Chương II (C)
II/4F.- Lạc Long Quân dẫn tàn quân theo bờ bắc sông Hoàng Hà chạy ra hướng đông. Có lẽ nhà vua định lên cao nguyên Sơn Đông, kinh đô nước Xích Thần, nơi chưa bị xâm chiếm để cố thủ. Tuy nhiên quân Hoa tộc truy kích rất dữ, phải chạy ra biển Đông và mất tích°.
Kể từ đấy, nước Xích Thần mất hẳn°° vào tay du mục Hoa tộc.
°Chạy ra biển Đông và mất tích:
Theo cố học giả Bình Nguyên Lộc trong sách “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam” (danh xưng Mã Lai xuất phát từ địa danh Hi-Malaya tức cao nguyên Hi Mã lạp sơn chứ không phải nước Mã Lai Á ngày nay) với những dẫn chứng rất đáng tin cậy thì đoàn quân của Lạc Long Quân đã tản mát ra khắp nơi ở Biển Đông: Đông-Bắc lục địa, kết hợp với dân địa phương lập ra nước Triều Tiên; phía Đông với giống Ai Nô lập nước Nhật, Đài Loan; Đông Nam họ lên quần đảo Célèbre ở Indonésia, đảo Hải Nam; phía Nam họ đổ bộ lên đồng bằng sông Cả và sông Mã với đồng chủng. Ông gọi sự kiện đạo binh Lạc Long Quân chạy ra biển đông là cuộc di dân đợt một của dân tộc Việt Nam, còn cuộc di dân đợt hai xẩy ra vào cuối Chu và Tần và Hán.
°° Các Bộ tộc, Bộ lạc nước Xích Thần (bắc Miêu, Thần Nông bắc) sau khi bị Hoa tộc xâm lược đã chuyển đổi thành “hàng vạn” nước chư hầu và nước phụ dung của vua chúa du mục Hoa tộc. Họ dần dần trở thành người Trung Hoa gốc Miêu.
Cánh quân của công chúa Âu Cơ vượt sông Hoàng Hà chạy về phía nam. Bị quân Hiên Viên đuổi riết, bà lại vượt sông Dương Tử lui về vùng núi Ngũ Lĩnh trên Cánh Đồng Tương° quê hương chồng. Theo sách Lĩnh Nam Trích Quái của Trần Thế Pháp thì Âu Cơ và các con (các đơn vị dân quân trong Liên Minh Xích Quỷ) đã về đến Tương Dạ. Bà ở lại đấy có ý đợi tin tức Long Quân.
II/4G.- Sách Lĩnh Nam Trích Quái kể:
Chờ lâu không gặp chồng, bà lập đàn ở Tương Dạ° kêu khóc tha thiết:
“Quân ở phương nào, làm cho mẹ con ta ngày đêm thương nhớ”
Các con cũng khóc:
“Bố ở phương nào mau về với chúng con”.
Thốt nhiên Long Quân về trên đàn, ông bàn với Âu Cơ nên chia các con ra trấn giữ các nơi. Long Quân dặn Âu Cơ phong con trưởng họ Hồng Bàng Thị làm vua gọi là Hùng Vương, đóng đô Phong Châu.
Sau khi mọi việc tạm ổn, công chúa Âu Cơ nhớ nhà, nhớ nước bèn đem các con đi lên biên cảnh. Vua Hoàng Đế (Sau chiến thắng tại Trác Lộc, Hiên Viên xưng vua và đổi tên là Hoàng Đế) nghe tin lấy làm sợ mới phân binh trấn ngự quan tái khiến mẹ con không về bắc được.
° Cánh Đồng Tương, đất Tương Dạ: Những danh xưng Cánh Đồng Tương, đất Tương Dạ, sông Tiêu, sông Tương… ở phía Nam Động Đình Hồ có thể đã xuất hiện từ câu chuyện công chúa Âu Cơ và các con thương nhớ Lạc Long Quân và lập đàn kêu khóc? Để rồi từ đó trở thành địa danh nổi tiếng trong văn học sử Việt cũng như Trung Hoa sau này.
Về sau người Tầu có chuyện hai bà vợ vua Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm xác chồng
Cánh Đồng Tương. Khi họ đến bờ sông Tiêu Tương thì nghe dân địa phương nói vua Thuấn chết ở đấy. Hai bà này bèn ngồi bên những bụi trúc trên bờ sông Tương mà khóc lóc thảm thiết. Nước mắt họ rơi trên các lóng trúc. Từ đó, mới có tên sông Tiêu Tương, Cánh Đồng Tương và trúc hai bên bờ sông Tương có những đốm xanh như ngọc rất đẹp giống những giọt nước mắt của hai bà ấy.
Cho đến giữa thời nhà Thương khoảng 1000 năm sau chiến tranh Trác Lộc, Hoa tộc chỉ mới mò tới vùng đất giữa 2 con sông Dương Tử và Hoàng Hà, thì vào thời vua Thuấn chắc chắn vùng đất nam Dương Tử vô cùng xa lạ đối với Hoa tộc. Chúng tôi nghĩ, chuyện hai bà vợ vua Thuấn mang nặng tính giả tạo, huyễn hoặc qua giai thoại vua Thuấn đi tuần thú “tới phía Nam Động Đình Hồ và chết ở đấy và chuyện nước mắt của hai bà này làm cho những lóng tre hai bên bờ Tương Giang từ đó lốm đốm nước mắt màu xanh ngọc!!!”Thời Nghiêu, Thuấn, phía Nam Trường Giang còn là đất thuộc quyền người Nam Miêu, trong phạm vi nước Văn Lang của các vua Hùng, thì chuyện vua Thuấn đi tuần thú phương Nam ở đây là phương nam của châu thổ sông Hoàng Hà cho tới phía bắc châu thổ sông Dương Tử.
Chuyện những cây trúc hai bên bờ sông Tương về sau có hình những đốm nước mắt của hai bà vợ vua Thuấn lại càng quá hoang đường… Rõ ràng người Tầu đặt ra chuyện này nhằm che dấu nguồn gốc xuất hiện những địa danh mang tên sông Tiêu Tương, Cánh Đồng Tương, đất Tương Dạ… của Việt tộc.
Tiếng Tầu vốn là một kết hợp bởi hàng trăm thứ tiếng của nhiều dân tộc gốc nông nghiệp Miêu, Viêm mà họ xâm lăng và đồng hóa… trong đó, chắc chắn ngôn ngữ của người Bắc Miêu mà trung tâm là vùng Sơn Đông và nam Miêu (Bách Việt) vùng Động Đình đã giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Chỉ riêng vùng Giang Nam, Hồ Nam, Lưỡng Quảng (đất Bách Việt cổ)… xưa nay vốn là trung tâm xuất phát những nền văn học, nghệ thuật, triết học, kinh tế, võ thuật, ca múa, hàng tơ lụa, đồ gốm… của Trung Hoa đã cho chúng ta một lời giải đáp rất rõ: Những “Hán ngữ” đầy dẫy trong hàng ngàn danh xưng Việt cổ (Thiên tử, Thiên hạ, Đế Viêm, Đế Minh, Đế Lai, Đế Du Võng, Lộc Tục, Kinh Dương Vương, Sùng Lãm, Lạc Long Quân, Động Đình Quân, Long Nữ, liên minh Xích Quỷ, kinh đô Cửu Linh, sông Tiêu Tương, Cánh Đồng Tương, đất Tương Dạ, Bách Việt…) là ngôn ngữ của Miêu tộc do các quý tộc Bách Việt đem tới bắc Việt Nam trong nhiều cuộc rút lui về phía nam cách đây nhiều ngàn năm.
Tưởng cũng nên nói thêm, thổ ngữ của các địa phương Miêu, Viêm hay Bách Việt kể cả vùng rìa là bắc Việt Nam hầu như không giống nhau do ở họ cư ngụ trên một vùng địa lý quá rộng và rất hiếm khi liên lạc với nhau(xin xem mục II/9. Nghi vấn lịch sử: Lâm Ấp có phải là Chiêm Thành không?)
Một vấn đề quan trọng khác: công chúa Âu Cơ làm tướng không phải là điều ngạc nhiên nếu chúng ta nhớ xã hội Việt cổ theo chế độ mẫu hệ. Trước và sau bà Âu Cơ có nhiều vị nữ lưu khác như bà Oa Nữ (Việt ngữ gọi là O Nữ hoặc Oa Nữ, chuyển qua Hoa ngữ thành Nữ Oa), Bà quân Ngô Nhuế (Hành Sơn Vương), bà Mai Quyên, bà Man Thiện, Hai bà Trưng, bà Triệu Thị Trinh (Oa hoặc O Trinh, chuyển qua ngôn ngữ Tầu đọc là Triệu Oa… rồi miệt thị thành Triệu Ẩu), bà Bùi Thị Xuân… Các vị này làm vua, làm tướng cầm quân dẹp giặc vô cùng oanh liệt không thua gì nam giới.
II/4H.- TÌM HIỂU SUY TƯ CỦA NGƯỜI XƯA
Các danh xưng Xích Thần, Xích Quỷ và nhân thoại Tiên Rồng không phải là những chuyện huyền hoặc, vô bổ như nhiều người lầm tưởng.
Đó chính là quan niệm nhân sinh và vũ trụ cũng như đường lối xây dựng xã hội và con người hoàn thiện mà người xưa cài đặt vào những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc. Mục đích nhằm truyền dạy, lưu lại cho con cháu khi mà tình thế không cho phép họ diễn đạt trực tiếp những vấn đề bị coi là “quốc cấm”.
Cũng có thể vào thời ấy, dù đã có chữ viết nhưng chỉ mới ghi ra những chữ tượng hình như những chữ số, cái nhà, đất, nước, sông, núi, trâu, bò… chứ chưa diễn tả được tư tưởng hoặc những từ trừu tượng thuộc về tình cảm, tâm linh… Vậy, để truyền lại tư tưởng của tổ tiên nòi giống, người xưa chỉ có thể dựa vào những câu ca dao, phong dao, tục ngữ, thành ngữ, vè, ca múa hoặc trong những câu chuyện ta gọi là chuyện cổ, là nhân thoại, huyền sử để phổ biến trong đại chúng. Nhờ vậy mà lưu truyền đến các thế hệ về sau.
Âm – Dương và quan niệm nhân sinh:
- Xích Thần, Thần thuộc Âm chỉ tinh thần, lương tri, đạo đức, luân lý, nhu, văn, đường ngang, nét cong, hình tròn…
- Xích Quỷ, Quỷ thuộc Dương, chỉ vật chất, lý trí, luật lệ, cương, dũng, nét dọc, nét gãy, hình vuông…
Xã hội nói chung và con người nói riêng phải được xây dựng và duy trì trên nền tảng có âm có dương, có tinh thần có vật chất, có tình có lý, có nhu có cương… như hai dòng điện âm dương phải được nối lại mới phát ra ánh sáng, như hai sợi chỉ ngang dọc đan vào nhau mới thành tấm vải…
Thái cực và quan niệm vũ trụ:
- Liên minh Xích Quỷ = Tiên Rồng = Thái cực = Nhất nguyên Lưỡng cực
- Cha Rồng đem 50 con xuống biển, Mẹ Tiên đem 50 con lên núi = âm dương phân cực = Sinh lưỡng nghi
- Âu Cơ lập họ Hồng Bàng làm vua Văn Lang và chia con trấn giữ khắp nơi = Lưỡng nghi biến hóa vô cùng
Tuy nhiên, càng về sau, nước Văn Lang càng bị dồn vào thế thu hẹp trên cả hai lãnh vực đất đai và văn hóa vì các tộc ở phía Bắc bị ảnh hưởng cường lực thống trị của Hoa tộc dần dần nổi lên xưng độc lập… Và cuối cùng, Việt tộc lâm vào cảnh nô lệ Hoa tộc hơn 1000 năm. Với ý đồ đồng hóa dân Việt thành Tầu, kẻ cường bạo Hoa tộc đã thi hành một kế hoạch bôi xóa văn hóa vô cùng tinh vi… Vì thế, cho đến khi thoát khỏi xiềng xích nô lệ Hoa tộc thì Việt tộc dù đang sống trong văn hóa nguồn cội (đã bị pha chế, biến dạng) mà vẫn tưởng là học được văn minh của kẻ thù!
II/5.-DU MỤC HOA TỘC LẬP QUỐC
Sau chiến thắng ở Trác Lộc 2704 Tr. CN, du mục Hoa tộc chiếm trọn toàn bộ đất Miêu Bắc, nông dân Miêu hiền lành, đông gấp trăm lần Hoa tộc. Họ có một nền văn hóa “khoan nhu dĩ giáo” và họ đã bắt đầu sáng tạo chữ viết. Do vậy, cộng chủ Hiên Viên dựa theo truyền thống Miêu tộc, ông đổi tên là Hoàng Đế° với thiên chức mới: thiên tử. Ông phong các hậu chủ Hoa tộc và các trưởng bộ tộc nước Xích Thần quy phục tạo thành một hệ thống hàng vạn nước chư hầu hoặc nước phụ dung, mở màn cho chế độ phong kiến sơ khai của Hoa tộc thời kỳ lập quốc. Đất đai của mỗi chư hầu có lẽ bằng một tổng hoặc xã ngày nay. Chế độ chư hầu tự trị, có quân đội, luật lệ, kinh tế riêng… vua chư hầu cha truyền con nối. Chư hầu phải tuân phục chính quyền trung ương, hỗ tương quân sự, nộp cống và vật lệ định kỳ…
Nhờ vua Hoàng Đế sáng suốt tiếp nhận nền văn hóa tư tưởng chứa đầy luân lý, đạo đức, xây dựng và dẫn dắt xã hội trên nền tảng Âm Dương, Tam thông, Ngũ hành… của Miêu tộc, các triều đại khởi đầu của du mục Hoa tộc đạt được một giai đoạn thanh bình lâu dài hiếm có trong lịch sử Trung Hoa.
° Hoàng Đế, đọc cổ sử, chúng ta thấy chữ Đế nơi nhiều vị vua Việt cổ như Đế Viêm (Thần Nông), Đế Minh, Đế Nghi, Đế Lai, Đế Du Võng. Cùng lúc này, du mục Hoa tộc vẫn còn mang những danh xưng Hậu chủ. Khi Hiên Viên được tôn làm người lãnh đạo các Hậu thì xưng là Cộng chủ. Cho đến khi chiếm được nước Xích Thần thì Hiên Viên liền đổi tên là Hoàng và gọi là vua Hoàng Đế theo truyền thống Miêu tộc.
Chúng tôi nghĩ, khởi thủy chữ Đế là danh hiệu của người lãnh đạo xã hội Miêu tộc. Khi một Trưởng bộ tộc Miêu được chọn làm Thiên tử (người đứng trên cái đế). Ông Minh, ông Nghi… đứng trên cái đế thì được gọi là Đế Minh, Đế Nghi… Cộng chủ Hiên Viên sau khi chiếm được nước Xích Thần thì ông chiếm ngôi vị Đế của Đế Nghi và tự gọi là Hoàng Đế (ở đây ta thấy truyền thống ngôn ngữ Việt cổ và Hoa tộc có sự khác biệt: Việt đặt ngôi vị trước đại danh từ nên gọi là Đế Minh, Đế Nghi… Tầu đặt đại danh từ trước từ chỉ ngôi vị nên gọi là Hoàng Đế. Cũng như Oa Nữ, Oa Triệu của Miêu thì Tầu gọi là Nữ Oa, Triệu Oa, Đối với Triệu Oa họ miệt thị bằng cách đọc trại đi là Triệu Ẩu (ẩu tả) như đã dẫn trong đoạn trước).
Tiếp đó, con và cháu nội Hoàng Đế thì chỉ gọi tên mà không xưng Đế (Thiếu Hạo, Xuyên Húc), phải chăng đã có sự cân nhắc, phân biệt trong việc xử dụng danh xưng “Đế” của Miêu tộc?
Tuy nhiên, các vị vua sau Xuyên Húc thì lại gọi: Đế Cốc, Đế Chí, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Khải… theo đúng truyền thống ngôn ngữ Miêu. Có lẽ áp lực văn hóa Miêu đang đè nặng lên xã hội đương thời (hàng vạn nước chư hầu và phụ dung vốn gốc Miêu). Sau Đế Khải thì các vua kế tiếp của Hoa tộc không lót chữ “Đế”như các vua trước. Dù vậy, các sử gia Trung Hoa vẫn dùng chữ đế trong cụm từ: “lên ngôi đế, đế nghiệp…”
Hai ngàn năm trăm năm sau, danh xưng Hoàng Đế được Tần Chính làm sống lại nhưng đổi thành tước hiệu, nó có nghĩa như đại đế, vua nước lớn. Chẳng những thế, Tần Chính ngông nghênh tự xưng là Tần Thủy Hoàng còn con cháu thì sẽ xưng Tần Nhị Thế, Tần Tam Thế cho đến vạn thế… Y bãi bỏ chế độ chư hầu, chế độ phong đất và thi hành một đường lối cai trị cực kỳ hà khắc, tàn độc… Giả dụ ông ta xưng là Đế Chính và áp dụng lại đường lối trị dân theo truyền thống Miêu tộc cổ của thời Đế Nghiêu, Đế Thuấn thì xã hội Trung Hoa thời nhà Tần sẽ tốt đẹp biết mấy…
II/6.-NGHI VẤN LỊCH SỬ: NƯỚC VĂN LANG VÀ 18 VỊ VUA HÙNG.
Trong khi đó, nước Xích Quỷ ở phía Nam bị mất lãnh đạo. Công chúa Âu Cơ trong tư thế là Mẹ của toàn dân, bà lập Đàn ở Tương Dạ, phong cho người con trưởng của Lạc Long Quân thuộc Hồng Bàng Thị (con của người mẹ họ Hồng Bàng) lên làm Hùng Vương (xin hiểu Hùng vương thời này có vị thế như một đại tộc trưởng, liên tộc trưởng… khác hẳn các vị vua quân vương Hoa tộc và các vua chư hầu đang hình thành ở phía Bắc). Giá trị minh triết của hai nước Xích Thần và Xích Quỷ không thích hợp nữa, bà đặt tên mới: nước Văn Lang.
Khởi đầu nước Văn Lang trải dọc từ hồ Động Đình tới đất Thanh Hóa, Nghệ An, rộng từ Tứ Xuyên ra tới biển Đông. Về sau, một phần do Hoa tộc lấn chiếm, một phần do các tộc đồng chủng nổi lên giành độc lập, tạo thành những nước mới, khiến biên giới nước Văn Lang tụt dần về phía Nam gần giống ngày nay. Quý tộc những nước Bách Việt mới lập, mỗi lần bị Hoa tộc chiếm mất nước lại chạy về Nam, nhập vào Văn Lang và trở thành những dân tộc thiểu số ở các vùng Thượng du, vùng biên giới miền Bắc, vùng miền núi hoặc các phần đất phía Nam quận Nhật Nam sau này gọi là Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên°.
° Ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên xưa nay nhiều sử gia vẫn cho rằng đây là đất cổ của Chiêm Thành. Điều này không đúng. Chúng tôi có phần bình luận về ba tỉnh miền Trung này qua tựa đề: Nghi vấn lịch sử: Lâm Ấp có phải là Chiêm Thành không ở đoạn sau).
Có 4 giả thuyết về thời đại các vua Hùng.
Giả thuyết 1.- Giả thuyết này dựa vào huyền thoại Tiên Rồng kể chuyện Âu Cơ phong cho con trưởng của Lạc Long Quân hoặc vị tộc trưởng họ Hồng Bàng lên ngôi Hùng Vương. Tuy nhiên giả thuyết này gặp khuyết điểm rất lớn là 18 vị Hùng Vương làm vua suốt 2446 năm kể từ năm 2.704 đến năm 258 tr.CN. Tính ra trung bình mỗi vị ở ngôi vua 135 năm (chưa kể thời gian các ngài chưa lên ngôi). Cũng thời gian này nhà Hạ bên Tầu có 17 đời vua với 432 năm, nhà Thương có 34 đời vua với 629 năm, nhà Chu có 37 đời vua với 878 năm. Đổ đồng mỗi vua Tầu chỉ làm vua 22 năm. Vậy số cách biệt tuổi tác quá xa không thể có trên thực tế.
Giả thuyết 2.- Theo truyền thuyết, đời Hùng vương thứ sáu, Phù Đổng Thiên vương đánh tan giặc Ân bên Tầu (nhà Ân tức là nhà Thương 1505-1134 tr.CN, biên giới nước Văn Lang và Trung Hoa thời gian này rất gần nhau). Vua Hùng vương thứ 6 cùng thời với vua Trụ bên Tầu là vị vua cuối cùng của nhà Ân. Vua Trụ dũng mãnh, ham chinh phạt nhưng lại đam mê tửu sắc… đến độ mất nước vào tay Chu Bá Phát (tổ nhà Chu). Nếu quả thực như thế thì vua Hùng thứ 6 trị vì Văn Lang trong khoảng những năm 1120 tr.CN. là thời điểm nhà Chu diệt nhà Thương (Ân) mà lập quốc. Cho đến năm 257 tr.CN. thì vua Hùng thứ 18 bị Thục Phán diệt mà chiếm Văn Lang. Giả dụ mỗi vị vua Văn Lang bình quân ở ngôi được 25 năm thì từ vua Hùng thứ I đến vua Hùng thứ VI chỉ có thể lập quốc Văn Lang khoảng năm 1270 tr. CN:
Số năm làm vua của 6 vua Hùng đầu tiên:
6 vị x 25 năm =150 năm
Vậy thời điểm nước Văn Lang xuất hiện là:
1120 tr.CN +150 năm = năm 1270 tr.CN.
Như thế, vua Hùng thứ nhất chỉ có thể xuất hiện vào khoảng năm 1270 tr.CN chứ không thể xuất hiện ngay sau chiến tranh Trác Lộc 2704 tr.CN. được. Vậy bà Âu Cơ đâu có thể sống từ năm 2704 đến năm1284 tr.CN để thực hiện lời dặn của Lạc Long Quân?
Giả thuyết 3.- Theo Lịch Sử Việt Nam của sử gia Phan Huy Lê, từ Hùng là từ Việt âm Hán. Tiếng Mường có từ Kun, Lang Kun chỉ người con trưởng, ngành trưởng. Người Môn-Khơ-Me, người Xink-Mun người Khơ-Mú, người Kháng, Thái, Lào… có từ Khun chỉ Tù trưởng, thủ lĩnh. Người Mun-Đa có từ Khunzt chỉ tộc trưởng. Như vậy có lẽ chữ Hùng được phiên âm từ Kun, Khun hay Khungzt. Do đó ta có thể nói Hùng vương nguyên là thủ lãnh của một bộ tộc hay liên minh bộ tộc, đúng như sử gia Hoài Nam Tử viết: “Tù trưởng bộ lạc Văn Lang dùng pháp thuật quy phục 15 bộ lạc mà lập nước Văn Lang, xưng hiệu là Hùng vương”. Con số 18 đời Hùng vương chỉ là con số biểu trưng, ý nói là rất nhiều. Người Việt Nam thường nói: 9 từng mây, 9 ngọn sông, voi chín ngà gà chín cựa ngựa 9 hồng mao; 18 đời quận công, Thạch Sanh đánh tan quân 18 nước; 36 chước, giặc có 36 tướng… Như vậy giả thuyết III chấp nhận có rất nhiều Hùng vương chứ không phải là 18 vị.
Khổ nỗi, không thể có một dòng họ con cháu nối nhau làm vua liên tục suốt 2.446 năm…
Chúng tôi xin trình giả thuyết mới:
Giả thuyết 4.- Danh xưng Hùng vương, theo giả thuyết 3 có nghĩa là chức vị người đứng đầu để gọi người lãnh đạo liên minh bộ tộc như danh xưng Vua, Quốc trưởng, Tổng thống… một quốc gia chứ không phải danh hiệu như những danh hiệu Quang Trung, Gia Long, Louis 8, Elizabeth đệ II… Còn con số đi theo sau từ Hùng Vương là con số thứ tự của cái Ho làm Hùng Vương chứ không phải là số hiệu của một vị vua như ta thường thấy.
Như thế, thời đại Hùng vương thứ I gồm những vị vua thuộc họ Hồng Bàng. Thời đại Hùng vương thứ II, thứ III… là những Hùng vương thuộc các họ khác. Vậy 18 đời Hùng vương là 18 dòng họ thay phiên nhau làm Hùng vương. So sánh với thời gian 88 vị vua Tầu của 3 họ Hạ, Thương, Chu làm vua trong 1939 năm hoặc sau này10 họ Việt như Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý… Nguyễn thay nhau làm vua từ năm 939 đến 1945 tổng cộng 1006 năm, thì 18 họ làm Hùng vương trong 2.446 năm tỏ ra rất hợp lý.
Lý do khác, truyền thống vua cha truyền ngôi cho con chỉ xẩy ra trong chế độ Phụ hệ. Thời đại các Hùng vương lại thuộc chế độ Mẫu hệ, con cái theo mẹ và mang họ mẹ. Con, cháu các Hùng vương chắc chắn cũng mang họ mẹ chứ không mang họ của vua cha. Việc truyền ngôi cho con để duy trì dòng họ hoàn toàn không thích hợp với chế độ Mẫu hệ. Lẽ dĩ nhiên con, em, cháu trong gia tộc Hùng vương đương nhiệm có ưu thế hơn người khác nhưng chưa hẳn có thể làm lệch cán cân tuyển chọn của Hội đồng Tộc trưởng thường căn cứ trên tài năng đức độ. Cho dù có truyền ngôi cho em để duy trì dòng họ thì cũng chỉ đặt trên tình cảm anh em thân cận được vài đời Hùng vương là tối đa, cuối cùng rồi con của vị vua (em út cùng một mẹ) cũng sẽ phải nhường ngôi khi họ khác được bầu lên.
Thời xã hội Miêu tộc cổ đại, làm vua là tiếp nhận trách nhiệm hơn là quyền uy, danh vọng và của cải vật chất như những vị vua thời quân chủ mà ta thường thấy sau này. Nó có dáng như vị Tiên chỉ trong làng, như Tộc trưởng một tộc họ nhưng trên một tầm vóc rộng lớn hơn. Chức vụ Hùng vương không phải là ước mơ của những kẻ chọc trời khuấy nước, tranh bá đồ vương như các thời đại về sau. Bởi đó, theo truyền thống, người được chọn lên ngôi vua thường tỏ ra lo lắng, e sợ không đảm đương nổi công việc trọng đại. Khi không thể từ chối được mới cung kính vâng lời.
Từ những luận cứ trên, chúng tôi tin rằng, mỗi họ Mẫu hệ lên làm Hùng vương khoảng ba, bốn đời vua thì có những người tài đức cao trọng hơn xuất hiện và đại hội các Tôc trưởng lại suy cử Mẫu hệ khác lên thay thế.
Những tin tức thêm về nước Văn Lang.-
1.- Khi mới lập quốc, Văn Lang có biên cương như huyền sử đã ghi, tức là toàn bộ vùng đất phía Nam sông Dương Tử với cơ chế trị quốc khoan nhu dĩ giáo° mà Thiên tử là Hùng Vương và Thiên Hạ là hàng trăm, hàng ngàn bộ tộc gọi chung là Bách Việt ở phương Nam.
° Khổng Tử (551-479 Tr. CN) người nước Lỗ thời Chiến quốc khi nói về nơi xuất phát Đạo cổ ngài nói là ở phương Nam trong câu: “Khoan nhu dĩ giáo bất báo vô đạo Nam phương chi cường dã quân tử cư chi” (sách Trung Dung/10).)
Tuy nhiên, từ phía Bắc, Hoa tộc từ nhà Hạ (2195-1763 Tr.CN) tới nhà Thương (1763-1134 tr.CN) sau khi nuốt trọn và đồng hóa nhân dân nước Xích Thần thành Trung Hoa, thì nhà Chu trong hai giai đoạn Xuân Thu, Chiến Quốc, sức mạnh cường lực của họ đã ảnh hưởng rất mạnh trên các bộ tộc Bách Việt kế cận.
Xã hội Bách Việt ở cực Bắc Văn Lang (phía Nam sông Dương Tử) cũng bị ảnh hưởng nhưng chậm hơn. Các Tộc trưởng ở đây hầu như không quan tâm tới vị trí tối cao của các Hùng Vương theo truyền thống Việt cổ mà lại thích làm vua theo cơ chế quyền lực trực trị của Hoa tộc. Do vậy, họ theo nhau thoát ly khỏi chính quyền trung ương Văn Lang. Họ dựng lên những nước nhỏ, xưng vua và tranh chấp nhau… gần giống các cuộc chiến tranh chư hầu cùng thời của nhà Chu.
Tuy nhiên, thời nhà Chu cuối Xuân Thu (550 tr,CN), truyền thống du mục không dừng lại ở bên kia bờ Trường Giang. Bằng cách này hay cách khác, đã xuất hiện dọc theo bờ Nam sông Trường Giang và bắt đầu khống chế một số nước Việt phương Nam. Chiến tranh giữa các chư hầu liên miên khiến xã hội đảo điên, luân lý suy tàn… Lão Tử, Khổng Tử xuất hiện. Họ vận dụng tư tưởng sẵn có của phương Nam, kêu gọi bảo vệ luân lý, đề cao đạo đức, thiết lập lại tôn ti trật tự xã hội… (Nho) hoặc chủ trương sống nhàn, sống tự nhiên, không tranh chấp, vô vi, tự tại… (Lão)
Cho đến giữa thời kỳ Chiến Quốc nhà Chu thì biên giới nước Văn Lang đã lui tới gần sát lằn ranh biên giới Việt Nam Trung Hoa ngày nay.
Tới đây chúng ta nhận ra một vấn nạn có tính cách “sinh tử” của nước Văn Lang là chế độ Nhân chủ, Nhân Trị Bách Việt (theo kiểu tiền sử) đã tỏ ra quá yếu thế trước áp lực của các nước theo chế độ quân chủ chuyên chế du mục phương Bắc: Liên tiếp nhiều bộ tộc nông nghiệp bị thu hút theo truyền thống tổ chức của xã hội du mục càng ngày càng gia tăng. Họ li khai Văn Lang và lập quốc bằng những cơ chế quân chủ sơ khai.
2.- Theo sử gia Phạm Văn Sơn trong Việt sử Toàn Thư thì vào thế kỷ thứ 9 tr.CN, một quý tộc Việt ở Chiết Giang thuộc Thị tộc Mỵ đứng lên lập nước Sở và xưng là Hùng Mỵ (vua Mỵ). Rõ ràng, danh xưng hùng trong Hùng Mỵ có liên hệ với hùng của Hùng vương: hùng = vua. Tuy nhiên vào giai đoạn này, Hùng Mỵ và nước Sở đã bước vào truyền thống quân chủ chuyên chế của du mục Trung Hoa.
3.- Các Hùng vương không hoàn toàn do phái nam đảm nhiệm mà chắc chắn đã có nhiều nữ Hùng vương. Bởi vì, là thời đại mẫu hệ, trước đó đã có bà Nữ Oa, bà Vụ Tiên, bà Âu Cơ và sau đó lại có Bà Quân Ngô Nhuế, bà Mai Quyên, bà Man Thiện, Hai Bà Trưng, bà Trần Thiếu Lan, bà Phật Nguyệt, bà Triệu Thị Trinh… đã làm vua, làm tướng thì nhất định phải có nữ Hùng vương trong suốt 2.446 năm đằng đẵng đó.
4.- Hai vua Kinh Dương Vương (Lộc Tục) và Lạc Long Quân (Sùng Lãm) thay nhau làm vua nước Xích Quỷ và nước này đã bị tan rã vì mất lãnh đạo sau trận Trác Lộc năm 2.704 TCN. Tù trưởng các bộ lạc Việt thay nhau làm Hùng vương nước Văn Lang là thời đại kế tiếp sau thời đại Xích Quỷ. Nhiều sử gia ghi rằng Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân là hai vị vua đầu tiên của nước Văn Lang và gọi họ là Hùng vương thì e nhầm chăng?