- 6 - 6
Phóng tên lửa từ Vandenberg là quyết định rất thuận lợi đối với SpaceX. Địa điểm này gần ngay Los Angeles và có vài bệ phóng để lựa chọn. Tuy nhiên, SpaceX lại trở thành vị khách không được hoan nghênh. Lực lượng không quân chào đón vị khách mới một cách lạnh nhạt, và những người được giao nhiệm vụ quản lý bãi phóng cũng không hề có động thái hỗ trợ SpaceX. Lockheed và Boeing, hai hãng từng phóng các vệ tinh dọ thám trị giá tỉ đô cho quân đội từ Vandenberg, cũng không thèm đếm xỉa đến sự hiện diện của SpaceX - một phần vì SpaceX là hiện thân của mối đe dọa đối với việc kinh doanh, phần khác vì công ty khởi nghiệp này cứ lảng vảng gần kho hàng trước đây của họ. Khi SpaceX bắt đầu chuyển từ giai đoạn thử nghiệm đến phóng thật, họ được thông báo rằng phải “xếp hàng.” Họ đã phải chờ đợi hàng tháng trời để được phóng. “Tuy họ bảo rằng chúng tôi có thể phóng, nhưng rõ ràng là chúng tôi không thể,” Gwynne Shotwell nói.
Trong lúc tìm kiếm địa điểm mới, Shotwell và Hans Koenigsmann đã sử dụng phép chiếu Mercator [11] để dựng bản đổ thế giới lên bờ tường và nhận thấy một cái tên nằm trên đường xích đạo, nơi hành tinh xanh quay nhanh hơn và tiếp thêm đà phóng cho tên lửa. Cái tên đầu tiên bật ra ấy chính là đảo Kwajalein - hay Kwaj - hòn đảo lớn nhất thuộc quần đảo san hô nằm giữa Guam và Hawaii trên Thái Bình Dương, và là một phần của Cộng hòa Quần đảo Marshall. Chấm nhỏ này lọt vào mắt xanh của Shotwell vì quân đội Mỹ từng sử dụng nó làm khu thử nghiệm tên lửa trong nhiều thập kỷ. Shotwell tìm thấy tên một đại tá tại bãi phóng thử và gửi ông một e-mail; ba tuần sau đó, viên sĩ quan gọi lại và bảo rằng vui lòng cho phép SpaceX phóng tên lửa từ quần đảo. Tháng Sáu năm 2005, nhóm kỹ sư của SpaceX bắt đầu chất đầy trang thiết bị lên container để chuyển chúng đến Kwaj.
Quần đảo san hô Kwajalein được tạo thành từ khoảng 100 đảo lớn nhỏ. Nhiều đảo trong số này chỉ kéo dài chừng vài trăm mét và dài hơn bề rộng của chúng rất nhiều. “Từ trên không, chúng trông như những hạt cườm tuyệt đẹp đính trên một sợi dây,” Pete Worden, người từng ghé thăm đảo với tư cách cố vấn của Bộ Quốc phòng, cho biết. Đa số người dân trong khu vực đều sống trên dảo Ebeye, trong khi quân đội Mỹ chiếm đóng Kwajalein, hòn đảo cực nam và biến một phần thành thiên đường nhiệt đới, một phần thành sào huyệt bí mật của Tiến sĩ Evil. Trong nhiều năm, Mỹ đã rót các ICBM từ California vào Kwaj, và sử dụng hòn đảo này nhằm tiến hành các thử nghiệm vũ khí không gian trong suốt giai đoạn “Chiến tranh giữa các vì sao.” Họ nhắm tia laser vào Kwaj từ không gian trong một nỗ lực quan sát xem chúng có nhắm chính xác và đáp ứng đủ điều kiện để phóng ICBM trúng vào quần đảo hay không. Sự xuất hiện của quân đội đã kéo theo một dãy nhà kỳ quái, gồm các kiến trúc hình thang nặng nề, không cửa sổ, bằng bê-tông mà chỉ những kẻ tìm sống trong đất chết mới nghĩ ra nổi.
Để đến được Kwaj, các nhân viên SpaceX phải bay bằng chuyên cơ của Musk hoặc đáp các chuyến bay thương mại qua Hawaii. Nơi lưu trú chính trên Đảo Kwajalein là các căn hộ hai phòng ngủ trông giống ký túc xá hơn phòng khách sạn, cùng với các tủ quần áo và bàn làm việc kiểu quân đội. Nhóm kỹ sư phải vận chuyển mọi nguyên vật liệu cần thiết bằng máy bay của Musk, hoặc thường phải chở chúng đến bằng tàu từ Hawaii hoặc lục địa Mỹ. Mỗi ngày, đoàn SpaceX lại tập hợp hành trang và đón chuyến tàu 45 phút đến Omelek, một hòn đảo rộng chừng 3 hecta với hàng cọ và cây cối xanh mướt bao phủ được họ biến thành bãi phóng. Trong vòng vài tháng, nhóm người này đã dọn quang bờ bụi, đổ bê-tông để làm chắc bệ phóng, và hoán cải một chiếc xe moóc rộng gấp đôi cỡ thường thành văn phòng. Công việc nặng nhọc và diễn ra trong độ ẩm nhũn người, với ánh Mặt Trời gay gắt đủ sức đốt cháy da thịt dưới lớp áo phông. Cuối cùng, một số người thích qua đêm tại Omelek hơn là phải vượt sóng dữ trở về đảo chính. “Một số phòng làm việc còn được biến thành phòng ngủ với đầy đủ chăn nệm,” Hollman nói. “Sau đó, chúng tôi chuyển đến một chiếc tủ lạnh rất đẹp, một vỉ nướng loại tốt và nối cả vòi sen. Chúng tôi cố gắng biến nó thành ít nhất như là nơi cắm trại, còn khá hơn như là nơi để sống.”
Mặt Trời lên lúc 7 giờ sáng mỗi ngày, và đó là khi toàn đội SpaceX bắt tay vào làm việc. Một loạt cuộc họp đã diễn ra, trong đó mọi người liệt kê những việc cần làm và thảo luận giải pháp cho những vấn đề còn tồn đọng. Khi các khối kết cấu lớn được chở đến, công nhân phải đặt nằm thân tên lửa trong một nhà
chứa máy bay tự tạo và mất hàng giờ lắp ráp mọi bộ phận với nhau. “Lúc nào cũng có việc để làm,” Hollman cho biết. “Nếu vấn đề không nằm ở động cơ, thì hẳn các linh kiện điện tử hay phần mềm đang gặp vấn đề.” Đến 7 giờ tối, các kỹ sư sẽ tạm ngưng công việc. “Một hoặc hai người đến phiên nấu bữa tối, và họ sẽ nấu thịt bò với khoai tây và mì pasta,” Hollman nói. “Chúng tôi có một đống phim ảnh và một đầu DVD, còn một số người câu được rất nhiều cá ngoài vũng tàu đậu.” Đối với nhiều kỹ sư, đây quả là một trải nghiệm vừa khổ cực, vừa thần kỳ. “Tại Boeing, anh có thể sống rất tiện nghi, nhưng tại SpaceX thì không,” Walter Sims, một chuyên gia công nghệ SpaceX từng dành thời gian đề đạt chứng nhận lặn khi còn ở Kwaj, cho biết. “Mỗi người sống trên đảo đều là một ngôi sao chết tiệt, và họ luôn tổ chức các cuộc họp chuyên đề về tia X hoặc động cơ. Đây quả là một nơi tràn đầy sức sống.”
Các kỹ sư liên tục gặp trở ngại vì quyết định cấp hoặc không cấp vốn của Musk. Khi gọi về trụ sở, ai đó sẽ yêu cầu anh mua một chiếc máy giá 200 nghìn đô-la hoặc một bộ phận đắt tiền nào đó mà họ cho là thiết yếu đối với thành công của động cơ Falcon 1, và Musk sẽ từ chối đề nghị. Song, anh lại hoàn toàn thoải mái khi bỏ ra khoản tiền tương tự để trải một lớp phủ sáng loáng lên mặt sàn nhà máy chỉ để cho đẹp. Tại Omelek, các công nhân muốn mở một con đường nhỏ dài gần 200 mét từ nhà chứa máy bay đến bệ phóng để vận chuyển tên lửa dễ dàng hơn. Musk từ chối. Điều này đã buộc các kỹ sư phải vận chuyển tên lửa và kết cấu hỗ trợ có bánh xe của nó theo cách của người Ai Cập cổ đại. Họ trải một dãy ván gỗ ra rồi lăn quả tên lửa trên đấy, bằng cách nhấc mảnh ván gỗ ở cuối đặt lên đầu theo một chu kỳ liên tục.
Toàn bộ cảnh tượng này thật lố bịch. Một công ty tên lửa khởi nghiệp mắc kẹt giữa một nơi vô định nào đó và đang cố gắng lập nên một trong những kỳ tích khó khăn nhất mà nhân loại từng biết đến, và thú thực, chỉ một nhúm người trong đội Musk biết cách phóng tên lửa ra sao. Hết lần này đến lần khác, quả tên lửa lại được diễu hành đến bệ phóng và dựng đứng lên trong hai ngày, trong khi các lượt kiểm tra kỹ thuật và độ an toàn cứ bộc lộ thêm một loạt vấn đề mới. Các kỹ sư phải cố gắng làm việc với quả tên lửa lâu nhất có thể, trước khi đặt nó nằm ngang trở lại và hành quân về nhà chứa máy bay nhằm tránh bị không khí mặn làm hư hại. Các nhóm từng làm việc riêng rẽ trong nhiều tháng trước đó tại nhà máy SpaceX — phản lực, điện tử hàng không, phần mềm - giờ đây bị đẩy lên đảo cùng nhau và buộc phải trở thành một tổng thể đa ngành. Tất cả trở thành một bài tập về sự học hỏi và liên kết cao độ, diễn ra như một vở hài kịch đầy sai sót. “Nó giống như Gilligans Island [12] ngoại trừ những quả tên lửa.” Hollman nói.
Đến tháng Mười một năm 2005, khoảng sáu tháng sau khi họ đặt chân lên đảo lần đầu tiên, đội SpaceX cảm thấy đã sẵn sàng cho một cú phóng. Musk bay đến cùng Kimbal, em trai anh, tham gia vào đội SpaceX đang ở trong những cái trại trên Kawj. Ngày 26 tháng Mười một, một vài người thức dậy vào lúc 3 giờ sáng và nạp đầy ôxi lỏng vào tên lửa. Sau đó, họ rút xa khỏi đảo gần 5 km để an toàn, trong khi những người còn lại trong đội SpaceX quan sát hệ thống phóng từ phòng điều khiển cách đảo Kwaj hơn 40 km. Quân đội cũng cung cấp cho SpaceX một cửa phóng trong sáu-giờ. Ai cũng hy vọng được chứng kiến tầng đầu tiên của tên lửa rời mặt đất với vận tốc xấp xỉ 11 nghìn km/giờ, trước khi nhường chỗ cho tầng thứ hai cháy tiếp trong khí quyển và đạt vận tốc trên 27 nghìn km/giờ. Thế nhưng, khi kiểm tra lần cuối trước khi phóng, các kỹ sư đã phát hiện ra một vấn đề nghiêm trọng: Một chiếc van trên thùng chứa ôxi lỏng (LOX) không đóng lại được, và LOX sẽ sôi và thoát ra ngoài khí quyển với tốc độ 2.273 lít/giờ. SpaceX dốc sức khắc phục vấn đề, nhưng bị mất rất nhiều nhiên liệu phóng trước khi cửa sổ được đóng lại.
Với sứ mệnh dở dang, SpaceX đặt hàng thêm LOX chi viện chủ yếu từ Hawaii và chuẩn bị cho một nỗ lực khác vào giữa tháng Mười hai. Song, gió mạnh, các van bị lỗi và những sai sót khác cũng cản trở nỗ lực phóng này. Một tối thứ Bảy nọ, trước khi tiến hành một nỗ lực khác, SpaceX phát hiện thấy hệ thống phân phối năng lượng của tên lửa bắt đầu trục trặc và cần các tụ điện mới. Đến sáng Chủ nhật, tên lửa được hạ xuống và tách làm hai tầng để kỹ thuật viên trườn vào và tháo bỏ các bảng mạch điện. Ai đó đã phát hiện bên cung cấp linh kiện điện tử vẫn mở cửa vào Chủ nhật tại Minnesota, thế là một nhân viên SpaceX tức tốc bay đến đó để lấy vài tụ điện mới. Đến thứ Hai, anh ta đã có mặt tại California và kiểm tra các bộ phận tại trụ sở SpaceX nhằm đảm bảo chúng vượt qua hết các mục đánh giá đa dạng về độ nóng và độ rung, rồi bay về lại quần đảo. Trong chưa đến 80 giờ đồng hồ, các linh kiện điện tử đã hoạt động chính xác trở lại và được cài đặt cho tên lửa. Quyết định vụt bay đến Mỹ và vụt trở về đã cho thấy sự can trường đúng nghĩa của đội SpaceX 30 người khi đối diện với nghịch cảnh, đồng thời truyền cảm hứng cho mọi người trên đảo. Một nhóm phụ trách phóng tên lửa thông thường gồm 300 người cừ khôi trong ngành hàng không vũ trụ sẽ không bao giờ cố sửa chữa một tên lửa như thế bằng các chuyến bay. Nhưng chí khí, trí thông minh và tài xoay xở của đội SpaceX vẫn không thể bù đắp cho sự non kinh nghiệm của họ trong điều kiện khó khăn. Nhiều vấn đề khác đã lại nảy sinh và chặn đứng mọi ý định đưa tên lửa vào không gian.
Rốt cuộc, đến tận ngày 24 tháng Ba năm 2006, toàn bộ hệ thống mới thông suốt. Chiếc Falcon 1 đứng trên bệ phóng hình vuông và bắt lửa. Nó bay vút lên bầu trời, biến hòn đảo bên dưới thành một chấm xanh lá nhỏ giữa biển xanh muôn trùng. Trong phòng điều khiển, Musk mặc quần cộc, mang dép lê và áo phông, đi tới đi lui quan sát diễn biến. Sau đó chừng 25 giây, rõ ràng mọi thứ đang trở nên không ổn. Một ngọn lửa phụt ra trên động cơ Merlin, và cổ máy vốn đang lướt đi thẳng tắp và đúng lộ trình bỗng dưng xoay tròn và lao đầu xuống mặt đất một cách không thể kiểm soát. Falcon 1 đã kết thúc khi rơi thẳng xuống bãi phóng. Hầu hết các mảnh vỡ dạt vào rặng đá ngầm cách bệ phóng 76 mét, còn kiện hàng vệ tinh thì đâm xuyên qua mái xưởng máy của SpaceX và đáp lơ lửng sát mặt sàn. Một số kỹ sư đeo ống thở và bình khí nén đi thu hồi các mảnh vỡ, gom nhặt toàn bộ tàn dư của quả tên lửa trong hai thùng linh kiện lớn bằng chiếc tủ lạnh. “Đáng lưu ý rằng những công ty phóng tên lửa thành công cũng từng trải qua những khó khăn như thế,” Musk viết trong báo cáo rút kinh nghiệm. “Một người bạn của tôi đã viết thư nhắc nhở tôi rằng chỉ có 5/9 tên lửa Pegasus đầu tiên phóng thành công; với Ariane là 3/5; với Atlas là 9/20; với Soyuz là 9/21, còn Proton là 9/18. Sau khi lần đầu trực tiếp cảm nhận việc đưa nó lên quỹ đạo khó khăn thế nào, tôi rất kính phục những người vẫn kiên trì sản xuất ra các phương tiện trụ cột của hoạt động phóng tên lửa không gian ngày nay.” Musk khép lại bức thư khi viết, “SpaceX đang bước vào một hành trình dài, và bất chấp mọi điều xảy ra, chúng tôi sẽ hoàn thành công việc này.”
Musk và các giám đốc khác của SpaceX quy trách nhiệm vụ đâm va cho một kỹ thuật viên không được nêu tên. Họ nói rằng người này đã điều chỉnh gì đó trên quả tên lửa một ngày trước hôm phóng và không siết chặt khớp nối trên ống nhiên liệu đúng cách, khiến khớp này bị nứt vỡ. Phần khớp nghi vấn này là một bộ phận khá cơ bản - một đai ốc nhôm cỡ b thường dùng để nối hai ống với nhau. Kỹ thuật viên đó là Hollman. Sau vụ đâm va tên lửa, Hollman đã đáp máy bay đến Los Angeles để trực tiếp đối mặt với Musk. Anh đã làm việc không kể ngày đêm suốt hàng năm trời vì Falcon 1 và cảm thấy rất phẫn uất vì Musk đã lôi anh cùng cả nhóm ra trước công chúng. Hollman biết rõ anh đã vặn chặt đai ốc b đó đúng cách và các quan sát viên của NASA cũng theo dõi ngay cạnh anh để kiểm tra tiến trình. Khi Hollman lao vào trụ sở SpaceX với cơn giận ngập đầu, Mary Beth đã cố xoa dịu và ngăn anh gặp Musk. Nhưng Hollman vẫn cứ bước tới, và hai người đã có một trận to tiếng trong ô làm việc của Musk.
Sau khi toàn bộ các mảnh vỡ được phân tích, hóa ra đai ốc b đó gần như đã nứt sẵn do bị không khí mặn ở đảo Kwaj ăn mòn từ mấy tháng. “Quả tên lửa đúng là bị đóng muối hết một bên, và bạn phải cạo chúng ra,” Mueller giải thích. “Nhưng chúng tôi đã thử khởi động tĩnh từ ba ngày trước đó, và mọi thứ đều ổn.” SpaceX đã cố gắng giảm bớt 22,6 kg trọng lượng bằng cách dùng linh kiện bằng nhôm thay vì thép không gỉ. Thompson, cựu lính thủy đánh bộ, từng chứng kiến các bộ phận nhôm này hoạt động tốt trên những máy bay trực thăng đỗ trên hàng không mẫu hạm, và Mueller cũng trông thấy máy bay đỗ ngoài Mũi Canaveral (Florida) suốt 40 năm mà các đai ốc b bằng nhôm này vẫn trong tình trạng tốt. Nhiều năm sau, một số giám đốc SpaceX vẫn còn thấy đau xót trước cách Hollman và nhóm của anh bị đối xử. “Họ là những người xuất sắc nhất, và họ đã bị đổ lỗi để chúng tôi có thể ăn nói với cả thế giới,” Mueller tâm sự. “Thật tồi tệ. Sau này chúng tôi mới biết đó là chuyện không may [13].”
Sau vụ đâm va, mọi người đã uống rất nhiều tại một quán bar trên đảo chính. Musk muốn phóng lại trong sáu tháng tiếp theo, nhưng việc lắp ráp hoàn chỉnh một cỗ máy mới sẽ tốn rất nhiều công sức. SpaceX có sẵn vài mảnh thiết bị tại Segundo, nhưng hiển nhiên không phải một tên lửa sẵn sàng được phóng. Khi họ cạn chén, các kỹ sư thề rằng họ sẽ để ra phương pháp quy củ hơn trong lần tới và sẽ làm việc tốt hơn như một tập thể. Worden hy vọng nhóm kỹ sư sẽ nâng tầm cuộc chơi như thế. Ông đã quan sát họ từ Bộ Quốc phòng và rất quý nghị lực của những kỹ sư trẻ này, nhưng phương pháp của họ thì không. “Nó trông như được chế tạo bởi một lũ trẻ con chuyên làm phần mềm ở Thung lũng Silicon vậy,” Worden nhận xét. “Họ cứ thức trắng đêm rồi thử thứ này thứ kia. Tôi đã chứng kiến hàng trăm kiểu hoạt động như thế, và chúng khiến tôi thấy ngay rằng không hiệu quả.” Trước lần phóng đầu tiên, Worden đã cố gắng cảnh báo Musk, gửi thư cho anh và giám đốc của DARPA, đơn vị nghiên cứu của Bộ Quốc phòng, để làm rõ quan điểm của ông. “Phản ứng của Elon không tốt. Cậu ấy nói, ‘Anh thì biết gì? Anh chỉ là một nhà thiên văn thôi,’” Worden kể lại. Nhưng sau khi tên lửa nổ tung, Musk đã đề nghị Worden tiến hành điều tra về phía chính phủ. “Tôi rất tin cậy Elon về điều đó,” Worden chia sẻ.
Gần đúng một năm sau, SpaceX mới sẵn sàng phóng lần nữa. Ngày 15 tháng Ba năm 2007, buổi phóng thử nghiệm đã diễn ra thành công. Sau đó, đến ngày 21 tháng Ba, Falcon 1 cuối cùng cũng hoạt động như ý. Từ bệ phóng với những hàng cọ bao quanh, Falcon 1 đã bay vút lên và hướng tới không gian. Nó bay được khoảng hai phút, giữa lúc nhóm kỹ sư liên tục báo cáo rằng hệ thống vẫn “bình thường” - tức vẫn ổn. Sau khi bay được ba phút, tầng thứ nhất của tên lửa tách ra và rơi trở lại Trái Đất, còn động cơ Kestrel khởi động đúng như dự kiến và đưa tầng thứ hai vào quỹ đạo. Tiếng reo hò ngất ngây vang khắp phòng điều khiển. Tiếp theo, khi đến cột mốc bốn phút, phần phụ ở đầu tên lửa cũng tách ra như dự kiến. “Nó hoạt động chính xác như chúng tôi kỳ vọng,” Mueller cho biết. “Tôi ngồi cạnh Elon, nhìn anh và nói, ‘Chúng ta đã làm được.’ Chúng tôi ôm nhau và tin rằng nó sẽ đến được quỹ đạo. Rồi nó bắt đầu lảo đảo.” Trong hơn năm phút huy hoàng đầu tiên, các kỹ sư SpaceX cảm giác như họ đã làm tốt mọi thứ. Máy quay gắn trên boong Falcon 1 hướng xuống và cho thấy Trái Đất ngày càng nhỏ dần, tên lửa đang bay đúng lộ trình vào không gian. Nhưng rồi, cú chao mà Mueller nhận thấy chợt biến thành cú quăng quật, rồi cổ máy lịm dần, bắt đầu vỡ thành từng mảnh và sau đó nổ tung. Lần này, nhóm kỹ sư SpaceX đã nhanh chóng nhận ra sai sót. Khi tên lửa đang tiêu thụ chất nổ đẩy, phần chất nổ còn lại bắt đầu lan ra xung quanh và dội lại các cạnh hệt như bọt rượu xoay vòng trong ly. Chất nổ đấy bị văng ra đã kích tên lửa chao đảo, và đến một lúc nào đó, chúng đã văng đủ để khiến khe hở của động cơ lộ ra. Khi động cơ hút vào một luồng không khí mạnh, nó liên bốc cháy.
Thất bại này là một đòn chí mạng khác với các kỹ sư SpaceX. Một số người đã bỏ gần hai năm đi lại giữa California, Hawaii và Kwaj. Thời điểm SpaceX có thể phóng thử một lần nữa cũng vượt quá mục tiêu ban đầu của Musk đến bốn năm, và công ty cứ nhai nát vận may Internet của anh với tốc độ đáng lo ngại. Musk đã công khai thề rằng anh sẽ chứng kiến điều này đến phút cuối cùng, nhưng mọi người trong và ngoài công ty vẫn lén tính toán và nói rằng SpaceX nhiều khả năng chỉ đủ sức tiến hành thêm một lần phóng nữa - hoặc có thể là hai. Thậm chí khi tình trạng tài chính khiến Musk nản lòng, anh vẫn hiếm khi để lộ điều đó với nhân viên. “Elon đã làm được một điều tuyệt vời, đó là không trút gánh nặng lên mọi người vì những mỗi lo như thế,” Spikes nhận xét. “Anh ấy luôn chia sẻ về tầm quan trọng của sự tình gọn và thành công, nhưng không bao giờ nói rằng 'nếu chúng ta thất bại, chúng ta sẽ tiêu tùng.’ Anh ấy rất lạc quan.”
Thất bại dường như chẳng thể che lấp đi viễn cảnh của Musk về tương lai hay dấy lên mối hoài nghi về năng lực của anh. Giữa tình thế hỗn loạn, anh vẫn bay một chuyến đến quần đảo cùng Worden. Musk bắt đầu nghĩ cách hợp nhất các đảo thành một vùng đất rộng lớn. Anh đề nghị nên xây tường xuyên qua những eo biển nhỏ giữa các đảo, và nước có thể được bơm ra từ các hệ thống nhân tạo như tại Hà Lan. Worden, vốn nổi tiếng với những ý tưởng điên rồ, đã bị vẻ hiên ngang của Musk hấp dẫn. “Cậu ấy nghĩ đến điều vớ vẩn này theo cái cách thật tuyệt vời,” Worden nhận xét. “Kể từ đó, cậu ấy và tôi bắt đầu thảo luận về việc định cư trên Hỏa tinh. Và tôi thực sự có ấn tượng rằng đây là một anh chàng biết nghĩ lớn.”
Chú thích
[12] Bộ phim hài tình huống do Mỹ sản xuất vào thập niên 1960, kể về bảy hành khách đắm tàu dạt vào hoang đảo.
[13] Sau vụ tai nạn trên, Hollman đã rời bỏ công ty vào tháng 11 năm 2007, rồi quay lại một thời gian ngắn để huấn luyện nhân sự mới. Một số người tới phỏng vấn khi viết sách đã thú nhân( rag82 Hollman quan trọng với SpaceX đến mức họ sợ rằng công ty sẽ cháy thành tro bụi nếu không có anh.