Chương III BIỆT SẮC ĐẶC THÙ CHỦNG VIỆT--III/1 .- VẦNG NHẬT-
Chương III
biệt sắc đặc thù chủng việt
iii/1 .- vầng nhật
ừ thời thượng cổ, hầu như dân tộc nào cũng quan tâm mặt trời và tôn thờ mặt trời như một vị thần linh đầy quyền năng và sức mạnh. Đó là điều dễ hiểu. Tuy nhiên các dân tộc Miêu, Viêm về sau gọi là Bách Việt cũng thờ vầng nhật thì có chi lạ?
Trên những trống đồng Lạc Việt đẹp nhất là trống Đông Sơn xuất hiện trong thời kỳ văn hóa Bắc Sơn còn gọi là Hậu Hòa Bình (7000 năm đến 1000 năm tr.CN). Mỗi trống đều có chạm hình ảnh mặt trời ở chính giữa mặt trống một cách sống động và trang trọng. Nó ức chế mọi hình ảnh khác được chạm trổ chung quanh rất mật thiết. Bất cứ ai khi nhìn vào mặt trống với những ngôi nhà mái cong, những hình người nhảy múa, thổi kèn, gõ sanh, giã gạo, những ngôi nhà mái cong… đều không khỏi dấy lên tự đáy lòng niềm hoài cổ mênh mang. Và, liên tưởng về dĩ vãng của xã hội Việt tộc cách đây hàng năm ngàn năm, mười ngàn năm! Các cụ đã kiến tạo thực khéo léo những ngôi nhà mái cong rất mỹ thuật, đã làm vè (thơ) có vần, có âm, có nhịp điệu. Chẳng những thế còn có nhạc và nhạc cụ như kèn, gõ sanh, đánh cồng, thúc trống… và những vị khác thì hưởng ứng bằng những động tác nhịp nhàng, vừa ca vừa múa. Các cụ đã ăn cơm bằng gạo giã trắng…
Từ những điêu khắc trên mặt trống đồng, các học giả, triết gia ngày nay có nhiều cách đọc để tìm hiểu xã hội Việt của thời gian 1000 đến 7000 tr. CN (giai đoạn văn hóa Bắc Sơn).
Trước nhất là đọc đúng theo những hình khắc trên mặt trống, nhờ đó mô tả khá chính xác các sinh hoạt xã hội Việt cổ như làm nghề nông, trồng lúa, đã có cối xay lúa, cối giã gạo cho trắng. Có chăn nuôi gia súc, thuyền bè đánh bắt tôm cá. Nghệ thuật xây cất nhà cửa, sân khấu có mái che, có màn kéo. Có văn, thơ, ca, múa. Cách ăn mặc của dân chúng trong các dịp hội hè. Từ đó có thể suy ra các lãnh vực khác như truyền thống sinh hoạt xã hội, luân lý, đạo đức, luật lệ, văn học nghệ thuật, nghề nghiệp…
Kế đó là đọc theo con mắt triết học từ những biểu tượng được trình bày trên mặt trống để biết được quan niệm nhân sinh và vũ trụ của người xưa… Triết gia Lương Kim Định cho rằng trống đồng là cuốn sách cổ đã lưu giữ lại toàn bộ tư tưởng của tổ tiên Việt tộc.
Ai cũng biết, các dân tộc khác thờ mặt trời với một ý nghĩa đơn thuần: thần ánh sáng có nhiều quyền năng và sức mạnh. Trong khi đó, các dân tộc Bách Việt đã thoát ra ngoài quan niệm mộc mạc, đầy mặc cảm tự ti đó. Tổ tiên Việt tộc nhìn mặt trời như một biểu tượng tinh thần, một cực trong Lưỡng Cực hay một Tài trong Tam Tài của triết lý Nông nghiệp Miêu tộc.
“Nhân giả kỳ thiên địa chi đức” (Người là cái đức của Trời và Đất.)
Đấy là giá trị tột đỉnh của con người Miêu, Viêm trong Nho khi nói tới mặt trời.
Lệ thường, khi nói tới Nho ta liền nghĩ tới đức Khổng Phu Tử và cho rằng Nho do ngài đặt ra. Sự thực, Nho không do đức Khổng Phu Tử khai sáng, chính ngài đã viết trong sách Trung Dung là ngài: “Thuật nhi bất tác” ở đoạn khác ngài viềt “Khoan nhu nhĩ giáo bất báo vô đạo Nam phương chi cường dã quân tử cư chi” thì ta nên hiểu rằng, Nho vốn đã có từ trước ở phương Nam mà ngài chỉ là người ghi chép lại chứ không sáng tác.
Trong những phần trước, chúng tôi đã trình bày, văn hóa Trung Hoa là sự vay mượn mang tính chiếm đoạt từ văn hóa truyền thống và văn minh của các dân tộc Miêu tức Viêm về sau gọi là Bách Việt đã bị du mục Trung Hoa cổ xâm lăng. Do đó, xin quý độc giả nên quên hẳn những ý nghĩ cho rằng “Việt là man di, là Nam man… Từ ngàn xưa Việt đã học lóm được văn minh Tầu…” như 1000 năm qua người Việt vẫn thường lầm lẫn khi nói tới vấn đề này. Vậy Nho là gì, của ai và xuất hiện từ bao giờ?
Nếu hiểu theo nghĩa uyên nguyên thì Nho là đáp ứng mọi nhu cầu thâm sâu của con người. Sách Pháp Ngôn viết:
Thông Thiên Địa viết Nho (Thông được với Trời, Đất tức là đáp ứng được mọi nhu yếu thâm sâu của con người.)
Tại sao phải cảm thông với Trời, Đất mới tìm được cái nhu yếu thâm sâu hầu đáp ứng đời sống chân thiện mỹ của con người? Bởi vì người nông nghiệp Đông Á cổ đại đã suy ra rằng con người là một trong ba vị thế quan trọng của vũ trụ: đó là vị thế Tam Thông: Trời, Đất, Người… Trời là chủ, Đất là chủ và Người là chủ.
Đức Khổng Tử viết:
Nhân giả kỳ Thiên Địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi tứ khí. (Người là cái đức của Trời, Đất, là giao điểm của Âm Dương, là nơi Quỷ Thần tụ hội, là cái khí tinh tế của Ngũ hành (năm vật chất đầu tiên trong vũ trụ: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ rất cần thiết cho sự sinh hóa và sống còn của vạn vật).
Ngài còn nhấn mạnh:
Nhân giả kỳ Thiên Địa chi tâm giả (Con người là cái tâm của Trời Đất)
Những câu trên nói rõ vị thế của Người đối với Trời, Đất: Con người là linh khí của vũ trụ, là cái đức, là trung tâm… của Trời Đất, của quỷ thần, của âm dương.
Hình như chưa vừa lòng, ngài viết thêm:
“Đạo giả, phi thiên chi đạo, phi địa chi đạo, nhân chi sở dĩ đạo giả”(Đạo là gì? Trời không phải là đạo, Đất không phải là đạo, Người mới là đạo !)
Như thế, quan niệm nhân sinh và vũ trụ của “người quân tử cư ngụ ở phương Nam” đã đưa vị thế con người lên tột đỉnh: Đó là vị thế Nhân chủ
Con người không thể chỉ biết kêu xin Quỷ, Thần hay nương tựa vào Trời và Đất để chỉ ra cho mình hay để cầu xin cho mình con đường sống mà chính mình phải biết xử dụng những thứ đó để tạo lập hạnh phúc cho mình.
Để hình dung Trời mang ý niệm tinh thần, tâm linh… tổ tiên hiền triết Việt tộc vẽ hình tròn (biểu tượng) hay hiện thực bằng chiếc bánh dầy cắt ra từng khoanh tròn, hình tròn của đồng tiền cổ, mái nhà cong… Để đối lại với Trời, khi nói tới Đất, vật chất, lý trí… các cụ vẽ hình vuông hay cái bánh chưng, cái lỗ hình vuông trên đồng tiền cổ, cái nền nhà, chiếc bánh chưng… Thực là huyền diệu khi người Việt chúc người sản phụ bằng câu:“mẹ tròn con vuông” vừa để nói lên lòng mong ước sự vẹn toàn trong việc sinh con của người mẹ vừa minh xác sự xuất hiện của con người vừa lọt lòng mẹ là thành quả của sự tụ hội Trời Đất, Quỷ Thần, Âm Dương…
Con người ấy từ khi lọt lòng mẹ cho đến khi tắt thở được người xưa mô tả như kiếp người đang đi trên một đoạn nào đó của con đường thiên lý. Con Người ấy, đầu đội trời chân đạp đất, an nhiên tự tại, biết rõ và làm chủ con đường anh hay chị ấy đang tiến bước trong trời đất bất tận để tìm về chân thiện mỹ. Vậy trước khi sinh ra trong hình hài một đứa bé, sinh vật ấy đã là cái gì? Sau khi thân xác ấy tàn lụi, sinh vật đó sẽ là cái gì? Đi về đâu?
Các tôn giáo lớn trên địa cầu và tổ tiên Việt tộc đã nói về sinh vật kỳ diệu đó: Đó là linh hồn, thần hồn hay nói nôm na là ba hồn chín vía, là phách…
Công giáo trình bày linh hồn bằng hình ảnh: Thiên chúa thổi hơi vào Adam để tạo nên nguồn sống. Vậy hơi thở Thiên chúa được coi như khởi thủy của linh hồn con người Thiên chúa giáo. Nếu là người công chính, khi nhắm mắt xuôi tay, linh hồn ấy sẽ trở về với Thiên chúa.
Phật giáo trình bày linh hồn bằng hình ảnh kiếp luân hồi. Nếu con người diệt được tham sân si, chăm lo hành thiện, nói chung là giác ngộ lời đức Phật, linh hồn ấy sẽ thoát được kiếp luân hồi tức là được giải thoát và đạt được cõi vô cùng của niết bàn.
Người Dravidian, một dòng cư dân ở vùng Tây Bắc Ấn Độ cách đây 3200 năm trở về trước, và đạo Ấn Độ (Indu) ngày nay, định nghĩa linh hồn như một phần chi thể của Purusa đại ngã (Thượng đế) thoát ra, thâm nhâp vào phôi thai mà làm người. Con người đó phải toàn thiện để trở về với Purasa đại ngã.
Cả ba tôn giáo trên đều kêu gọi con người phải cầu nguyện, diệt dục, thi hành bác ái… mới đạt được cõi vĩnh hằng. Chắc chắn, không phải ngẫu nhiên mà nhân loại đã có những lý giải về linh hồn một cách khá trùng hợp như vậy.
Còn văn hóa Miêu tộc cổ thì sao?
Các cụ trình bày con người bằng biểu tượng Lưỡng nghi cũng gọi là âm dương: Bên trong hình tròn có một nét cong như hình chữ S ngược, chia đều diện tích hình tròn thành hai mảnh như hai giọt nước ôm vào nhau bên xuôi bên ngược. Một mảnh tô màu đen, ở chỗ nở rộng nhất có một chấm mầu trắng. Một mảnh tô trắng, ở chỗ nở rộng nhất có một chấm mầu đen.
Người là một kết hợp hoàn mỹ của tinh thần và lý trí, của linh hồn và thể xác… Hai nguyên lực này khi tương nhượng, khi lấn ép nhưng luôn luôn hài hòa cân bằng đến mức tuyệt đỉnh. Chẳng những thế, trong âm luôn luôn có dương và trong dương luôn luôn có âm. Đó là một sự gắn bó chặt chẽ của hai nguyên lực để tạo nên một bản thể toàn vẹn cũng gọi là Nhân bản Toàn diện.
Đó là nền tảng, là khởi điểm của triết lý Nhất nguyên Lưỡng cực và triết gia Lương Kim Định gọi là triết lý An Vi.
Trong phần cuối của chuyện ông Bàn Cổ°, được mô tả như sau: Khi ông Bàn Cổ chết, hai con mắt ông biến thành mặt trời và mặt trăng. Máu ông chảy ra thành sông, hồ, biển cả. Xác ông rã ra thành đất, thành núi. Lông tóc đâm rễ xuống đất mọc lên thành rừng cây bạt ngàn còn những con vật sống trên cơ thể ông trở thành loài người… Như thế, người xưa coi mặt trời là thành quả cao nhất mà con người đã tu luyện để đạt hạnh phúc và soi rọi cho con cháu, hậu thế…
° Chuyện ông Bàn Cổ chúng tôi có bàn kỷ ở chương 5. Ở đây chúng tôi chỉ xin trích đoạn để dẫn chứng mặt trời với con người Nhân bản toàn diện mà thôi.
Chuyện ông Bàn Cổ là một chuyện mang tính biểu tượng, tính ẩn dụ rất cao độ của các dân tộc nông nghiệp Miêu, Viêm về sau gọi là Bách Việt. Con người Nhân chủ khi chết đi vẫn hiện diện một cách mật thiết với vũ trụ và hậu thế qua hình ảnh mặt trời, mặt trăng, đất nước, biển cả, rừng cây và nhân loại. Đoạn văn kể câu chuyện có vẻ thô sơ đó đã phác họa những tư tưởng khởi đầu cho một minh triết cực kỳ uyên thâm, chủ đạo đời sống con người Đông Á: triết lý Nhân chủ với mẫu người Nhân bản Toàn diện. Khi sống là một con người biết sống trong tinh thần làm chủ. Khi chết, vẫn tiếp tục là một hữu ích cho hậu thế và tồn tại với vũ trụ như mặt trời, mặt trăng… hay trở về với thần linh theo quan niệm tôn giáo.
Như thế, biểu tượng Vầng nhật của văn hóa nông nghiệp Miêu, qua đoạn chót chuyện ông Bàn Cổ, mặt trời không phải là một vị thần đầy quyền uy, sức mạnh mà là một gương thành công của con người: Sau khi chết, một con mắt của ông Bàn Cổ biến thành mặt trời. Ông Bàn Cổ, mẫu người trượng phu ấy, đã biết sống sao cho đáng sống, đã biết chết sao cho đáng chết vậy.
Theo dịch lý, miền Nam thuộc hỏa, biểu tượng của mặt trời trong dịch là quẻ ly, ly vi nhật (mặt trời màu đỏ). Tên nước ta từ xưa đến nay đa số đều chọn danh xưng liên quan mật thiết với quẻ ly như: Xích Quỷ (xích là đỏ), Nam Việt, Đại Nam, Việt Nam (phương Nam thuộc hỏa, ứng vào quẻ ly) cho đến cả màu đỏ truyền thống đều luôn luôn hướng về quẻ ly này. Thời triều đình vua Bảo Đại dùng cờ long tinh (cờ vàng có một sọc đỏ ở giữa), thời chính phủ Trần Trọng Kim dùng cờ quẻ ly (cờ vàng ở giữa có chữ ly gồm 2 sọc đỏ hai bên, sọc đỏ ở giữa thì tách làm hai đoạn), thời chính phủ quốc gia Việt Nam rồi đệ I và đệ II Việt Nam Cộng Hòa thì có cờ vàng ba sọc đỏ. Màu đỏ mặt trời đúng là mầu truyền thống của Việt tộc từ cổ chí kim không bao giờ thay đổi.
Người xưa đã dựa vào trời để trình bày những suy tư của họ: Trời có một giá trị linh thiêng, luôn luôn sinh động, soi rọi và liên hệ với người vô cùng chặt chẽ, thân thiết như cha mẹ, ông bà, tổ tiên đối với con cháu:
1. Trời sinh trời dưỡng
2. Trời cho cầy cấy đầy đồng,
Xứ nào xứ nấy trong lòng vui ghê,
Một mai lúa gặt đem về,
Thờ cha kính mẹ trọn bề hiếu trung!
3. Trời sinh trâu thì sinh cỏ,
Đất sinh giếng thì sinh mo,
Người sinh O thì sinh Tui
4. Trời nắng rồi Trời lại mưa
Chứng nào tật ấy có chừa được đâu!
5. Trời chưa cho lúa chín vàng
Cho anh đi gặt cho nàng đem cơm!
6. Trời mưa lác đác ruộng dâu
Cái nón đội đầu cái thúng cắp tay,
Bước chân xuống hái dâu này
Nuôi tằm cho lớn mong ngày ươm tơ
Thương em chút phận ngây thơ,
Lầm than đã trải, nắng mưa đã từng.
Xa xôi ai có tỏ tường,
Gian nan tân khổ ta đừng quên nhau.
8. Trời cao đất rộng bao la,
Việc gì mà chẳng phải vào tay ta,
Trong việc nhà ngoài thì việc nước,
Giữ làm sao sau trước vẹn toàn,
Lọ là cầu Phât cầu Tiên!
9. Trời Đất hương hoa,
Người ta cơm rượu
10. Trời mưa thì mặc trời mưa
Tôi không có nón trời chừa tôi ra
2. Trời cho cầy cấy đầy đồng,
Xứ nào xứ nấy trong lòng vui ghê,
Một mai lúa gặt đem về,
Thờ cha kính mẹ trọn bề hiếu trung!
3. Trời sinh trâu thì sinh cỏ,
Đất sinh giếng thì sinh mo,
Người sinh O thì sinh Tui
4. Trời nắng rồi Trời lại mưa
Chứng nào tật ấy có chừa được đâu!
5. Trời chưa cho lúa chín vàng
Cho anh đi gặt cho nàng đem cơm!
6. Trời mưa lác đác ruộng dâu
Cái nón đội đầu cái thúng cắp tay,
Bước chân xuống hái dâu này
Nuôi tằm cho lớn mong ngày ươm tơ
Thương em chút phận ngây thơ,
Lầm than đã trải, nắng mưa đã từng.
Xa xôi ai có tỏ tường,
Gian nan tân khổ ta đừng quên nhau.
8. Trời cao đất rộng bao la,
Việc gì mà chẳng phải vào tay ta,
Trong việc nhà ngoài thì việc nước,
Giữ làm sao sau trước vẹn toàn,
Lọ là cầu Phât cầu Tiên!
9. Trời Đất hương hoa,
Người ta cơm rượu
10. Trời mưa thì mặc trời mưa
Tôi không có nón trời chừa tôi ra
Từ những câu ca dao, phong dao trích dẫn nêu trên, vầng nhật quả là một hình ảnh gắn bó, thân thiết như tình cha mẹ, ông bà đối với con cháu. Biệt sắc Việt tộc ấy thực là hiếm quý và khó tìm thấy ở bên ngoài vùng đất Đông Á. Nó gắn liền với đời sống con người Việt tộc từ cổ đến kim trong tục ngữ, phong dao, ca dao, hội họa dân gian, trên các đồ đá, đồ gốm. đồ đồng cổ…
Sưu tầm: hai1957
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 12 tháng 11 năm 2012