trên vùng núi cao.”

“Lại cũng do gặp may chăng? Anh bạn trẻ của ta thực đã may mắn. Đáng tiếc, chúng ta đã không thể bàn kỹ vấn đề với anh ta - tất cả chúng ta đều đau xót trước cái chết của Talu. Anh Conway, hẳn anh cũng mến anh ta phải không?”

Conway khẽ gật đầu; anh cảm thấy rất có thể như vậy. Sau một lát lặng im, anh nói: “Nhưng còn có ý gì đằng sau tất cả những cái đó?”

“Con ơi, cách thức con đặt câu hỏi này khiến cha vui lòng khôn xiết. Suốt trong một thời gian khá dài, cha chưa hề nghe ai hỏi cha với một giọng bình tĩnh như vậy. Những điều cha nói ra đã được đón nhận với hầu hết đủ mọi cách: Với sự tức giận, buồn rầu, phẫn nộ, không tin và cuồng loạn - nhưng chưa bao giờ như đêm nay, được đón nhận chỉ với sự quan tâm. Tuy nhiên, đó là một thái độ cha hết sức hoan nghênh. Hôm nay con để ý quan tâm, ngày mai con sẽ cảm thấy lo lắng; và cuối cùng, có thể con sẽ xin được thụ giáo.”

“Cái đó là quá điều con muốn hứa.”

“Ngay sự nghi ngờ của con cũng khiến ta vui lòng - đây là cơ sở của lòng tin sâu sắc và lớn lao… Nhưng thôi, chúng ta không bàn cãi nữa. Con quan tâm, ở con, thế là đã nhiều rồi. Tất cả những gì cha yêu cầu thêm ở con là, trong lúc này những gì cha vừa nói với con đừng để cho ba người cùng đi với con được biết.”

Conway nín lặng.

“Rồi với thời gian họ cũng sẽ biết như con. Nhưng lúc này vì lợi ích của họ, không nên vội vã. Cha rất tin ở đức khôn ngoan của con trong vấn đề này nên cha không yêu cầu con phải hứa. Cha biết, con sẽ hành động như cả hai chúng ta cho là cách tốt nhất… Giờ đây, hãy để cha bắt đầu phác họa cho con thấy một bức tranh rất vui vẻ. Cha có thể nói hiện nay con vẫn là một thanh niên tính theo tiêu chuẩn của xã hội bấy giờ, cuộc đời con, như người ta thường nói, đang phơi bày ở phía trước, theo tiến trình bình thường, con có thể chờ đợi hai hoặc ba mươi năm sức hoạt động của con chỉ giảm đi chút ít. Một viễn cảnh không có gì là vui vẻ lắm và cha không thể nghĩ rằng con sẽ đồng ý nhìn thời gian ấy như cha - coi nó là một thời gian quãng giữa mỏng manh, lặng gió và chẳng quá điên cuồng. Một phần tư thế kỷ đầu trong cuộc đời của con hẳn đã sống dưới bóng mây của tình trạng quá trẻ để làm việc gì, còn phần tư thế kỷ cuối cùng thường bị che phủ bởi đám mấy đen tối hơn vì đã quá già để hoạt động; và giữa hai đám mấy đó còn lại một thời gian cuộc sống được mặt trời chiếu sáng mới nhỏ hẹp làm sao! Song con có thể được hưởng một số phận may mắn hơn, vì chiếu theo tiêu chuẩn của Shangri-La thì những năm có nắng mặt trời của con chỉ mới bắt đầu. Có thể sau đây hàng mấy chục năm, con sẽ cảm thấy mình không già hơn ngày nay - con có thể, cũng như Henschell, giữ được tuổi trẻ lâu dài và kỳ lạ. Nhưng hãy tin ở cha, đây là một giai đoạn đầu và bề ngoài mà thôi. Rồi sẽ đến một thời gian con cũng sẽ già như những người khác, tuy có chậm hơn và trong một hoàn cảnh cao đẹp hơn nhiều, năm tám mươi tuổi con còn có thể leo lên hẻm núi với dáng điệu một thanh niên, nhưng khi tuổi đã gấp đôi tuổi đó thì con không còn trông chờ điều kỳ diệu ấy còn lại mãi. Chúng ta ở đây không phải là những người tạo nên được những điều kỳ diệu, chúng ta chưa chiến thắng được Thần chết, thậm chí cả sự hoại nát. Tất cả những gì chúng ta làm được và đôi khi có thể làm là làm chậm lại cái độ nhanh của quãng thời gian ngắn ngủi gọi là cuộc đời. Chúng ta làm việc đó bằng những phương pháp ở đây rất đơn giản, nhưng ở nơi khác lại không làm được, song chớ có lầm, cái kết thúc vẫn chờ đợi tất cả chúng ta.

“Tuy nhiên, đây là một viễn cảnh đầy hấp dẫn mà ta trải ra trước mắt con - những thời gian dài yên tĩnh trong đó con coi một buổi chiều mặt trời lặn như người ở thế giới bên ngoài nghe một tiếng chuông đồng hồ điểm, với lòng thanh thản hơn. Năm tháng trôi qua, con sẽ đi từ những thích thú vật chất tới những thứ thích thú khắc khổ hơn, nhưng không kém phần làm hài lòng con; con có thể mất đi lòng thiết tha với bắp thịt và sự thèm ăn, song sẽ được cái khác bù lại; con sẽ đạt tới trạng thái bình tĩnh, sâu sắc chín mùi, khôn ngoan và có được trí nhớ sáng suốt vô cùng thích thú. Và quý hơn tất cả, con sẽ có được Thời gian - cái tặng vật hiếm có và đáng yêu ấy ở các nước phương Tây của con càng theo đuổi càng mất. Con hãy nghĩ một lát mà xem: Con sẽ có thời gian để đọc - không bao giờ con còn phải đọc lướt qua từng trang từng trang để tiết kiệm mấy phút, hoặc tránh một vài vấn đề gì đó cần nghiên cứu, sợ đi sâu vào sẽ bị nó lôi cuốn. Con cũng là người thích âm nhạc - vậy ở đây có những bản nhạc và nhạc cụ mà con thích, cùng với thời gian phẳng lặng và vô biên để con thưởng thức hương vị đẹp nhất của âm nhạc. Và con, ta muốn nói, cũng là một người quý tình bè bạn - vậy con chẳng thấy hấp dẫn lắm sao khi nghĩ đến những tình bạn hiểu biết và thanh lịch đến cuộc trao đổi tinh thần lâu dài và thân ái mà Thần chết không thể gọi con ra đi với cái thói vội vã quen thuộc của nó. Hoặc, nếu con thích cảnh tĩnh mịch con có thể dùng những đình tạ ở đây để những suy tư cô đơn của con thêm dịu dàng.”

Tiếng nói ngừng lại một lát, Conway không tìm lời tiếp theo.

“Conway thân mến, con không có ý kiến gì ư? Hãy thứ lỗi cho ta quá nhiều lời - ta đang ở độ tuổi và thuộc về một dân tộc không bao giờ coi việc nói lên rõ ràng ý nghĩ của mình là cư xử không đúng lề thói… Mà có lẽ con đang nghĩ về chuyện vợ con, cha mẹ đang để lại ở phía sau trên thế giới này? Hay có thể là những khát khao làm điều này, việc nọ? Hãy tin ở ta, tuy nỗi day dứt thoạt đầu xót xa, nhưng rồi sau đây mươi năm, ngay đến bóng dáng của những cái ấy cũng sẽ không còn trong con. Tuy sự thực, nếu ta đọc đúng ý nghĩ của con, thì con không có những điều băn khoăn ấy.”

Conway ngạc nhiên khi thấy ông ta đoán rất đúng. “Thưa vâng, đúng thế,” anh ta đáp lại. “Con chưa lập gia đình, con có rất ít bạn bè thân và không có khát khao gì hết.”

“Không khát khao? Con làm thế nào mà tránh được những thứ bệnh lan tràn ấy?”

Lần đầu tiên Conway cảm thấy anh thật sự tham gia vào một cuộc đối thoại. Anh nói: “Trong công việc nghề nghiệp con làm, dường như con thấy rất nhiều những cái gọi là thành công lại có phần khó chịu, không kể con thấy mình đã cần đến sự cố gắng hơn khả năng mình có để làm. Con công tác tại vụ Lãnh Sự - một chức vụ thấp, nhưng con thấy rất hợp với con.”

“Song tâm hồn con không để vào đó?”

“Cả tâm hồn, trái tim và một nửa những năng lực của con. Bản chất con vốn lười nhác.”

Những nếp nhăn hằn sâu và xoáy vặn cho đến lúc Conway nhận ra Lama tu viện trưởng rất có thể đang mỉm cười.

“Lười nhác trong việc làm những điều ngớ ngẩn có thể là một đức hạnh lớn,” tiếng thì thào tóm tắt. “Dù sao, con sẽ thấy ở đây chúng ta không đòi hỏi khắt khe về vấn đề ấy. Ta tin rằng tu sĩ Tưởng đã nói cho con rõ cái nguyên tắc vừa phải, mức độ của chúng ta, và một trong những điều mà chúng ta bao giờ cũng làm là có mức độ trong mọi hoạt động. Như bản thân ta chẳng hạn, ta đã có thể học được mười ngôn ngữ, con số mười đã có thể thành con số hai mươi nếu ta làm việc quá độ. Nhưng ta đã không làm thể. Và trong những hướng khác cũng vậy. Con sẽ thấy chúng ta không phóng đãng mà cũng không khổ hạnh. Chừng nào chưa đến cái tuổi cần phải thận trọng, thì chúng ta còn chấp nhận những thích thú ăn uống và - đây là điểm lợi cho các bạn đồng nghiệp trẻ hơn của ta - các phụ nữ ở thung lũng vui vẻ áp dụng cái nguyên tắc có mức độ vào sự giữ gìn lòng trinh bạch của họ. Suy cho cùng, ta tin chắc rồi đây con sẽ quen với lối sống của chúng ta một cách dễ dàng. Thật thế, tu sĩ Tưởng là người rất lạc quan - và ta cũng vậy, sau buổi gặp mặt này. Và ta thừa nhận ở con có một đức tính kỳ lạ mà ta chưa hề gặp ở một vị khách nào từ trước tới nay. Nó không phải là hoài nghi, càng không phải là chua chát, có lẽ nó là một phần tâm trạng vỡ mộng, nhưng nó lại là một thứ đầu óc sáng suốt mà ta cho là không có ở những người tuổi chưa đầy một trăm gì đó. Đức tính ấy là, nếu ta dùng một từ để nói, đây là đức tính “Passionlessness” (không thiết tha).

Conway đáp lại: “Một từ hết sức đúng, đúng thế. Con không biết cha có hay xếp loại những người đến đây không, nếu có, cha có thể xếp con vào loại “1914 - 1918”. Con nghĩ, làm như vậy con sẽ là một mẫu độc nhất trong nhà bảo tàng đồ cổ của cha - ba người cùng đến với con sẽ không phụ thuộc vào loại đó. Con đã tận dụng mọi sự thiết tha nồng nàn và mọi năng lực của con trong những năm con vừa kể, và tuy con không nói nhiều về nó, điều chủ yếu con yêu cầu mọi người từ đây hãy để mặc con. Con thấy ở đây có một cái gì đó vui thích và yên tĩnh quyến rũ con, và như cha nói, hẳn rồi đây con sẽ quen với lối sống đó.”

“Còn gì nữa không con?”

“Con hi vọng con sẽ giữ được đúng cái nguyên tắc có mức độ của cha.”

“Con thực thông minh - như Tưởng đã nói với ta, con rất thông minh. Nhưng cái viễn cảnh ta vừa vẽ phác cho con thấy, có cái gì gợi cho con đến với một cảm xúc mạnh hơn không?”

Conway nín lặng một lúc rồi đáp: “Con rất đỗi cảm động khi nghe cha kể câu chuyện về quá khứ, còn thật thà nói, bức phác họa của cha về tương lai chỉ hấp dẫn con theo một ý nghĩa trừu tượng. Con không thể nhìn xa được như vậy. Chắc chắn con sẽ buồn nếu con phải rời Shangri-La ngày mai, hay tuần sau hoặc có thể là năm sau; nhưng con sẽ cảm thấy thế nào, nếu việc con sống một trăm tuổi không còn phải là vấn đề tiên đoán. Con có thể đối phó được với điều đó như đối với bất kỳ một tương lai nào khác, song muốn cho con thiết tha với lối sống đó thì nó phải có một điểm nào đó lôi cuốn con. Con đôi khi phân vân không biết cuộc sống này có điểm nào lôi cuốn không; và nếu không, thì cuộc đời lâu dài thậm chí còn tẻ nhạt hơn.”

“Anh bạn của ta, truyền thống của cơ sở này, vừa theo Phật giáo vừa theo Cơ đốc giáo, rất đáng vững tâm.”

“Có thể là như vậy. Nhưng con e rằng con vẫn còn mong muốn có một lý do rõ ràng hơn để khao khát cuộc sống trăm tuổi.”

“Có một lý do, một lý do rất xác đáng. Đây là toàn bộ lý do cho đám người lạ đi tìm cơ may để sống lâu. Chúng ta không theo một thí nghiệm vu vơ, một tình đồng bóng kỳ dị. Chúng ta đã có một giấc mơ và một cảnh mộng. Đây là một cảnh mộng đầu tiên Perrault thấy khi ông nằm chờ chết trong căn phòng này năm 1789. Rồi ông nhìn lại cuộc đời lâu năm của mình như ta đã mới với con, ông thấy dường như tất cả những gì đáng yêu nhất cũng đều chỉ ngắn ngủi tạm thời và cuối cùng đều bị hủy diệt, rằng chiến tranh, thèm khát và tàn bạo rất có thể một ngày nào đấy bóp nát tất cả những cái đó cho đến lúc không còn chút dấu vết trên đời. Ông nhớ lại những cảnh ông đã tận mắt nhìn thấy, và đầu óc ông lại hình dung ra những cảnh khác, ông nhìn thấy các quốc gia mạnh lên, không mạnh về mặt khôn ngoan lịch duyệt, mà về những lòng say mê và ý chí hủy diệt; ông thấy cái sức mạnh máy móc của họ tăng trưởng cho đến lúc một người được trang bị vũ khí có thể địch lại cả một đạo quân của Đại Đế. Và ông thấy khi họ đã gieo rắc hủy hoại đầy mặt đất và biển thì họ chuyển lên trên không…Con có thấy cảnh mộng của ông ấy sai lắm không?”

“Quả thực rất đúng.”

“Nhưng đấy chưa phải là tất cả. Ông còn nhìn thấy trước cái ngày mà khi con người quá hân hoan với kỹ thuật giết người của mình, sẽ nổi cơn thịnh nộ, hoành hành khắp mặt đất, khiến cho tất cả mọi vật quý đều lâm nguy, các sách vở, tranh ảnh, âm nhạc, mọi kho tàng quý báu thu thập được suốt trong hai nghìn năm, những vật nhỏ bé, yêu đuối, những cái không có gì để tự vệ - tất cả đều bị mất hết như những cuốn sách của Livy, hoặc bị phá nát như người Anh đã phá nát cung điện mùa hè ở Bắc Kinh.”

“Con xin chia sẻ ý kiến ấy của cha.”

“Tất nhiên. Nhưng còn ý kiến của những con người có lý trí chống lại sắt và thép thì ra sao? Hãy tin ở ta, cảnh mộng ấy của Perrault sẽ trở thành sự thực. Và con ạ, chính vì thế mà tại sao ta lại đang ở đây tại sao con cũng ở đây, và tại sao chúng ta lại có thể cầu nguyện để sống qua ngày phán quyết đang kéo lại gần từ bốn phía.”

“Sống qua ngày đó?”

“Phải có một cơ may. Tất cả rồi sẽ qua đi trước khi con nhiều tuổi như cha hiện nay.”

“Và cha nghĩ Shangri-La sẽ thoát khỏi?”

“Có thể. Chúng ta có thể không trông chờ một ân huệ, nhưng chúng ta có thể trông chờ hi vọng chút ít nhờ sự bỏ quên. Chúng ta sẽ ở lại đây với sách vở, âm nhạc và những suy ngẫm của chúng ta, bảo tồn lấy những cái tao nhã mỏng manh của một thời đại đang chết dần, và đi tìm một sự khôn ngoan mà con người sẽ cần đến khi tất cả những say mê của họ đã hết. Chúng ta có một gia tài để trìu mến và để truyền lại. Chúng ta cứ hưởng những thú vui chúng ta có thể có cho đến ngày ấy tới.”

“Và rồi sau đây?”

“Con ơi, sau đó, khi những kẻ khỏe đã chém giết lẫn nhau, đạo lý của Cơ đốc giáo có thể cuối cùng sẽ được thực hiện và kẻ hiền lành sẽ thừa hưởng thế giới.”

Lời nói thì thào có chút nhấn mạnh và Conway chịu để vẻ đẹp của nó xâm chiếm; anh lại cảm thấy bóng tối trào lên xung quanh, song giờ đây nó là cái tượng trưng, như thể thế giới bên ngoài đã ầm ầm chuẩn bị đón chờ cơn giông bão. Và khi ấy, anh nhìn thấy vị Lama tu viện trưởng thực sự động đậy, đang ngồi ngài đứng lên, rồi đứng thẳng như hiện thân của một bóng ma. Từ trước Conway tham dự chỉ vì lễ phép lịch sự; nhưng thốt nhiên, anh thấy có cái gì thôi thúc tự sâu trong tâm hồn và anh đã làm điều mà chưa bao giờ anh làm đối với một người nào. Anh quỳ xuống mà không biết vì sao mình đã quỳ. Anh nói:

“Thưa cha, con đã hiểu cha.”

Anh cũng không còn nhớ rõ lúc cuối cùng anh đã từ biệt tu viện trưởng ra sao; anh như ở trong giấc mơ, mãi lâu sau anh mới tỉnh lại. Anh nhớ cái không khí lạnh giá ban đêm sau cái nóng ở những căn phòng trên cao ấy, và sự có mặt của tu sĩ Tưởng, vẻ thanh bình lặng lẽ, lúc hai người cùng nhau đi qua những mảnh sân đầy sao sáng. Chưa bao giờ dưới mắt anh Shangri-La lại tập trung đầy vẻ đáng yêu như lúc này; khu thung lũng dưới kia, nhìn qua rìa vách đá, nom tựa như một cái ao sâu không gợn sóng, cũng thanh bình như những ý nghĩ trong đầu anh, vì Conway đã vượt qua những ngỡ ngàng ngạc nhiên. Cuộc nói chuyện dài với những câu nói vui vẻ đã làm anh quên hết tất cả, chỉ còn lại niềm thỏa mãn về tâm hồn cũng như về cảm xúc, về toàn bộ tinh thần; ngay cả những nghi ngờ của anh giờ đây cũng không còn day dứt nữa mà đã trở thành một phần của cái hài hòa tinh vi. Tu sĩ Tưởng không nói gì, cả Conway cũng vậy. Đêm đã quá khuya, anh lấy làm mừng vì mấy người kia đều đã đi ngủ.