CHƯƠNG 6.
Lúc mặt trời lên, mấy công viên nằm sát trái tim thành phố vắng vẻ lạ thường. Đám bụi đời như âm binh, biến mất khi ngày đến, trừ chị Bảy cà tong nhởn nhơ lượn lui lượn tới và thằng Long Tân Định ngồi trên ghế đá, chỗ ngủ của con Quê bỏ trống. Chị Bảy cà tong hôm nay mặc cái áo sơ mi màu hồng còn mới lắm, hai tay bồng như kiểu mấy cô gái còn ngây thơ nên trông nghịch mắt quá. Thằng Long Tân Định cứ tránh nhìn chị mà hút thuốc, trầm ngâm như có điều gì đang phải suy nghĩ, thỉnh thoảng mày nó nhíu lại. Chị Bảy cà tong sà xuống:
“Ê, có chuyện gì mà mặt mày “khẩn trương” dzậy” cưng. Mấy đêm nay sao biến đâu hổng thấy?”
“Thôi má. Má làm ơn cho con yên chút được không? Đang điên cái đầu đây. Tức hộc máu. Đụ họ.”
“Ha,nói nghe có duyên quá chừng. Tức ai mà ói máu?”
“Nói má nghe để còn tùm lum tùm la ra sao nữa đây? Ừa, thì nói. Đây sợ đứa nào. Vụ mấy thùng bia bên cửa hàng, thiệt mình bốn chín cũng gặp năm mươi. Con mẹ cửa hàng trưởng lừa đảo làm mất cả khối tiền mà được có mấy thùng vỏ bia.”
“Ha, cửa hàng trưởng thì cửa hàng trưởng. Thưa thấy con mẹ nó chớ. Sao mày không nói với con Lê, coi vậy chớ nó có uy với phường lắm nghe mầy...”
“Biết. Biết con má ngoan lắm, xách đít đưa cho thằng phó phường. Nhưng má ơi, con mẹ cửa hàng trưởng vợ của một phó giám đốc sở công an, dám chơi không?”
“Ừa thì không dám rồi. Nhưng cái thằng tà lọt đưa mối đó, trơ cái mặt ra mà cưng chịu sao? Chơi thấy con bà nó luôn chớ, sợ gì.”
Thằng Long Tân Định khi không nổi nóng ngang:
“Nữa, cũng bà. Tui hết muốn gì nữa đi. Đang khô queo hổng còn một xu ten dính túi đây. Thằng Nuôi con bà chơi hổng đẹp, lúc nào cũng chơi trội, không chia chác đồng đều. Bị dính bà mà tui thua nó.”
“Thôi tao can. Bộ anh em bây tính giết nhau sao đây. Có gì thì cũng còn tao, tao hổng binh đứa nào, bỏ đứa nào hết trơn. Cưng coi cái vụ...”
“Được, được rồi, má đừng có khui ra nữa. Cũng tại má mà con tan nát đời hoa...”
Chị Bảy cà tong phì cười. Cái thằng thiệt. Nó hơn thằng hai Nuôi một hai tuổi là cùng, nhưng khôn lanh và ăn nói dí dỏm làm người ta bắt cười mà thương chi lạ. Nó còn rủa chị là con Võ Tắc Thiên, là con Đắc Kỷ già, mụ Từ Hy Mắm Thái. Cái gì lọt vô miệng thằng nhỏ cũng thấy dễ nghe, chị sao mà giận nó được? Còn nữa, hơ, nó đùa ngộ quá:“Coi, cái chỗ ngon nhất sắp chín rục rồi nghe, tiếc hông?” Thánh cũng phải cười bò ra.
“Thôi má, hổng rảnh ngồi coi má cười dơ răng dơ lợi ra. Bà nghe, tui ngán bà tận này này...”
Nó đưa tay phía bụng dưới. Chị Bảy cà tong cười nữa.
“Cưng thiệt tình... Biết rồi. Tiền phải không? Có đây nhưng không nhiều, dằn túi tiêu vặt.”
“Tui không cần tiêu vặt.Vụ rồi thua phải trả nợ không thì cứ chồng chất tiền lời thấy tía luôn.”
Không biết “vặn” của chị Bảy cà tong được nhiêu, Long Tân Định rời công viên đi xuống phía phố tìm chỗ ăn sáng. Ở đây có con đường Mạc thị Bưởi, cắt ngang thông từ đường Tự Do tới Hai Bà Trưng, có tới mấy quán cơm tấm bì, ghế bàn lúp xúp bày cả ra lề đường mà không lúc nào trống chỗ. Dân mánh mung điểm hẹn đầu ngày ở đây. Công an ăn có cũng ở đây, hải quan chung tiền cũng ở đây, cả mấy bà chơi hụi tháng hụi ngày, thường trực có mặt.
Miếng móng giò tuy ngon lành nhưng ăn cái vèo đã hết. Nó tiếc rẻ mút, thè lưỡi liếm, giây lát, cục xương bóng nhẵn như được chà giấy nhám. Nó đưa cục xương vô dụng lên, vung tay một cái, cục xương văng xuống một gầm bàn. “Oẳng”. Tiếng một con chó kêu, rồi một cái đầu chó thò ra khỏi gậm bàn, nhe răng, gầm gừ. Thằng Hôi cũng nhe hàm, răng nó lởm chởm y hệt răng chó. “Gâu” Nó sủa lại. Chắc không coi nó là kẻ thù, con chó gừ thêm một tiếng rồi bỏ vô phía mấy bàn bên trong.
Sáng đi la cà mấy cửa tiệm, ăn vài ba món, kể cả ăn đòn, bụng vẫn còn lửng. Nó nhìn quanh. Đây rồi, bàn ngoài cùng, có hai anh chị ngồi hòai mà hai tô bún vẫn còn lưng chừng. Cô gái cứ khuấy hoài ly nước chanh đã tan hết đá, mặt ủ sụ như bông hoa héo. Nó đi tới gần và chìa tay ra sát mặt cô gái.
“Xê ra. Xê ra không!”
Cậu trai nạt, nhưng bàn tay ghê gớm của nó đưa qua đưa lại tỏ ý xin ăn. Cô gái một tay đẩy tô bún, một tay che mặt. Chỉ chờ có vậy, nó bưng tô lên, lấy thêm tương ớt, còn đổ cả dĩa rau và giá sống vào tô, rồi mới lùi lại chỗ góc lề đường. Tô bún đỏ lự ớt, cay phải biết. Nó ăn ham hố như cả tuần nhịn đói vậy.
Dơ bẩn, hỗn và lì đòn là món vỏ phòng thân của thằng Hủi. Nó mới xuất hiện trên con đường Tự Do chừng hai tuần lễ nay thôi. Lúc đầu, ma cũ là bọn thằng Lai Phá làm dữ lắm. Định bứng cho nó trốc gốc đi “xứ” khác làm ăn. Cả băng thằng Lai xúm lại. Nó biết cái cố tật của thằng Lai là thường xuyên nhổ nước bọt, và khi gặp chuyện, nhổ nước bọt vào lòng hai bàn tay và xoa xoa. Bữa đó, thằng Lai Phá cũng nhổ toẹt một bãi nước miếng xuống đất.
“Ê, đi chỗ khác. Đây không có chỗ cho mày.”
“Tao? Đi đâu?”
“Đi đâu kệ con thằng đực đẻ mày ra chớ, hỏi tao?”
“Thằng Đực đẻ tao ngỏm rồi!”
“Con mẹ mày, láo với ông.”
“Má tao, ê, tao hông biết bà còn sống không nghe mày.”
Thằng Lai Phá lần đầu tiên nghe một thằng “bụi” nói ngộ quá, cứng họng một lúc.
“Mày muốn thử sức với tao hông? Công bằng là một chọi một mới phải.”
“Mày tên gì?”
“Không biết. Nhưng dân ở đây gọi tao là thằng Hủi. Tao thích tên này.”
Anh hùng rơm chưa? Thằng Lai Phá bể mặt với đàn em, xông trận liền. Thằng Hủi kém thớ hơn, chắc chắn rồi, nhỏ con, ốm đói...chưa kinh nghiệm. Thằng Lai Phá lầm rồi. Đánh không lại thì nó cắn, nó xông vô giữa háng thằng Lai và...đớp lia đớp lịa.
“Ê, không chơi. Chết nghe mày...”
“Thấy hông, tao có võ. Sợ chưa”.
Bọn đàn em thằng Lai Phá khoái chí tử, vỗ tay rần rần. Thằng Lai Phá cũng cười sằng sặc. Vậy là huề, thằng Hủi đương nhiên được kết nạp vô Đảng. Lý lịch của nó được rõ.
“Tao ở đâu tới há? Kinh tế. Gì? Kinh tế mới, mấy ông mấy bà. Ha, có cha có mẹ đàng hoàng. Ba tao? Ngỏm rồi. Ổng bị bịnh kiết lỵ, chết ghê lắm, tụi bay. Tao còn hai đứa em nữa, cũng chết. Một thằng thì sốt rét, một con em gái bị rắn cắn. Rắn. Thì rừng mà. Còn nghe beo gầm cọp hú nữa kìa, rùng rợn lắm. Má tao lúc đó ốm bằng cây tăm tụi bây tin không? Bã khóc lóc bắt tao phải đi tìm một con đường mà sống. Hồi ba tao còn sống, mấy lần dẫn ba anh em tao xuyên rừng, ra lộ để xin quá giang xe đò về thành phố, nhưng lần nào cũng bị công an anh phòng bắt, đánh cho một trận, đuổi vô. Lần đi với má tao, bà chì lắm nghe tụi bây. Đợi trời sập tối là bà dẫn tao đi xuyên rừng liền. Rồi một ngày hôm sau cũng trong rừng, đến đêm, rồi rạng sáng thì tới đường lộ. Bả dẫn đi xa lắm mới có khúc quanh hổng có có công an canh. Thôi bả khóc quá là khóc, lạy như tế sao, tài xế xe đò mới cho tao quá giang. Má tao? Thì bả phải trở lại kinh tế rồi. Ra sao? Tao chẳng biết, nếu chưa bị cọp nhai thì cũng chết đói rày mai...Nếu hồi đó ba tao dẫn được hai đứa em tao đi thì chắc chúng chưa chết đâu...ĐM, tao thù kinh tế mới nhức xương...”
Bọn thằng Lai nghe thích lắm. Thằng Hủi dám đánh nhau với khỉ, đi lấy tổ ong, bắt rắn con đem về hầm ăn. Thằng Hủi kể em gái nó bị rắn cắn là quả báo, cả nhà nó ăn thịt rắn con nhiều lắm. Vậy là con Quynh, một con “bà chòi” của băng Lai Phá cười ngất: “Ủa, vậy tụi tao cũng sẽ bị mèo cắn chết, vì tụi tao chuyên bắt mèo con của lũ mèo hoang nướng ăn ngon hết biết.”
Đâu có ai tranh ăn đâu mà thằng Hủi nhai nuốt không hở cuống họng để thở. Nó sặc ớt, nhưng nhanh như cắt, đã đưa cái tô hứng kịp mấy cọng bún và nước từ trong miệng nó ọc ra. Cay chết cha chết mẹ luôn. Thôi chết, sao lại ghép má nó vô mấy con số tử vậy cà. Có phải vì cay và sặc ớt không mà nước mắt nước mũi chảy tùm lum. Khi không nhớ cha nhớ mẹ thiệt. Còn hai đứa em nữa, từ ngày lên kinh tế, có bao giờ ăn được miếng ngon như nó đang ăn không? Đất rừng cứng như đá, cả ba ngôi mộ của cha và hai em, nắng cháy nức nẻ, không có một cây cỏ nào sống được. Má nó ra sao rồi đây? Má. Thiệt đó. Ăn miếng ngon, dù thừa cặn người ta đổ đi, cũng nhớ má nè...Ở trển, bắt được con thỏ, con rắn gì thì cũng chỉ nấu với muối, một món một...Ráng khoan chết, chờ nghe má. Nó nhủ, kiếm được tí tiền, tìm cách lên rước má nó về đây làm nghề ăn xin. Ôi dào, còn mệt lắm, phải có khoản cúng kiến cho công an, chưa chắc gì đã được, mà đôi khi nó còn dính cứng ở trển luôn,coi như chết. Nó liệng cái tô lăn lóc trên lề đường, khóc rống lên. Xui cho ai lúc đó nhìn nó:
“Má mày, tao nhớ má tao, tao khóc. Ngó gì. Má mày.”
“Má mày. Ngó. Má. Bà nghe. Má tao. Má mày. Má mày chớ ai.”
Nó vỗ bốp bốp vào mặt, vừa đi vừa khóc. Nhưng khi đụng nhóm thằng Lai Phá thì cười ré lên.
Ngang qua Bô đa, nhìn vô, thấy thằng Long Tân Định ngồi chung bàn với Dũng Đầu Bò, con bà chòi Quynh bèn đi một đường “ngoáy đít” chọc chơi. Thằng Long Tân Định biết bọn quỷ ma này rồi, ngó lơ chỗ khác.
Chúng nó chia nhau tản ra các khách sạn đón khách ngoại quốc. Thằng lai có kinh nghiệm về việc này lắm. Xem mặt mà bắt hình dong. Chúng nó tự biết khách nào là Liên Sô, hay Hung Ga Ri, Tiệp Khắc, Ba Lan. Có người tóc cũng vàng, cao dong dỏng, mà phải tinh mắt biết ai là Tây Đức, ai là Đông Đức. Mấy ông Canada coi giàu vậy nhưng chỉ tốn tiền cho bọn gái, chớ bọn thằng Lai khó “chài” lắm. Chỉ có phái đoàn HCR thì le lói làm sao. Có mấy ông Mỹ nói tiếng Việt, ông nói giọng Bắc, ông giọng Nam, có ông nói tiếng Huế nữa. Mấy ông này mà đi theo một đoạn đường thế nào cũng có tiền, đôi khi còn kẹo bánh, sô cô la, đem đổi liền cho mấy bà bán thuốc lá lấy tiền mặt. Mấy bà Ba Lan đôi khi xin được mấy cây bút chì. Còn mấy ông Tiệp Khắc gặp nhau thì a hôi, a hôi ồn ào, nhưng áo quần không hôi như Liên Sô. Cái mùi Liên Sô nó kỳ làm sao, đứa nào cũng công nhận vậy.
Thằng Lai Phá đi với thằng Hôi. Thằng Hôi dơ vậy đó, coi như không bao giờ tắm mà thằng Lai Phá vẫn cặp tay thân mật. Xuống tới khách sạn Cửu Long, chúng nó đụng đầu với một bọn gái “nữ sinh”. Cô nào cũng tóc xõa, áo dài trắng. Thằng Lai lại nhổ nước bọt.
“Hôi, mày ngó kỷ cái con gầy nhom, mặt xanh lè kia kìa. Nó bị bịnh tim sắp chết mà đêm nào cũng đón tàu Đức...Mấy thằng Đức, đm,này này...”
Nó nhìn phía bọn gái:
“Chết nghe con. Ham lắm.”
Rồi nó xán lại gần:
“Ê, Điệp, tối hôm kia, nhờ tao hông là công an tóm mày rồi. Mày “biết” một chút đi.”
“Lai, tối nay mày giúp tao, đón thằng Heo, nói tao đợi nó ở quán Bạch Ngọc. Nè, tao “biết” cho mày nè.”
“Phải. Biết vậy tốt. Tính tao....”
Nó chia tay thằng Hôi để đi theo nhóm “nữ sinh.
“Lát gặp,nghe”.
Sau đó chúng nó có hẹn kéo nhau ra chợ Cũ “nghía” hàng tàu. Mấy ông đi tàu biển đem nhiều bánh kẹo, sô cô la, bơ, sữa,nên hàng chợ Cũ nổi tiếng lắm. “Nghía” chơi vậy thôi chớ đời nào bọn chúng bỏ tiền mua. Chôm được là không chừa. Lượm một vòng xong là mấy con “bà chòi” đã “chỉa” không nhiều thì ít.
Chúng phải đi ngang qua phường chín. Đối với thằng Lai Phá thì nhẵn mặt rồi, trưởng công an tới cảnh sát khu vực, trực ban gì nó cũng thuộc mặt hết. Thấy nó cô hồn quá, cũng bỏ liều luôn, cảnh sát khu vực cũng nhờ nó mà bắt được một ổ ăn cắp xe đạp hay thần sầu...Chuyện gì mà bu đông quá vậy? Bu quanh chiếc xe lam. Là những ai đây? Bọn chúng cũng xúm lại coi. Một bà béo tròn béo trục bị còng tay dẫn vô trước, rồi trên xe, lúc nhúc, đứa này dìu đứa kia, có cả chục đứa. Mà sao tụi nó cứ túm lấy nhau, đứa sơ2 soạng, đứa cà nhắc? Một lát thôi,cả mấy con đường mua bán máy, băng nhạc cũ ở đằng sau phường rần rật chạy bu coi. Chúng nó nhỏ người, chen đâu mà không lọt...
“Con mẹ mìn này dữ quá. Coi tụi con nít không có đứa nào nguyên thân...”
“Năm đứa bị thọc mù mắt. Hai đứa bẻ tay chân. Coi đứa con gái kia kìa, cái mặt dị dạng quá, toàn thẹo không.”
“Nghe nói con mụ này bị bắt mấy lần rồi. Làm nghề mẹ mìn từ ngoài Bắc. Mụ thuộc hạng thương phế binh...”
“Thương phế binh nhà nước đãi ngộ, không làm vậy...”
“Ha, nghe mệt quá... Ở đó mà đãi với ngộ...ngộ thiệt, hén.”
Người đàn ông, chắc cán bộ sượng sùng bỏ đi. Con “bà chòi” tên Đuông tự nhiên cầm chặt tay con Quynh.
“Ê, ghê quá mày ơi. Con mụ thọc mù mắt, bẻ tay chân con nít bắt đi ăn xin...”
“Ừa...” “Tao có đứa em cũng bị lạc, hổng biết có bị vậy không cà?”
“Em mày. Có bao giờ mày nói mày có em đâu?”
Con Đuông giọng như bà cụ:
“Con người ta bộ dưới đất chui lên sao mậy? Ai thì cũng có cha có mẹ, có anh em. Má tao bế con em tao trốn mất lúc ba tao bịnh sắp chết... rồi tao nghe tin má tao chết nữa, còn con em hổng biết nó đâu... Ha, coi thằng nhỏ kia nó điếc mày ơi...nó vừa đui vừa điếc.
Mụ “mẹ mìn” được gọi tới bàn lấy khẩu cung. Mụ vừa đứng dậy thì thằng Lai đưa chân đá nghéo một cái suýt té.
“Ác nhơn lắm nghe bà.”
“Mấy đứa con nít dang ra. Bà con dang ra cho phường làm việc.”
“Đưa hết lên lầu.”
Vậy là chẳng còn gì coi, cả bọn kéo nhau ra chợ Cũ. Thằng Hôi bỗng khóc hinh hích:
“Tao nhớ má tao, thiệt tao nhớ...”
Băng thằng Lai tưởng nó đùa, cuời phá lên. Con Quynh kéo cái quần rách bươm của nó xuống, cười nữa. Thằng Hủi giữ chặt quần, cũng cười vang.
.
Sáng thứ Hai, ngày đầu tuần, sau giờ đi làm, con đường Tự Do vắng lắm. Các tiệm mở cửa muộn, các bà các cô còn phải đi gội đầu, làm tóc, sơn quết móng tay móng chân, hoặc đi ăn sáng. Họ cần gặp nhau lắm. Bao nhiêu chuyện để kể với nhau. Cửa tiệm gội đầu, cũng như các địa điểm ăn sáng, mọi chuyện bí mật nhất, cũng đều bật mí ở đây.
Tuyết Chà thì ngược lại. Nhà cô không phải cửa tiệm, không cần mở cửa, cô cũng không thích đi ăn sáng ở ngoài. Còn gội đầu, đã có chị Lan, một tuần hai ngày tới làm việc. Đầu tuần, mấy bà bạn họp ở căn lầu xinh xắn của Tuyết. Có chị Ngân làm móng tay móng chân đến, có chị Lam, đấm bóp giỏi một cây. Ăn sáng, sai chị người làm xuống phố gọi, thức ăn thức uống gì có người bê đến tận nhà. Mấy ngày cuối tuần mệt quá xá. Ăn uống, đi chơi, đánh bài, nhảy đầm, chỉ có ngày đầu tuần nghỉ ngơi bù lại.
Sáng nay Tuyết Chà hơi bực mình vì ông thầy tới dạy nhạc cho cô con gái. Cái con nhỏ đần độn mà ông thầy chắc chẳng khá gì hơn... Mấy bài tập đàn hoài đàn mãi, con nhỏ cứ vấp, cứ sai. Dạy thì vậy chớ ngày lấy học phí thì dù Tuyết Chà có ngủ muộn đến mấy cũng chờ lấy bao thơ cho được. Nói cho nghỉ thì con nhỏ khóc, nói ông thầy này hiền, lỡ ông thầy mới không được hiền như vậy, sợ lắm. Xời ơi, sao mình sinh con mà trời sinh tánh. Con nhỏ tánh đã không giống cô rồi mà sắc diện thì còn trái cẳng ngỗng hơn.Cũng chẳng nhớ cha nó có phải thằng chồng Chà cuối cùng không, da nó hổng đen, mà vàng khè, tái nhách. Mấy con bạn quỉ hay nói móc: “Cha chà mà con không láng. Ý muốn nói đen láng chớ gì? Đâu phải ma-rốc, tây đen rạch mặt mà đen? Ờ, thì nó cũng có ăn chút cà ri của cha nó nên vàng vậy, được không? Đó là câu trả lại mấy đứa ưa móc họng. Biết nó ngu, cứ cho nó học đàn cho sang trọng vậy thôi. Vụ đánh tư sản vừa rồi, Tuyết Chà thoát. Cũng còn ớn lắm, mấy ông quành lại mấy hồi? Nhưng đã lỡ cho nó học, bây giờ ngắt ngang thì kỳ quá. Cũng tại anh chàng “kép nhí” bày chuyện cho có rồi....
Chị Lan tới sớm, không dám làm ồn lúc cô chủ đang ngủ. Bây giờ đang lau nhà. Chưa xong thì mấy bà đã tới. Rồi cô Phấn làm móng tay móng chân cũng xách tráp leo lên cầu thang. Chưa thấy người đã thấy tiếng:
“Xin lỗi bữa nay tới trể. Bị ghé lại lựa mua mấy màu mới. Đẹp lắm, coi nè.”
Cái tráp mở ra. Mấy chai sơn màu cam màu đỏ được mấy bà chuyền nhau coi. Mai Bắc mở nắp hít hà:
“Thơm, đúng là đồ ngoại.”
Chai nào cũng có xài qua. Chị Lan rành quá mà. Hồi mới mất Sài gòn, chị đi lùng mua nước hoa, son phấn của mấy “chị em” cũ, hay mấy bà tướng tá thất cơ lỡ vận, buộc phải bán đi. Dù đã xài qua rồi nhưng buôn đi bán lại mấy thứ này mà chị cũng nuôi nổi tám đứa con với một chồng mà không phải nếm mùi kinh tế mới.
“Đồ mới giờ toàn hàng Thái không hà, hàng Thái cũng “dỏm” thấy bà nội.”
Mai Bắc:
“Bây giờ có hàng mới, mấy anh tàu biển đem về...”
“Phải. Phải. Mấy anh tàu biển của cô cũng mua hàng “dỏm” luôn. Mới đi được xanh-ga-po, Thái Lan, chưa kể số gì đâu, bà.”
“Hồi trước hàng Thái cho tôi cũng không lấy.”
Tuyết Chà trề môi, tiếp:
“Chị Lan, gội đầu cho tôi trước. Tôi tắm cái rồi tẩm quất sau.”
Tuyết Chà nằm dài trên giường, một cái máng bằng nhôm kê kẹp dưới cổ, dưới hứng cái thau lớn có nước. Chị Lan dấp nước cho tóc ưót rồi mới đổ dầu gội đầu lên chà xát. “Dầu gội ngoại có khác.Thơm là thơm, sang trọng ghê cơ.” Lại Mai Bắc, cứ mãi một câu khen hàng ngoại.
Chị Lan gội đầu được tiếng là cẩn thận, tẩn mẫn. tay chị miết lên da đầu rất thiện nghệ, móng tay cắt không nhọn, gãi gãi “đã ngứa” lắm. Cô Tuyết Chà phải nói một câu: ” Đã chịu bà Lan này gội rồi thì ai gội cũng không bằng.” Gãi, miết, Lan còn nhổ tóc sâu, cứ bựt bựt đã quá xá đã.
“Gãi vầy có mạnh tay không cô”
Chị Lan hỏi cầm chừng.
“Không, gãi mạnh thêm một tí nữa, tí nữa...”
Tuyết Chà lim dim mắt. Ba bà nữa đang chờ, để bớt sốt ruột, chị Lan lôi trong giỏ ra một bộ bài cào:
“Mấy cô “binh” đi, chờ em, em làm lẹ lắm.”
Nhưng không bà nào muốn Lan làm lẹ đâu. Chị Lan cũng biết vậy, cho xứng đáng đồng tiền bát gạo, mấy bà làm như phải đã cơn ghiền. Lúc Tuyết Chà gội đầu xong, sấy tóc, chị Lan đè một bà xuống tẩm quất. Lột quần áo ra, nằm sấp. Chị Lan đổ qua mộtlượt dầu nóng, bắt đầu xoa, nắn, rồi giựt mấy đốt xương cụt kêu bật bật. Hết nằm sấp đến nằm ngữa đế mát-xa bụng. Phải công nhận trời còn cho chị Lan có sức khỏe. Trừ cô Mai Bắc chưa sinh nở,mấy bà, kể cả Tuyết Chà, bụng đã xếp lồng đèn, mở dày cộm nên phải có sức mới véo, giựt mạnh tay được...Đến màn bẻ cổ, bẻ tay, chân và bàn chân, chị Lan kéo tới đâu kêu bốp bốp tới đó. Bà nào cũng sướng tê lên, mặt mũi tiếc nuối...
Cũng như ở các tiệm gội đầu đầu khác, chuyện trong nhà ngoài phố cũng lọt qua cửa miệng mấy bà. Chị Lan, cô Phấn, tay thì làm mà miệng không ngừng đưa chuyện.
“Mấy cô biết không, nhà cô Nguyện mới mất con mèo tam thể, cổ khóc quá.”
“Ha, đáng đời. Thời buổi người ta cơm không có ăn, bả ỷ giàu nuôi mèo, cưng còn hơn con đẻ nữa.”
“Tôi biết rồi. Mất con mèo, chị ta kêu tụi bụi đời rao thưởng tìm mèo. Khẳm lắm.”
“Lại bọn bụi đời. Có mà tìm trong bụng tụi nó. Thành cức rồi.”
Một bà nói.
“Hôm qua bố ráp ngoài chợ cũ, tụi bán máy dính nhiều lắm nghe.”
“Biết sao hôn. Thằng trưởng công an phường này cà chớn, thâu tiền từng gian như lấy lương tháng, mà đến hồi kiểm tra, làm như chưa biết nhau.”
“Nó mập như con heo, có ngày đứt gân máu chết queo.”
“Thằng đó đoảng lắm. Coi, con Quê, con Chiến bụi đời ốm đói mà khi “khủng hoảng” nó cũng bắt mấy đứa đó đóng thuế, tội hông?”
“Ở đó mà tội, bà. Ốc tiêu đó. Mấy con bà chòi mà dữ dằn lắm, bà không biết đâu. Không biết thằng cha trưởng công an”đầu bạc” lợi dụng hay bị lợi dụng. Chúng khiếp lắm.”
“Mai bắc, mày nói phải đó. Không chừng mày cũng phải đóng “thuế thân” cho thằng cha.”
“Mấy bà giỏi hơn tui kiểu nào mà không chìa...ra, nói thử coi.”
Tuyết Chà phải hòa giải:
“Mấy bà nói chuyện người ta không đủ sao còn vướng nhau vô? Có duyên dữ. Bà Ngân, chuyện bà đến đâu rồi?”
“Ôi dào,mấy vụ bể hết trơn. Mấy thằng cán bộ “dỏm” lắm.”
“Chuyện tui nhờ bà không được sao?”
“Thì thủng thẳng...để điều tra kỷ coi...”
“Bà Tuyết không ngờ ngu. Ăn cháo lú sao đi mê thằng “nhóc” đó mà mê như bị bỏ bùa bỏ ngãi mới là lạ.”
“Đèn nhà ai nấy sáng nghe mấy bà. Tui mất bao công, tốn bao nhiêu của mới đưa được nó vô làm nhà hàng. Bây giờ ngon, nó phản, đau lắm.”
“Nó cũng là “cán” thôi. Ai biểu bà tin.”
“Tui nói rồi, tui thề..con này chưa thua ai bao giờ. Cũng qua chồng Tây, chồng Tàu, chồng Ấn, Liên Xô, Đông Đức cũng cặp, mà toàn tui bỏ người ta...Nó dám qua mặt ha. Con này mà không lấy cũng khấy cho hôi...để rồi mấy bà coi...”
“Ha, tao chống mắt coi đó mày, Tuyết.”
Bà Xinh, một góa phụ đang tuổi hồi xuân, vô băng này vì xí xọn và ham chơi. Có tiền, bà bỏ ra thuê thầy dạy nhảy, nên đêm, bao bàn,chi tiền, bà cũng được các “kép bắt địa” chiếu cố. Nghe chuyện, bà thở một hơi dài:
“Ôi, hơi đâu mà giành giựt nhau mấy trái chuối. Tao khoẻ re.”
“Má làm sao mà khoẻ, má?”
“Tao xài máy. Muốn xài lúc nào thì xài. Cười hả? Không có gì cười nghe bây. Đàn ông là của chung. Máy là của riêng.”
Chị Lan:
“Thiệt đó. Tui làm chứng này. Tui có thấy,”
“Nghe chưa. Con Tuyết, mày quên nó đi, mua một cái máy...tao chỉ cho. Con Mai Bắc này, quen tụi tàu biển nhờ tụi nó mua dùm, đồ ngoại tốt lắm.”
“Có máy thiệt không?”
Một bà hỏi. Mấy bà cười ngất.
“Sáng chế bà ơi. Làm gì có máy thiệt”.
Có vậy mà mất hết một buổi sáng. Khi chia tay, chị Lan nói:
“Mấy cô ơi, từ nay có đô, mấy cô đưa em đổi cho. Em có mối chợ lớn chung được giá lắm.”
Cứ đà này, sẽ còn nhiều nghề mới nữa xuất hiện trên con đường quốc tế này.
Tuyết giữ Mai Bắc lại. Đứa con gái của Tuyết Chà đi kêu cơm hàng về ăn chung với nhau. Sau đó họ ngủ nằm nghỉ. Tuyết Chà gác chân lên người Mai bắc. Một Nam một Bắc, nói chuyện với nhau sao mà hợp quá, họ như đã thân nhau từ muôn kiếp.
Mai Bắc con nhà nghèo, ở vùng thượng du Bắc Việt. Mười tuổi lưu lạc về thành phố tự nuôi thân. Không phải các em thiếu nhi choàng khăn đỏ mà con bé vẫn bị một “con cán” ăn tươi lúc mười một tuổi. Sau đó, càng được các “cán” thương hại, thân càng bị vùi dập hơn. Lúc lấy được miền Nam, Mai chẳn hai mươi tuổi, là “gái” đứng ở các bờ hồ làm “vạc ăn sương”. Sau đó, được một “cán” o bế, cho theo vô miền Nam, chỉ một thời gian, cô Mai”bờ hồ” đã là “Mai quậy” của Sài gòn giải phóng.
Chỉ mấy năm, Mai đã có một số vừa vốn liếng nhan sắc, vừa vốn liếng tiền bạc. Cô giao du với giới tàu biển, mà dân tàu biển đều là con cái của ông lớn. Một cánh cửa quan quyền mở ra trước mắt, Mai quen biết rất lớn. Rồi móc ngoặt mua bán hàng tàu, chạy mánh mun, đưa hàng từ Nam ra Bắc. Lâu nay Mai còn kiêm nghề đưa người trong Nam ra Hải Phòng, ở đây, cô đã liên lạc với một đường dây vượt biên bằng ghe, có công an đỡ đầu. Cô tâm sự với Tuyết Chà, muốn làm thiệt nhiều tiền, về vùng thượng du tìm cha mẹ ruột. Sau đó, cô hy vọng cặp được một người ngoại quốc, ra nước ngoài.
“Em nhảy có dỡ lắm không, Tuyết?”
“Dễ ẹc. Chị sẽ tập cho Mai. Dáng Mai nhảy đẹp lắm. Coi, người Mai như vầy lo gì không có người mê mệt. Mai có bơm không?”
“Em tự nhiên. Chị coi...”
Hai cô gái ôm nhau, sờ nắn, coi “của” của nhau để đánh giá trị nghề nghiệp.
“Em còn học chị nhiều lắm, chị Tuyết giúp Mai nhé.”
“Đắc co. Nhưng Mai hứa giúp chị một chuyện.”
Anh chàng nhạc sĩ Bắc kỳ được đưa ra, kể tỉ mỉ. Từ lúc quen nhau ra sao, lọt vào tròng nhau ra sao, Tuyết nói tuốt hết:
“Mình không muốn mất nó. Mai biết không, mình tức là hai vợ chồng nó mạnh ai nấy sống, coi như ly thân mà không chịu ly dị. Hổng hiểu sao, thời gian này nó không thường tới với mình nữa. Mình mua cho nó xe Honda, sắm cho nó đủ thứ...”
“Hơ, mình không ngờ bà dại vậy...tưởng bà khôn...Rồi sao? Mình làm gì giúp bà...”
“Nó thấy mình là nó lánh. Bà tìm cách cho mình gặp nó...”
“Được rồi, hứa.”
Họ đã hết gọi chị chị em em, đã coi vai vế bằng nhau, dù Tuyết Chà hơn Mai Bắc gần hai chục tuổi. Gần hai tiếng đồng hồ nằm bên nhau tâm sự, Mai Bắc học được của cô gái quốc tế này nhiều ngón nghề lắm. Hèn gì nhiều ông cán bộ đã “hủ hóa” vì gái Nam...Nghĩ cũng lạ, anh chàng nhạc sĩ trẻ trung kia, sao chưa lọt gọn vô lưới. Mai Bắc thắc mắc lắm nhưng không tiện hỏi, cô hứa sẽ tìm dịp làm quen anh chàng ta để tìm cách giúp bạn. Rồi cả hai chợp mắt ngủ lúc nào không hay.
Khoảng bốn giờ chiều, hai cô trở dậy trang điểm xong thì một số khách khứa đến. Cô Hồng, làm đầu thảo một nhóm dân “mánh” ở đường Tạ thu Thâu, Mạc thị Bưởi ghé qua. Bà Xinh tới chờ “dợt” một điệu nhảy. Cô Hoa, vợ một sỹ quan học tập, luôn luôn đóng vai “còn độc thân”, rồi rãi rác, một vài khách đàn ông ghé ngang. Vậy là họ họp nhau mấy nhóm, nhón ngồi tán gẫu, nói chuyện suông, nhóm binh xập xám. Chị Hồng cũng đã trở lại phục vụ, chờ sai đi mua quà vặt, thức uống và thuốc lá. Ở mục này tuy lai rai nhưng bạc cắc góp lại cũng thành bạc đồng rồi bạc trăm. Lại nữa, ông nào binh xập xám gặp hên, thắng lia lịa thì cô Tuyết cũng nói vào:
“Con Lan tới “hớt xâu” kìa.”
Chị Lang lanh lẹ lắm:
“Dạ có em. Trời ơi, anh Hai bữa nay hên quá.”
“Tui hổng ham hên. Hễ đỏ bạc là đen tình.”
Cô Hoa tức thì xáng lại:
“Hồi nào, đen hồi nào. Đỏ tươi nè.”
Anh Hai được gọi thở dài cả cây số đường trường:
“Hừ.....Em mà đỏ tươi hôm nay thì còn làm ăn gì được nữa, xui hơn thì có.”
Đánh đét một cái vào đùi thằng cha nham nhở, cô Hoa vùng vằng:
“Thằng cha này kỳ hén...Sao nghe con Mai Bắc nói anh hai thích ăn tiết canh...”
Đã đến nước này thì anh Hai đành trơ tráo:
“À, nếu Mai Bắc cho anh ăn tiết canh thì có bao giờ anh từ chối, phải vậy không em?”
“Thằng phải gió, nham nhở.”
Mai Bắc nhào tới. Vậy là bài rơi rớt lung tung, cô Hoa và cô Mai, vừa đùa vừa thật, bốc hốt mớ tiền của anh Hai bỏ vào cái...ví trong áo. Anh Hai đâu có vừa, cũng đưa tay chụp giựt lấy lại tiền, bên thò tay, bên đẩy, mấy tờ giấy bạc dộng sâu vào đâu trong cái ví... da mà anh hai móc hoài không lấy ra được tờ nào...
Một lúc sau, gió lặng, cây im, Tuyết Chà mới than thở:
“Anh Ba à, mấy bữa nay thằng khu vực muốn làm khó dễ em, cứ vài đêm là kiểm tra hộ khẩu...em mất ngủ, anh coi, ốm nhom nè...”
Tuyết Chà ưỡn cái cổ áo rộng ra, hai tay đặt lên eo, coi tướng đứng xốn con mắt quá. Giọng anh Ba lên tông một cách khác thường:
“Vậy hả? Để anh. Thằng “đầu bạc” vẫn chưa “xuống ngồi đất”, còn ngồi ghế?”
“Còn lâu. Ngồi ghế bọc nhung cà...Ở đó mà xuống đất...”
“Anh lưu ý trường hợp này...”
Tuyết Chà ngồi sát vào anh Ba:
“Công tác hoài, em hổng chịu đâu...Ở nhà em cô đơn lắm, anh biết không?”
“Bộ thằng kép nhí nó bỏ em rồi sao?”
“Kép hồi nào? Anh chỉ tưởng tượng. Bị em thích học đàn nên nhờ ảnh tới dạy. Học vài bản chơi thôi cho có với người ta vậy mà...anh cũng ghen...”
“Chớ sao. Nó mà lộn xộn là anh xuống lệnh...”
“Ý cha, anh đừng ác nhơn vậy chớ. Sao anh biểu em học đờn rồi đờn cho anh nghe...em học đờn cũng vì anh thôi...”
“Biết vậy, nhưng đôi thì thằng nhỏ không dạy đàn, mà học đàn tỳ bà ngược lại không chừng...”
“Anh cho em là hạng người nào, hả. Anh nói đi..Xí,”độc tài Đảng trị” cũng vừa vừa thôi, anh dám bỏ con sư tư Hà Đông của anh hông, hay anh sợ hai hàm răng mái hiên của bả nghiền nát anh ra... hứ, khi dễ người ta...”
Anh Ba là anh ba Tập, một bí danh lưu kỷ niệm thành tích Nam Kỳ tập kết ra Bắc của anh. Không nói ra, nhưng cách sống của anh đã nói dùm anh nhiều lắm. Năm 54, còn là một thanh niên, cha mẹ cho ăn học đàng hoàng lại không ham, ham đi đánh bi, đánh đáo, còn trò đánh “kăng”, căn cù u chịu, trận đòn nào cũng nứt đít, đâm ra hận cha hận mẹ, ghét anh chị em. Nghe bạn rủ rê, khăn gói lên đường tập kết ra Bắc. Vô tới thiên đàng cộng sản rồi mới té sấp té ngữa. Mấy chục năm, cay đắng nhục nhằn, ăn gai nếm mật, biết bị phỉnh cho ăn kẹo thì muộn mất rồi...thôi thì gió chiều nào theo chiều ấy, cứ cờ đỏ sao vàng mà phất. Nhờ vậy mà bao thằng tập kết, có được mấy đứa được tin dùng đâu. Ba Tập học có mỗi chữ “biết” là đủ sống. Mỗi năm mỗi cân nhắc, được lòng tin...cũng phải đổi lấy ân oán nhiều lắm. Một viên đạn đã sớt qua bên trán hắn, còn để lại vết thẹo khó coi...Cũng chẳng sao đâu, Ba Tập đã có tiền bạc dán vô, nên mặt mày vẫn thấy bảnh bao như thường. Mới mấy năm, ăn gạo uống nước miền Nam, anh đã nói quen lại tiếng Nam Kỳ ngọt xớt...Trận đánh tư sản vừa qua thật là một dịp may hiếm có trong đời...chỉ mới xơi cơm rơi cơm vãi dính ngoài mép chén, hắn đã nhà xe nghênh ngang... còn của chìm chôn dấu nữa....Con mụ vợ” hồ hỡi” với tiền bạc, còn hắn, bây giờ là lúc cả nước đang trên đà” chủ nghĩa xã hơi”, hắn cũng phải “xủ hôi”, cho bớt mùi cộng sản...Hắn dính như keo với em Tuyết cũng hơn năm rồi, nhưng tình “kín đáo” lắm. Con mụ vợ hắn, tuy quê mùa, nhưng Bắc kỳ, ăn nói da diết dấm dẳng nhức cái đầu, chịu không thấu...Nghe Tuyết Chà nhắc tới cái bàn nạo dừa hết thuốc chạy chữa của mụ vợ, hắn không vui...Người vợ do Đảng chọn lựa, tuổi đời tuổi Dảng đều hơn hắn...
“Em đừng nhắc chuyện gia đình anh chớ. Gạo đã nấu thành cơm lâu rồi...”
“Phải, cả một nồi cơm nguội...”
“Anh Ba Tập ơi, phụ thiếp làm chi...Thiếp như cơm nguội để khi đói lòng...há anh Ba, người ta còn có câu” câu cá cá chẳng ăn mồi, về nhà hỏi vợ giở nồi câu cơm”... phải không anh Ba? Cơm nguội có khi chan nước mắn hay anh với chút ruốc kho cũng ngon hết biết...”
Cô Hoa, tay chia bài lia lịa, thiện nghệ, miệng trêu chọc, cười mà không “lầm” một con bài nào. Sòng bài chơi tới lúc lên đèn thì dẹp. Ngày thường chỉ có thế thôi, gặp nhau, đấu láo, đánh bài, nghe chuyện tiếu lâm. Trời sinh ra cô Hoa có cái miệng có duyên, kể chuyện tiếu lâm thì chiến sĩ can trường như mấy anh Hai, anh Ba cứ há hốc mồm, và khi cười thì đúng là cười lăn chiêng đổ đèn...Mọi mục khác thường là chiều và tối cuối tuần, ăn nhậu chung, nhảy đầm chung, sau rốt mới là mục đi “ăn riêng”...
Lúc các anh ra về, chỉ còn mấy cô ở lại. Đồ nghề được lôi ra sửa sang lại nhan sắc. Sau đó họ kéo nhau đi ăn và để hóng gió, họ kéo nhau đi quán kem”Bố Già”.
Cả ngày ngồi trên căn lầu cửa đóng kín mít, thứ gió nhân tạo của quạt máy tuy có hơi mát nhưng vẫn ngột ngạt không thoải mái. Lúc này, mấy cô khoan khoái hít thở, gió từ mặt sông Saigon đưa lên mát rượi. Quán kem “Bố Già” giờ này đã không còn ghế ngồi. Ông cụ tướng tá phương phi, ngồi ngã người trên cái ghế dựa trông chừng khách. Cả một lề đường bày chật những bàn ghế nhỏ lúp xúp. Ánh đèn xaqnh mờ từ trong nhà chiếu ra, hắt hiu không soi rõ đồ vật. Ông già nhận ra khách quen gọi với vào bên trong. Một lát, một cái bàn xếp nhỏ được mang ra với mấy cái ghế nhỏ, kê tuốt phía xa. Tuyết Chà lựa chọn:
“Bữa nay không biết ăn kem gì đây? Kem trái dứa hay trái dừa, hay kem trái cây?”
“Tớ không ăn kem, uống nước trái dâu xay. Ai tuần này thiếu cà rem nước dừa thì kêu. Tớ đủ.”
Hoa khều khều Mai Bắc:
“Có con Tuyết Chà thiếu cà rem nước dừa, cho nó ăn. Tao uống ly cà phê sữa nóng cho tỉnh, lát tao lên nhà tắm một cái, thay quần áo đi gặp “thằng con” của tao. Nó mới trở lại hôm qua, ở dưới Cửu Long. Lão quản lý xếp tao “ca” 11 giờ. Mấy hôm nay “mấy con” đến đông, cũng phải “xếp hàng”, thủ tục “đầu tiên” gì gì cũng phải chịu xếp hàng như thường...”
“Tớ cũng đang muốn xếp hàng mà chưa xếp được đây!”
“Thôi bà, làm ơn xếp lại thôi, đừng xếp hàng. Bà ghê lắm, tài nghệ làm sao mà mấy thằng đồ ngoại dỏm “tàu biển” đứa nào cũng “xuống tàu” bà hết trơn...Không con nào tranh được mới tài giỏi!”
“Ha, tớ thách con nào “vô” lọt qua mặt con Mai Bắc này! Người sành điệu mới biết loại cà rem nước dừa nào hạng nhất, nghe chưa. Ý cha, ý cha...”
Mai Bắc đưa cao cả hai chân lên, đụng cái bàn gồng ghềnh, ly kem của Tuyết Chà đổ lăn kềnh. Một con vật gì đang ngọ ngọe dưới chân cô. Thằng Bò. Qủy quái thật. Nó làm cô hết hồn. Tuyết Chà vừa dựng ly kem vừa dồn đống khăn vô chỗ kem đổ trên bàn cho thấm nước.
“Cô Mai, cô Mai”
“Mày làm tao hết hồn. Cái gì vậy?”
Nó đưa cái tay lên. Xin xỏ gì nữa, Mai Bắc gắt:
“Mày làm phiền tao quá, Bò. Đi chỗ khác đi cho tao ngồi một chút. Đây không có cái gì cho mày ăn đâu.”
Bàn tay thằng Bò cứ đưa lên. Mai Bắc trố mắt nhìn, bàn tay nó nắm chặt lại.
“Gì nữa đây?”
“Cô cho tiền.”
“Xời ơi, khổ với mày. Thì đưa đây.”
Tuy nói vậy Mai Bắc cũng mở cái ví nhỏ xíu cho nó tiền. Thằng Bò xòe lá thư ra.
“Mấy anh đợi dưới bến, biểu cần lắm.”
Mai Bắc mở tờ giấy ra, soi rọi mãi mới đọc được hai chữ viết nghệch ngoạc: “Cần giấy”.
“Tớ phải đi đây. Chắc tàu “đột xuất”. Khỉ họ, giờ này tìm đâu ra con Lan biểu nó đi đổi đây.”
Tuyết Chà thản nhiên:
“Đừng quýnh. Gặp hỏi đi, cần nhiêu tới gặp mình. Mình cũng về liền đợi bà đây”.
Mai Bắc đứng dậy đi. Thằng Bò cũng rời chỗ bò theo. Mai Bắc đi xuống phía bờ sông. Ngày đầu tuần, mọi sinh hoạt uể oải thật, ngang qua khách sạn Cửu Long, cô gặp một ngoại kiều cô từng quen mặt, ông ta người Hung Ga Ry, đang đeo đuổi một cô vũ nữ ở vũ trường Rex. Hắn chào bằng tiếng Việt:
“Chào cô Mai”
Mai vui vẻ chào lại. Thằng Bò cũng nhổm nhổm người theo một kiểu chào của nó. Nó đeo sát chân Mai Bắc khi băng qua đường, con đường bờ sông này nổi tiếng xe chạy ẩu.
Lúc sang bên kia đường, Mai Bắc nhìn lại chẳng thấy thằng Bò đâu nữa. Cô lắc đầu, nhướng mắt tìm quanh, cô đã nhận ra mấy anh tàu biển đang đứng bên cạnh chiếc xe bán nước giải khát. Một lát thôi, cô đã nhận ra vô số hình dạng trong bóng tối đen mờ, đồ vật và người lố nhố. Xe nước mía, xe bán cóc ổi, hột vịt lộn...bắp nướng...Hít một hơi, mùi mực nướng thơm phức làm miệng cô ứa đầy nước miếng...Đây chỉ là ngày thường, thứ bẩy, chủ nhật người ta còn đông như hội, có cả cho thuê ghế ngồi sát bờ sông. Hàng bong bóng cho trẻ con, hàng nhậu cho người lớn. Người rao hàng hủ tíu mì gõ lóc cóc. Buổi chiều cuối tuần, cả chục xe kẹo kéo đổ về đây, quần áo của những người bán kẹo kéo sặc sỡ lôi cuốn đám đông bu quanh. Mỗi xe kẹo kéo có một máy nhạc, và chừng đó xe, chừng đó máy nhạc thi nhau kêu đến điếc con ráy.
Hôm nay bờ sông không đông lắm. Mai Bắc vừa bước tới phía mấy anh tàu biển đang đợi. Cô bị một anh đưa tay ôm chặt vào lòng. Cô để yên, anh bồ ruột của cô chớ ai đâu...
“Mai tàu đi sớm...”
“Sao anh bảo cuối tuần kia...”
“Thuyền trưởng muốn “đột xuất” vì sợ tuần tới có kiểm tra...”
“Buồn ghê!”
Cô nói như học thuộc lòng. Anh bồ ruột an ủi:
“Anh đi chừng một tháng thôi. Hy vọng lần này mua đủ cái “đơn” em điền. Bây giờ đi đổi cho tụi anh đi...”
“Có vậy thôi à?”
“Vậy sao được. Xong xuôi công việc, mình tới quán Bạch Ngọc. Anh đã đặt chỗ rồi, tối nay xem phim...phim ngoại của tụi anh chứ không phải ba cái phim cũ mèn đâu nghe...”
“Em có bạn nữa...”
“Được mà. Em muốn là trời muốn!”
Mấy tên chung tiền. Đúng lúc đó thằng Bò xuất hiện. Mai Bắc cúi xuống lận chặt gói tiền vào bụng nó. Mai Bắc thong dong tay không rời đám “tàu biển”. Thằng Bò theo bén gót.
Họ trở lại đi trên con đường Tự Do và dừng lại trước nhà Tuyết Chà. Cửa mở, Mai Bắc cúi xuống luồn tay vô bụng thằng Bò lấy gói tiền rồi đi vào trong. Còn lại một mình, thằng Bò ngồi xổm như con chó giữ cửa. Nó biết nó còn một công tác nữa là sẽ cất một cái gói trong bụng, bò xuống phía bờ sông với cô Mai Bắc để giao hàng. Mai Bắc rất hài lòng nghỉ ra được cái trò này, không ai biết, cái thằng nửa người nửa vật này lại là một cái túi cất dấu tiền bạc chuyển vận hết sức an toàn.
Thằng Bò chờ hơi lâu. Nó buồn miệng quá. Thấy một nhóm người ngoại quốc đi ngang, nó sủa lên gâu gâu. Một trong nhóm dừng lại là một người đàn bà. Nó nhận ra hơi lâu, vì ban đêm nó không thấy được mái tóc vàng của bà. Người đàn bà này đúng là người mấy tháng trước đã chụp rất nhiều hình nó.
Bà ta dừng lại, ngó thằng Bò bằng cặp mắt xót thương. Bà lấy trong ví ra một tờ giấy dúi vào tay nó và nói một câu tiếng Mỹ nó hoàn toàn không hiểu.
“Gâu”.
Nó sủa lại.
...
Tối hôm nay, thằng Bò từ nhà cô Tuyết Chà bò ra bờ sông, rồi từ bờ sông ngược lại, tính cũng bốn năm vòng. Khi theo bén gót cô Mai Bắc, khi nó phải bò một mình. Trong bụng nó có một cái túi của cô Mai Bắc nhét vô, lúc tiền đô, lúc tiền “vàng mã”, tiếng dân “thầy gòn” đặt tên cho tiền Việt Cộng, có lúc nó bò không muốn nổi vì cái túi mang trong bụng đựng toàn vàng lá. Nó mới được cô Mai Bắc tín nhiệm cho “chuyển” lần đầu nhưng nó làm cũng” nhuyễn” lắm!
Đâu có gì mà cô Mai Bắc lo lắng? Chuyện thằng Bò cứ lăng quăng bò tới rồi bò lui suốt mấy con đường khu Tự Do này, đã trở thành chuyện bình thường. Mà dù một buổi nào nó không còn bò lui bò tới thì cũng chẳng ai để tâm, có một câu hỏi trong lòng, nó còn sống hay đã chết! Thằng Bò thích thú vì được cô Mai Bắc tin cậy. Cuộc sống lề đường dạy nó biết nhiều hơn cô Mai Bắc tưởng. Nó nhởn nhơ, thong thả, ghé ngó cửa hàng này một chút, chọc ghẹo người đi đường. Nó bò theo một cặp trai gái đang ôm eo ếch nhau, cười nói,đi trên đường. Mấy cái mặt này lạ hoắc à, mấy bà mấy cô, cả mấy cậu mấy ông, hễ có “lui tới” trên mấy con đường này là nó thuộc nhẵn...cả giầy lẫn dép hết.
Đang bò chậm và nhẹ, thình lình nó đưa tay cào vào chân cô gái phía trước. Cô gái thét lên, xô chúi vào người con trai. Thằng Bò cười khà khà, vất mình tới trước bò đi nữa...Đằng xa, thấy cảnh đó, cô Mai Bắc cũng lắc đầu, tủm tỉm.
Việc làm nhẹ nhàng thôi, tối nay thằng Bò được tới hai lần tiền thưởng, chưa kể tờ giấy xanh của người đàn bà ngoại quốc tóc vàng cho nó, lúc nó ngồi xổm trước hiên nhà cô Tuyết.
“Mày nhớ giữ kín việc này, lần sau tao cho mày làm nữa.”
Nó gật đầu. Chia tay. Thằng Bò cảm thấy đói bụng. Từ trưa tới giờ nó chưa ăn gì. Tới góc đường có xe bánh mì của dì Sáu Ốm, nó nằm phục xuống, nghiêng đôi mắt ti hí vàng vọt cố trông thấy mấy ổ bánh mì vàng dòn, miệng đã ứa nước dãi.
“Bữa nay không cho nữa nghen mậy. Cho mày hoài quen thói.”
Nó vẫn kiên nhẫn chờ. Mấy tờ giấy bạc trong người nó như đang co lại. Làm sao nó dám lấy ra tiêu phung phí, dù mua ổ bánh mì ăn để nuôi thân.
“Có đi đi cho người ta buôn bán. Ha, ế gì mà ế dữ thần vậy nè trời. Ông thần đừng có ám một bữa có được không?”
“Ế thì cho đi. Để cũng vứt bỏ dì ơi!”
“Ở đó mà bỏ. Bỏ vô miệng chớ bỏ đâu. Tao một nách tám đứa con ở nhà nghe mày. Bán không được đem về ăn. Mày tưởng ngồi ở đây sướng lắm sao, đóng hụi chết ngày một...đó, mày coi...”
Mặt dì ốm đúng như cái bánh bao về chiều khi thấy cảnh sát khu vực đủng đỉnh đi tới.
“Giờ này chưa dẹp, bà?”
“Chú ơi, thông cảm giùm. Đầu tuần ế quá, còn cả xe nè, chú nhìn coi.”
“Mấy bà nói sao cũng được. Tui bị phiền vì hàng rong, xe bánh ở con đường này nhiều lắm rồi nghe. Cấp trên cho là tôi thiên vị...”
“Tội nghiệp mà chú. Chú làm phúc...Bị nghèo, con đông...”
“Bà nào cũng ca có một bài. Nhà nước đã có kế hoạch hóa gia đình, sao bà nào cũng con đông... Gặp hôm kiểm tra hốt về phường là tui chịu thua...”
Đưa chân, hắn đá nhẹ thằng Bò:
“Con mày, cấm mày theo chân ngoại quốc xin tiền nghe chưa. Chiến dịch tới là hốt hết bọn bụi đời đưa đi vùng kinh tế mới hết...để làm đẹp thành phố...”
Xưa như trái đất. Dọa hoài nào có ai sợ nữa. Không có bọn buôn bán lề đường, không có bọn bụi đời lấy gì chia chác đây. ĐM, hễ có ai thì làm tàng, còn không, gọi tới kêu lui, nhờ vã: ” Mày phải theo dõi mấy con làm “gái”, mấy thằng ma cô ma cạo rồi báo cáo nghe chưa...”. Làm đẹp thành phố đi rồi hốt cức mà ăn. Chì nói dóc. Thằng Bò rung rung cái chân teo tóp, chủi thầm trong bụng.
“Ý cha, quên đoảng...Cất cái này từ chiều, thấy chú qua về mấy lượt mà cứ quên hoài...”
Bà Sáu Ốm lôi trong cái ngăn ra bao thuốc lá ba số chưa khui. Cảnh sát khu vực lẹ tay đút vào túi.
“Làm mấy khúc bánh mì đem về đãi anh em trực ban, dì Sáu.”
“Có ngay”.
Tay dì Sáu Ốm cắt bánh, nhồi thịt, xịt nước tương nhanh như chớp. Thoáng cái đã đưa cho cảnh sát khu vực một gói. Hắn cầm lấy, không có một tiếng cám ơn. Trước khi đi, đá thằng Bò thêm một cái:
“Mày nhiều tiền đô lắm, giấu ở đâu mày?”
“Đây nè, chú”.
Thằng Bò lật ngữa người ra.
“Mẹ, mày muốn chết không?”
Trợn mắt, đưa cao chân lên, nhưng hắn không làm gì hết, bỏ đi. Dì Sáu thở một hơi dài:
“Ha,ăn thì ăn, dọa thì dọa. Hốt thì hốt. Ba cái đồ ác nhơn thất đức.”
Chuyện này thì thằng Bò biết quá. Lâu lâu xe cây đi một vòng, hốt ghế choán lề đường, hàng rong, xe trái cây, bánh mì, đem về phường một buổi tấp nập lắm. Rồi đóng phạt, sau đó chuộc xe, chuộc gióng gánh về tiếp tục buôn bán tiếp...Bà Mè bán cháo vịt nhiều hôm thê thảm lắm, gặp mấy ông trực ban cao hứng nhậu là đi một vòng. Gánh hàng này nạp một con vịt luộc, gánh kia gỏi gà, toàn lựa món ngon dễ bắt mồi. Rượu đã có mấy quán nhậu lúp xúp lề đường cung cấp...Bữa dì Mè khóc kể: “Vốn hết vô miệng mấy ổng. Bán cháo vịt mà con có đứa nào biết mùi miếng thịt vịt nó ngon ra sao đâu trời!”.
“Thấy hông, xin dì dì không cho, quân ác đức thì dì dâng tận tay nó.”
Coi dì Sáu Ốm khi không quơ con dao cắt bánh mì một vòng vào không khí coi như muốn giết ai. Rồi cũng hạ con dao xuống.
“Dì bán bánh mì còn đỡ “cúng”, vì mấy ổng ngán bánh mì rồi. Dì Mè bán cháo vịt, gia tài có hai con vịt, mấy ông nhậu là hớt nguyên một con, còn khóc chảy máu mắt nữa.”
Cù nhầy rồi cuối cùng dì Sáu ốm cũng cho nó một ổ bánh mì nhân đồ chua và chút xì dầu. Đi xin thì chỉ có vậy thôi, cắt thịt ai ra mà có. Nhưng nó thèm mấy miếng thịt xắc mỏng nhồi vào ruột bánh mì quá rồi...Chịu không thấu nó mới xì tiền ra:
“Có mười đồng, dì cho mấy lát thịt dì ơi!”
“Gớm chưa, ông có tiền mà ông dấu biến đi. Mười đồng mà có mà ăn cái dách...Xời, coi tiền rách bươm, mày nhét vô đâu vậy?”
“Có tiền là được rồi, dì sao bắt bẻ quá. Thiệt..”
“Sợ ông luôn!”
Thằng Bò chui vào một góc ngồi ăn cho hết miếng bánh mì. Xong rồi, còn phải có ly nước uống để dộng nó xuống nữa. Nó rời xe bánh mì bò tới cửa hàng Bô-đa. Quán hàng gì giờ này cũng “xệ” quá. Mấy anh phục vụ viên vừa dọn dẹp vừa ngáp. Một số ghế đã chồng lên bàn. May quá, nó nhìn thấy một vài bàn chưa dọn dẹp, có ly nước cô cậu nào uống nhắp, còn đầy ắp...Với những dứa khác thì dễ quá, chỉ cần thật nhanh chân chạy vào, làm một hơi rồi chạy ra, khoẻ re, nhưng với thằng Bò thì khó khăn lắm. Bàn cao quá, nó không với tới được, mà xin xỏ mấy cha này ít khi được. Cứ thử xem sao? Nó bò vào quán, chìa tay ra.
Cũng có thể hôm nay hên. Cái anh phục vụ viên gầy nhom, mắt lộ quần đen tướng tá ít dữ dằn nhất. Nó chìa tay. Một anh khác nạt:
“Đuổi thằng quái vật ra ngoài. Trông nó “tởm” quá.”
Nhưng người phục vụ viên gầy này lại đưa cho nó ly nước thừa. Nó làm một hơi muốn sặc rồi lanh lẹ bò ra ngoài ngay. Ở mấy chốn này, có một ông thiện hiếm hoi lắm, ông ác nhiều vô số kể. Như cái ông mập mập đang quay lưng ra, có lần khách cho nó, ông cũng giật lại đổ đi...Hầm lắm, mãi chưa nghĩ ra một cách trả thù.
Nó suýt tông người đàn bà điên đang vừa đi vừa cầm một cái que ngắn hua hua phía trước. Bữa nay ai cho bả cái quần đùi với cái áo mai ô xé rách trước ngực, lòi hai cái vú mướp chảy dài lòng thòng.
“Bà có mắt không vậy?”
Thằng Bò hỏi một tảng đá. Bà điên như không biết có thằng Bò có mặt dưới đất. Chân bà vẫn bươn bã bước.
“Tốt quá nè mà hông có sữa. Con bò đâu tốt mà sữa nhiều...nhiều thật...”
Chị ta nói một mình. Lâu lâu, có một một vài hình ảnh lướt qua một cái trong đầu chị. Con bò ở đâu vậy? Có cái thằng đang bò dưới đất kia. Không phải. Kinh tế mới. Đúng vậy không? Nó mù mịt lắm.
Để cho bà ta đi đi. Thằng Bò sang đường. Quán cà phê Phương hôm nay không được đông, cô chủ tên Phương, lấy tên mình đặt cho quán. Quán cũng mới khai trương đây thôi. Nghề của cô là đi kèm dạy tiếng Tây cho mấy cô làm “gái” Tây. Sứ quán Pháp còn lại mấy ông Tây xài hoang lắm. Nhưng chỉ “hoang” với gái thôi, bọn ăn mày đi theo chỉ mỏi chân mình, và mỏi tay mấy ổng, vì mấy ổng xua tay lia lịa.
Nó nghiêng mắt nhìn vô quán. Cũng còn vài ba cặp lai rai...Nó lắc đầu. Vô xin cũng uổng công thôi. Nó bò lên hiên nhà bên cạnh.
Nhà “quan cán” mới đây. Căn phố này chủ bỏ đi nước ngoài, cấp cho cán bộ ở. Nghe nói ông này dân tập kết, làm giám đốc giám xúi chi đây, bà con ở mấy căn hai bên ớn lắm. Sát bên là một tiệm thêu, giờ này cũng đóng cửa tắt đèn rồi...
Nó nghe tiếng giày lóc cóc rất vui tai. Thì ra Mai Bắc với anh kép dân “tàu biển” đang khoác tay nhau đi trên đường. Nó chờ cô Mai Bắc ngó nó một cái, nhưng không biết cô có biết nó ngồi đây không, mà đi ngang qua, cô làm như không hề thấy nó. Nó có vờ ho lên mấy tiếng, cổ cũng chẳng chú ý. Coi cổ đi, cứ sát vào người đàn ông làm như sợ mất hơi vậy...
Ăn no, uống đã, nó lười biếng ngồi một chỗ. Nó ngồi lâu lắm. Lạ thiệt, con đường Tự Do càng về khuya càng vắng vẻ, vậy mà hễ có một người ngoại quốc thì “gái” hiện ra từng bầy. Bọn con Chiến cũng “săn đuổi” ráo riết. Rất khuya nó thấy con Nết xuất hiện. Chắc chắn là từ một khách sạn nào ra thôi. Nó chăm chăm nhìn từng bước chân con Nết. Lúc con Nết đi ngang qua, nó hếch cái mũi lên ngửi. Có một mùi hương quen thuộc làm nó choáng váng! Cổ mặc váy ngắn, áo hở cổ rộng quá. Trời bỗng dưng nổi gió rào rào. Gió luồn qua cái ngực hở đó là cái chắc. Nó ghét luôn cả gió...Tin được không? Tin được không? Nó luồn tay véo “đồ vật” của nó một cái. Ha, đúng là có mà, đúng là khi cái bà Nết này đi ngang qua, nó buồn đái quá.
Con Nết đi đã xa, thằng Bò nhìn theo muốn lòi tròng. Con Nết chắc chắn có nhìn thấy nó. Rồi sao nữa? Chắc con Nết chẳng coi nó có “con số” gì đâu. Nhưng thằng Bò có. Nó há hốc mồm, không làm sao ngậm lại được. Nó kẹp chặt hai chân lại, có cái gì ướt nhèm nhẹp...chắc nó đái ra quần rồi...Nước mắt cũng chảy ra nữa. Sao vậy?
Nửa đêm, nó bò lên tượng Đức Mẹ. Bức tượng cao vậy, chẳng bao giờ Bà nhìn thấy mặt nó đâu. Lẩn quẩn dưới chân bức tượng thế này được rồi. Nó cũng biết cầu nguyện: “bà ơi, giúp con, che mắt đừng cho ai thấy con dấu tiền dưới đây. Con nghèo lắm, không dám ăn, con để dành...” Thường thường chỉ khấn đến đó thôi. Không dám ăn dám tiêu, nhưng để dành làm gì thì nó chưa biết. Có điều, mỗi lần nghĩ tới mấy gói tiền, nó cũng sướng mê người đi. Biết để dành, ăn tiêu tặn tiện, hắn không phải là súc vật rồi. Con chó con mèo có biết cất dấu tiền bạc đâu. Thấy không? Nó hỏi nó và những lúc đó môi nó đậu một nụ cười.
Thấy không? Đất và cỏ đang lót êm mình nó. Không êm ái bằng cái giường của con Nết. Nhưng nó cứ lăn lộn, vùng vẫy, rồi miệng nó tru lên...Kỳ quá, bình thường nó kêu “gâu” rất giống chó sủa, hôm nay tru thì tiếng nó the thé như mấy con mèo hoang ban đêm trên mái nhà....
Trên trời, những vì sao xúm xít lại với nhau, chớp chớp muốn soi, nhìn coi nó.
Tiệm cà phê Thái Sơn ra đời thật đúng lúc. Quán này đã được sửa chữa lâu lắm, bên trong trang trí như kiểu một cái hầm, sâu, quanh co, đèn đóm mờ mịt. Không nhảy đầm múa đôi gì hết. Cà phê là cà phê. Thêm âm nhạc chọn lọc. Chọn lọc phải là nhạc ngoại rồi. Một số nhạc tình “bất tử” và thời trang...nên như hủ mật kéo đàn kiến thanh niên bu đông nghẹt.
Hệ thống công an chìm nổi kín mít như buông lưới, vậy mà bọn phản động cứ tung tin thất thiệt như thường. Nhân dân, nhất là thanh niên máu còn tươi, dễ khích động nhất, phải có ma túy để “ru” chúng nó. Làm lơ mãi để nhạc vàng tự tác tung hoành hoài thì nhà nước quê. Phải bày ra chuyện để kéo lại. Vậy là có hầm cà phê Thái Sơn. Đèn mờ lắm, ánh sáng có luồng tím bầm, có luồng xám ngóet ma quái, phải bật cây diêm lên soi mới thấy mặt nhau. Lúc mới bước chân vào, như đứng trước đêm dày hay bị bịt mắt. Một lát, lờ mờ hiện ra những hình bóng kỳ dị như xuống tới cõi âm ty. Một lúc lâu quen dần thì cũng đi mò mẫn, theo ánh đèn Pin của phục vụ viên hướng dẫn. Dễ dầu gì mà có bàn trống trừ những lúc hên. Quán mở từ chiều tới đêm, lúc nào cũng đông như có “đại hội anh hùng”. Thời này chỉ lưa thưa họa hoằn mới có một việt kiều, cho nên đám việt kiều “dỏm” Huỳnh Thúc Kháng, Tạ Thu Thâu “làm chủ tình hình” các nhà hàng khiêu vũ và các điểm cà phê có nhạc thời trang, giá “chém”. Dân Huỳnh Thúc Kháng và Tạ Thu Thâu là dân buôn bán có, chạy mánh có, mánh mun nữa. Thời kỳ này ở Tân Sơn Nhất, thùng quà về không đủ kho chứa, nội tiền thuế lưu kho đóng cũng mệt nghỉ rồi. Hai con đường Tạ Thu Thâu và Huỳnh Thúc Kháng kín mít sạp thu và bán hàng ngoại. Mô đen kiểu “trời đất” gì cũng có bày bán ở đây hết. Chẳng bao lâu, hai con đường này không đủ sức chứa, tràn xuống khu Tân Định, xa hơn nữa Nguyễn Tri Phương...dân buôn sạp và dân chạy mánh trúng mối lớn, ăn xài không hơn việt kiều thì chớ, lẽ nào thua? Có người xài thì có người chứa! Quán cà phê như một cái dịch, quán cà phê mọc lên đủ chốn, đủ kiểu, ngoài các quán còn có cà phê biệt thự nữa. Các cán bộ chiếm nhà lớn, cho người thuê để mở quán, lại đứng ra bao che khi kiểm tra nên cả hai bên cùng lợi...Nhiều vậy mà không chỗ nào để ghế không, huống chi cái “hầm” đúng cách này...Vô đây rồi thì cái “xã hội chủ nghĩa” bên ngoài coi như không có, quên đi giây lát sự xót xa đày ải.
Còn một hạng “cao thủ” nữa là các đấng anh hùng môn phái “xì ke”. Trong ánh sáng mờ ảo như sương mù, nhạc êm dịu thánh thót, ngồi “phi” thì hết ý. Lơ mơ trong hơi thuốc, chờ thấm, tan để cơ thể không còn trọng lượng, và đầu óc cũng nhẹ tênh, bay bỗng tới toàn cảnh giới thần tiên khoái lạc.
Mai Bắc và chàng kép nghề tàu biển cũng đưa nhau vô đây. Phải rờ rẫm, đụng chạm bàn ghế, chân người, lát sau họ mới được hướng dẫn tới một bàn nhỏ trong góc sâu. Chàng sốt ruột chờ ly cà phê nên đưa chân quặp vào đùi nàng ngồi ghế sát cạnh.
“Sao anh bảo tới quán Bạch Ngọc lại vô đây?” Mai Bắc hỏi.
“Lát khuya mình mới tới đó. Giờ này bọn gái quỉ săn ngoại quốc còn ngồi đầy ở đó, ồn lắm. Với lại, khuya mới có mục của tụi mình...”
Mai Bắc quá rành rẽ những chuyện xẩy ra ở quán Bạch Ngọc cũng giả vờ ngây thơ:
“Mục gì vậy anh?” “Xem phim”.
“Xem phim mình vô rạp coi có phải rộng rãi hơn không? Anh, có phim “xích lại gần nhau chút nữa” nghe nói hay, sao mình không đi xem?”
“Xích lại gần nhau có gì khoái mà xem em! Ở quán ông Bảnh dxem phim hay lắm. Không cần phải xích, mà này...”
Mai Bắc la khẽ:
“Kỳ. Kỳ quá, người ta thấy!”
“Tối om, thấy ông ba mươi ấy...Này, lát nữa tới xem rồi biết. Thật trăm phần trăm...”
“Thôi, đủ rồi. Anh à...ghét quá. Bữa em lục ví thấy anh có cái hình con “ở truồng”, bộ anh...”
“Tầm bậy. Bọn anh đi tàu lênh đênh giữa biển, coi mấy cái hình đó cho đỡ nhớ em...đứa nào cũng có. Em không biết đó thôi, con này nó chụp cả mấy chục kiểu..nghe nói tụi tàu còn quay phim “con heo” nó đóng đem sang Hồng Kông...”
Nói xấu nhau là tính chung của đàn bà, Mai Bắc tức thì phun ra:
“Xì, ai mà không biết. Con này lúc đầu còn cao giá, giờ rẻ mạt. Nó tàn rồi. Em mà chụp loại hình này ăn đứt hết...”
“Cấm em. Anh thấy một tấm nào của em là anh giết chết em ngay. Đừng có đùa...”