Chương 14 .
Gấu Trèo Về Qua Núi[22]
Fiona sống trong ngôi nhà cha mẹ cô để lại, ở thành phố nơi cô và Grant từng đi học đại học. Đó là một ngôi nhà lớn có kiến trúc cửa sổ trồi ra ngoài, mà dưới con mắt của Grant, trông vừa có vẻ xa hoa lại vừa lôm côm, với những tấm thảm xộc xệch trên sàn nhà và những dấu trôn ly tách ăn sâu vào lớp véc ni trên mặt bàn. Mẹ cô là người Iceland - một phụ nữ mạnh mẽ có mái tóc trắng như bọt kem sữa và những quan điểm chính trị cực tả đầy căm phẫn. Cha cô là bác sĩ tim mạch nổi tiếng, rất được nể trọng ở bệnh viện, nhưng lại vui vẻ phục tùng ở nhà, nơi ông lắng nghe những tràng đả kích xa lạ với nụ cười lơ đãng. Đủ loại người, giàu cũng có mà nhếch nhác cũng có, tuôn ra những tràng đả kích này, đến rồi đi, tranh cãi, hội ý, đôi khi có cả giọng nước ngoài. Fiona có một chiếc xe riêng nho nhỏ và một chồng áo len cashmere, nhưng cô không tham gia mấy câu lạc bộ nữ sinh, và có lẽ cái hoạt động kể trên ở nhà cô chính là lý do.
Nói thế không có nghĩa là cô thèm quan tâm. Câu lạc bộ nữ sinh đối với cô chỉ là trò hề, cả chính trị cũng vậy, mặc dù cô thích mở bài “Bốn vị tướng nổi loạn” trên máy quay đĩa, và đôi khi cô còn bật bài “Quốc tế ca” rất to, nếu đang có vị khách nào khiến cô nghĩ là trò này sẽ làm người ta phát hoảng. Một anh chàng người nước ngoài, tóc quăn, trông rầu rĩ ảm đạm đang tán tỉnh cô - cô bảo anh ta có dòng máu Visigoth[23] - cả vài ba chàng thực tập sinh trẻ khả kính và vụng về nữa. Cô trêu chọc tất cả bọn họ, trêu cả Grant nữa. Cô giễu nhại lại mấy câu địa phương tỉnh lẻ của anh. Anh đã tưởng cô chỉ đang đùa tếu khi hỏi cưới anh, vào một ngày trời lạnh quang đãng bên bãi biển cảng Stanley. Cát ran rát trên da mặt và sóng mang đầy sỏi đá vỡ oà dưới chân họ.
“Anh nghĩ có hay không…” Fiona hát lên. “Anh nghĩ có hay không nếu chúng mình lấy nhau?”
Anh nhận lời đề nghị của cô, hét lên trả lời có. Anh muốn không bao giờ rời xa cô. Cô tràn đầy nhựa sống.
Ngay trước khi họ ra khỏi nhà, Fiona phát hiện ra vết bẩn lên sàn bếp. Vết bẩn từ đôi dép đi trong nhà rẻ tiền màu đen bà đã mang sớm hôm đó.
“Em tưởng nó không còn dây bẩn nhà như thế này nửa,” bà nói, giọng khó chịu và bối rối như thường lệ, rồi lau chùi vết bẩn màu xám trông như vết bút sáp dầu.
Bà tuyên bố sẽ không bao giờ phải làm cái việc này nữa, vì bà sẽ không mang đôi dép đó theo.
“Chắc em sẽ trưng diện suốt,” bà nói. “Hoặc ít ra cũng phải hơi đỏm dáng một chút. Kiểu như mình ở khách sạn vậy.”
Bà giặt miếng giẻ vừa dùng rồi treo lên giá phía trong cánh cửa dưới bồn rửa. Rồi bà choàng chiếc áo khoác trượt tuyết nâu vàng cổ lông thú bên ngoài áo len cổ lọ trắng và quần dài màu nâu vàng may vừa vặn. Fiona là một phụ nữ cao, vai hẹp, đã bảy mươi nhưng vẫn còn thẳng lưng và thon người, chân dài, bàn chân cũng dài, cổ tay cổ chân thanh mảnh và đôi tai nhỏ xíu, trông hơi ngộ nghĩnh. Tóc bà nhạc như lông tơ, Grant không nhận ra từ lúc nào nó đã chuyển từ màu vàng nhạt sang màu trắng, và bà vẫn để tóc xõa ngang vai, như mẹ mình hồi xưa. (Chính điều này đã từng khiến mẹ của Grant lo sợ, bà bà một bà góa tỉnh lẻ làm tiếp tân ở phòng mạch bác sĩ. Chính mái tóc dài của mẹ Fiona, hơn cả tình trạng của ngôi nhà, đã nói lên rõ ràng mọi điều mẹ Grant cần biết về thái độ và quan điểm chính trị của bà thông gia.)
Ngoài chuyện đó ra thì với vóc dáng đẹp và đôi mắt nhỏ màu xanh ngọc, Fiona hoàn toàn không giống mẹ mình. Miệng bà hơi méo, trông rõ hơn khi bà tô son đỏ - cái việc cuối cùng bà thường làm trước khi ra khỏi nhà. Ngày hôm nay trông bà có vẻ như là chính mình - thẳng thắn mà mơ hồ, đúng như bản chất của bà, ngọt ngào mà châm biếm.
Cách đây hơn một năm Grant bắt đầu nhận thấy rất nhiều mẩu giấy ghi chú màu vàng dán khắp nhà. Đây không hẳn là điều mới lạ. Bà vẫn thường ghi lại nhiều thứ - như nhan đề cuốn sách bà nghe nói đến trên đài hoặc những công việc mà bà muốn đảm bảo là mình sẽ làm trong ngày. Thậm chí cả thời khóa biểu buổi sáng của bà cũng được ghi lại, chi ly tới mức ông cảm thấy có gì đó vừa bí ẩn, vừa ấm lòng.
7:00 sáng Yoga.
7:30 - 7:45 răng mặt tóc.
7:45 - 8:15 bách bộ.
8:15 Grant và bữa sáng.
Những tờ ghi chú mới này lại khác hẳn. Dán lên ngăn kéo tủ trong bếp - Thìa dĩa, Khăn lau bát, Dao. Sao bà không chỉ việc mở ngăn kéo ra xem có cái gì bên trong nhỉ? Ông nhớ lại câu chuyện về lính Đức đi tuần tra biên giới với Tiệp thời chiến tranh. Một vài người Tiệp kể lại với ông là mỗi một con chó tuần tra đều đeo Bảng Hund (Chó). Tại sao người Tiệp hỏi, và người Đức trả lời, Vì đó là Hund.
Ông định kể cho Fiona chuyện đó, nhưng rồi lại nghĩ có lẽ tốt hơn hết là không nên kể. Họ luôn luôn thấy buồn cười vì cùng một chuyện, nhưng nhỡ lần này bà không cười thì sao?
Tình trạng ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Bà đi vào thành phố và gọi điện cho ông từ bốt điện thoại công cộng để hỏi đường lái xe về nhà. Bà đi vào rừng bằng con đường mòn băng qua cánh đồng rồi về nhà bằng lối đi dọc hàng rào - một đường vòng rất xa. Bà bảo bà tin là hàng rào luôn luôn dẫn dắt người ta đến một nơi nào đó.
Thật khó mà hiểu nổi. Bà nói chuyện về cái hàng rào cứ như thể nói đùa, vả lại bà vẫn có thể nhớ số điện thoại không khó khăn gì.
“Em nghĩ không có gì đáng lo ngại cả đâu,” bà bảo. “Chắc em chỉ hơi đãng trí thôi.”
Ông hỏi bà có đang uống thuốc ngủ không.
“Nếu có uống thì em cũng chẳng nhớ bà trả lời. Rồi bà xin lỗi vì câu trả lời có vẻ thiếu nghiêm túc như vậy.
“Em chắc là em không uống thuốc gì cả đâu. Có lẽ em nên uống. Như vitamin chẳng hạn.”
Vitamin cũng không giúp gì được. Nhiều khi bà thần người ngay ngưỡng cửa, cố nhớ xem mình định đi đâu. Bà quên bật bếp khi luộc lau hay quên châm nước vào máy pha cà phê. Bà hỏi Grant họ đã chuyển về đây ở từ hồi nào.
“Năm ngoái hay năm kia hả anh?”
Ông trả lời là cách đây mười hai năm.
Bà nói, “Sốc nhỉ.”
“Bà ấy lúc nào cũng kiêu như thế đấy,” Grant nói với bác sĩ. “Có một đận bà ấy để áo lông trong kho rồi quên mất. Hồi ấy chúng tôi thường di du lịch tới đâu đó ấm áp khi mùa đông đến. Rồi bà ấy bảo đấy là vô tình có mục đích, bà ấy bảo cảm giác như mình đang bỏ một tội lỗi lại phía sau. Chả bà có mấy người làm cho bà ấy cảm giác như có tội khi mặc áo lông thú.”
Mặc dù không thành công, ông cố gắng giải thích một điều gì đó - rằng những ngạc nhiên, những lời xin lỗi của Fiona trong toàn bộ chuyện này không hiểu sao có vẻ như là phép lịch sự thông thường chứ không giống cái cách bà thường che giấu những trò nghịch ngợm riêng tư. Như thể bà vừa vô tình bước vào một cuộc phiêu lưu bất ngờ. Hay đang chơi một trò chơi mà bà hy vọng ông sẽ bắt nhịp được. Họ luôn có trò chơi chung những giọng điệu ngớ ngẩn, những nhân vật họ tự sáng chế. Một vài giọng nói Fiona tự tạo ra, khi thì líu lo, khi thì nũng nịu (ông không thể kể cho bác sĩ nghe chuyện này), nhại giọng những nhân tình của ông giống đến kỳ lạ mặc dù bà chưa bao giờ gặp hay biết đến họ. “Đúng,” bác sĩ nói. “Lúc đầu có thể có những biểu hiện rời rạc. Chúng ta không biết, đúng không nào? Chúng ta thực sự không thể khẳng định cho đến khi chúng ta thấy rõ tiến trình suy nhược.”
Sau một thời gian, việc chẩn đoán xem nên gọi bệnh tình của bà là gì cũng chẳng còn ý nghĩa nữa. Fiona, dù lúc ấy đã không còn đi mua sắm một mình nữa, đã biến mất khỏi siêu thị trong khi Grant quay lưng lại. Một cảnh sát đã dắt bà về khi bà đi ra giữa lòng đường, cách siêu thị vài dãy phố. Cảnh sát hỏi tên, bà trả lời dễ dàng. Sau đó anh ta hỏi bà tên của thủ tướng nước nhà.
“Nếu anh không biết, anh bạn trẻ ạ, thì anh thực sự không nên làm một công việc có trách nhiệm quan trọng như thế này.”
Anh cảnh sát bật cười. Nhưng ngay sau đó bà đã sai lầm khi hỏi anh ta có thấy Boris và Natasha đâu không.
Đấy là hai con chó săn sói giống Nga mà vài năm trước bà đã nhận nuôi giùm người bạn và đã tận tụy chăm sóc trong suốt quãng đời còn lại của chúng. Việc bà nhận nuôi hai con chó có thể trùng hợp với việc bà phát hiện ra rằng mình hầu như không có khả năng có con. Do lý do gì đó liên quan đến ống dẫn trứng bị tắc nghẽn, hay bị xoắn - bây giờ Grant cũng chẳng nhớ nổi. Ông luôn tránh nghĩ đến tất cả những gì liên quan đến bộ máy sinh sản của phụ nữ. Hoặc cũng có thể chuyện đó xảy ra sau khi mẹ bà qua đời. Cẳng chân dài, bộ lông óng mượt như tơ, khuôn mặt hẹp, hiền lành và cứng rắn của lũ chó trong rất xứng với bà khi bà dẫn chúng đi dạo. Cũng thời gian đó, Grant đã kiếm được ngay việc làm đầu tiên ở trường đại học (tiền của bố vợ được ân cần đón nhận bất kể tai tiếng chính trị), và theo quan điểm của vài người, bản thân ông - được Fiona ngẫu hứng chọn làm chồng do tính khí bốc đồng lập dị của bà - đã được mách bảo đường đi nước bước, được chăm bẵm, và được thiên vị. Mặc dù may mắn làm sao, ông chẳng bao giờ hiểu ra điều ấy, cho mãi đến tận sau này.
Bà nói với ông, trong bữa tối, vào cái ngày bà đi lạc ở siêu thị, “Anh biết anh sẽ phải làm gì với em, đúng không? Anh sẽ phải gửi em vào cái chỗ ấy, Hồ Thủy Tiên phải không nhỉ?”
“Hồ Thảo Nguyên. Chúng ta chưa đến cái mức ấy,” Grant nói.
“Hồ Thủy Tiên, Hồ Qủy Điên,” bà nói, cứ như thế là họ đang ganh đua trong trò chơi chữ. “Hồ Đảo Điên. Đúng là Hồ Đảo Điên rồi.”
Ông ôm đầu, khuỷu tay tì trên bàn. Ông bảo nếu họ đã tính đến chuyện ấy, thì đó không nhất thiết phải là chuyện lâu dài. Chỉ là một dạng điều trị thử nghiệm. Một cách dưỡng bệnh.
Có một quy định là không ai được nhập viện vào tháng Mười hai. Mùa nghỉ lễ thường gây quá nhiều rắc rối tình cảm. Vì vậy sang tháng một họ mới đi, từ nhà đến đó mất hai mươi phút lái xe. Trước khi ra được đến xa lộ, họ phải đi theo con đường làng xuyên qua một đầm lầy nay đã hoàn toàn đông cứng. Những cây sồi đầm lầy và cây phong ngả bóng xuống nền tuyết trắng, trông như những chấn song.
Fiona thốt lên, “Ồ, nhớ rồi.”
Grant trả lời, “Anh cũng đang vừa nghĩ đến chuyện ấy đấy.”
“Chỉ khác là lần trước mình ở dưới ánh trăng,” bà nói.
Bà muốn nói về cái lần họ đi trượt tuyết vào đêm trăng rằm, trên nền tuyết trắng kẻ sọc đen, ở chính cái nơi mà người ta chỉ có thể đến vào giữa mùa đông này. Họ đã nghe thấy tiếng cành cây rạn nứt trong băng giá.
Nếu bà có thể nhớ chuyện ấy sống động và chính xác như vậy thì thực ra bà có vấn đề gì đáng kể không?
Ông đã cố gắng hết sức để không quay đầu lại và lái xe về nhà.
Có một quy định khác mà người giám sát đã giải thích với ông. Cư dân mới không được phép có người thân viếng trong ba mươi ngày đầu tiên. Phần lớn cần thời gian này để ổn định. Trước khi có quy định này, đã từng xảy ra nào là van vỉ, nào là khóc lóc, nào là giận dữ, thậm chí ngay cả với những người đã tự nguyện đến đây. Khoảng sau ngày thứ ba, thứ tư là họ bắt đầu than khóc và nài xin cho về nhà. Nhiều gia đình họ hàng dễ mủi lòng, cho xe đón người thân về nhà nhưng rồi họ cũng chả khá hơn được. Thế rồi nửa năm sau, hay đôi khi chỉ vài tuần sau, họ lại phải một lần nữa trải qua toàn bộ tình trạng rắc rối khổ sở này.
“Theo kinh nghiệm,” người giám sát cho biết, “chúng tôi thấy là nếu cứ để cho họ tự lập thì thông thường họ sẽ dần hài lòng như chim non trong tổ ấm. Chúng tôi thậm chí phải dụ dỗ họ ra xe buýt để đưa họ đi chơi phố. Về thăm nhà cũng vậy. Lúc đó có thể đưa họ về nhà chơi một, hai tiếng, hoàn toàn không có vấn đề gì - chính họ sẽ là người lo lắng đòi về cho kịp giờ ăn tối. Hồ Thảo Nguyên lúc ấy đã là nhà của họ. Tất nhiên, quy định này không áp dụng cho những ai ở tầng hai, chúng tôi không thể để cho họ đi đâu được. Quá khó khăn, vả lại đằng nào họ cũng có biết họ đang ở đâu đâu.”
“Vợ tôi sẽ không phải ở tầng hai đâu,” Grant nói.
“Vâng,” người giám sát trả lời, giọng ân cần. “Tôi chỉ muốn mọi thứ rõ ràng ngay từ đầu.”
Họ đã từng đến Hồ Thảo Nguyên vài lần cách đây mấy năm, thăm ông Farquar, ông nông dân già không vợ từng là hàng xóm của họ. Ông đã sống một mình trong căn nhà gạch thông thống gió, không sửa đổi gì từ những năm đầu thế kỷ, ngoài việc có thêm cái tủ lạnh và cái ti vi. Ông thường qua thăm Grant và Fiona, không báo trước nhưng cũng không quá thường xuyên. Ông thích bàn luận về những vụ việc ở địa phương, cũng như về những cuốn sách ông đang đọc - cuộc chiến tranh vùng Crimea, những chuyến thám hiểm Bắc Cực, hay lịch sử súng ống. Nhưng từ khi về Hồ Thảo Nguyên, ông chỉ toàn nói về những chuyện thường ngày ở đó, và họ phát hiện ra là, mặc dù hài lòng đấy, nhưng đối với ông, những chuyến viếng thăm của họ là gánh nặng xã giao. Fiona đặc biệt khó chịu với mùi nước tiểu và mùi thuốc tẩy vảng vất, bà ghét những bó hoa nhựa bày cho có trong những hốc tường dọc hành lang mờ tối, trần thấp lè tè.
Bây giờ tòa nhà đó đã biến mất, mặc dù nó mới chỉ được xây vào những năm năm mươi. Ngôi nhà của ông Farquar cũng mất dạng, thay vào đó, người ta xây một thứ gì lòe loẹt kiểu lâu đài rẻ tiền làm nhà nghỉ cuối tuần cho mấy người từ Toronto đến. Hồ Thảo Nguyên mới là một tòa nhà thoáng mát, mái vòm, không khí dễ chịu thoang thoảng mùi gỗ thông. Cây cảnh là cây thật, mọc sum suê từ những chậu sành khổng lồ.
Vậy mà không hiểu sao, suốt một tháng trời ròng rã không gặp bà, Grant cứ bất chợt nhận ra mình đang hình dung Fiona ở trong tòa nhà cũ. Đấy là cái tháng dài nhất trong đời ông, ông nghĩ nó còn dài hơn cả cái tháng ông phải đi với mẹ thăm bà con họ hàng ở hạt Lanark, khi ông mười ba tuổi, và dài hơn cả cái tháng mà Jacqui Adams đi nghỉ với gia đình cô và quãng thời gian họ vừa mới bắt đầu tằng tịu với nhau. Ông gọi điện thoại đến Hồ Thảo Nguyên mỗi ngày và hy vọng sẽ nói chuyện được với cô y tá tên Kristy. Cô có vẻ hơi buồn cười khi thấy ông kiên trì nhẫn nại như vậy, nhưng cô sẽ báo cáo đầy đủ hơn bất cứ y tá nào khác mà ông vớ phải.
Fiona bị cảm, nhưng chuyện đó không có gì lạ đối với những người mới đến.
“Cũng như trẻ con mới bắt đầu đi học,” Kristy nói. “Họ phải tiếp xúc với vô số loại vi trùng mới, và mất một dạo họ sẽ bị nhiễm đủ thứ bệnh.”
Rồi bà đỡ hơn. Bà thôi không uống kháng sinh nữa, và không còn hoang mang bỡ ngỡ như hồi mới đến. (Đây là lần đầu tiên Grant được báo cáo về chuyện thuốc kháng sinh và chuyện hoang mang bỡ ngỡ.) Bà ăn uống khá tốt và có vẻ như thích ngồi trong phòng đón nắng. Bà dường như cũng thích xem truyền hình.
Một trong những điều không thể chịu nổi ở Hồ Thảo Nguyên cũ là cái kiểu ti vi được bật lên khắp nơi, lấn át những dòng suy nghĩ và những cuộc chuyện trò, bất kể người ta ngồi ở đâu. Vài tù nhân (lúc đó ông và Fiona gọi họ như vậy, thay vì gọi là cư dân) nhướng mắt khó chịu, vài người chửi đổng lại với ti vi, nhưng phần lớn chỉ ngồi trơ ra đó và ngoan ngoãn chịu đựng cho bọn ti vi hiếp đáp. Ở tòa nhà mới, theo ông nhớ, ti vi được đặt ở một phòng khách riêng biệt, hoặc trong phòng ngủ. Người ta có thể lựa chọn có xem hay không.
Vậy nghĩa là Fiona đã chọn xem ti vi. Nhưng xem gì mới được cơ chứ?
Những năm tháng sống ở trong ngôi nhà này, ông và Fiona đã cùng xem ti vi với nhau khá nhiều. Họ đã rình mò theo dõi cuộc sống của tất tật những thú vật, bò sát, côn trùng hay sinh vật biển này mà máy quay có thể thò tới được, và họ đã dõi theo cốt truyện của hàng chục những tiểu thuyết tinh tế từ thế kỷ mười chín na ná nhau. Họ dần dà sa vào say mê một bộ phim hài Anh về cuộc sống một cửa hàng bách hóa và xem đi xem lại nhiều lần đến nỗi thuộc làu đối thoại trong phim. Họ tiếc thương sự ra đi của những diễn viên chết trong đời thực hay theo đuổi vai diễn khác, rồi họ đón mừng cùng những diễn viên đó quay lại khi nhân vật được hồi sinh. Họ đã mục kích tóc nhân vật quản lý cửa hàng đổi màu từ đen sang hoa râm và cuối cùng lại đen trở lại, những hậu cảnh rẻ tiền chả bao giờ thay đổi. Nhưng những đoạn phim hài này rồi cũng nhạt nhẽo dần; cuối cùng phim trường và bộ tóc đen nhất cũng phai màu, như thể cát bụi đường phố London đang len lỏi vào qua khe cửa thang máy, và có gì đó thật buồn trong chuyện này, dường như ảnh hưởng đến Grant và Fiona sâu sắc hơn tất cả những bi kịch trong chương trình Kiệt tác sân khấu, thế nên họ đã bỏ không xem nữa trước khi bộ phim kết thúc.
Fiona có thêm bạn mới, Kristy thông báo. Rõ ràng là bà ấy đang chui ra khỏi cái vỏ của mình.
Vỏ gì? Grant muốn hỏi lắm, nhưng rồi ông tự kiềm chế, ông không muốn đánh mất đi ân sủng Kristy ban cho.
Nếu có ai đó gọi điện, ông sẽ để cho máy nhận tin nhắn. Những người mà họ thỉnh thoảng giao tiếp không phải là láng giềng gần, mà là những người sống quanh vùng nông thôn, những người đã về hưu, như họ, và những người thường đi xa mà chẳng ai hay biết. Những năm đầu sống ở đây Grant và Fiona đã lưu lại suốt mùa đông. Mùa đông nông thôn và một trải nghiệm mới, và họ có vô số việc cần làm để sửa sang lại ngôi nhà. Thế rồi họ nảy ra ý tưởng là họ cũng nên đi du lịch khi còn sức, và họ đã đến Hy Lạp, Úc, Costa Ria. Mọi người sẽ nghĩ là hiện họ đang đi một chuyến du lịch như thế.
Ông trượt tuyết để tập thể dục nhưng không bao giờ đi đến tận đầm lầy. Ông cứ trượt hết vòng này đến vòng khác trên cánh đồng sau nhà trong lúc mặt trời xuống dần, để lại bầu trời màu hồng trùm lên vùng nông thôn dường như bao quanh bởi những sóng băng tuyết viền xanh. Ông đếm sơ vòng trượt quanh cánh đồng, rồi quay về căn nhà đang tối dần, bật ti vi xem tin tức trong khi chuẩn bị bữa tối. Ông bà vẫn thường cùng nhau chuẩn bị bữa tối. Người chuẩn bị đồ uống, người cơi lửa lò sưởi, họ nói chuyện về công việc của ông (ông đang viết một nghiên cứu về giống chó sói huyền thoại Norse và đặc biệt và về đại chó sói Fenris, kẻ nuốt chửng Odin trong ngày tận thế), hay về cuốn sách gì đó mà Fiona đang đọc và về những gì họ đã nghĩ trong một ngày gần gũi nhưng cũng riêng tư của họ. Đây là những khoảnh khắc thân mật sống động nhất của họ, dù dĩ nhiên, cũng có năm mười phút âu yếm ngọt ngào sau khi lên giường - thường không kết thúc bằng chuyện làm tình, nhưng cũng trấn an họ rằng chuyện tình dục chưa hẳn là đã hết.
Trong một giấc mơ Grant thấy mình chìa lá thư cho một đồng nghiệp mà ông từng coi là bạn. Đó là lá thư từ bạn cùng phòng của một cô gái mà đã lâu ông không nghĩ đến. Lời lẽ trong thư đầy vẻ đạo đức giả và thù địch, đe dọa theo kiểu than vãn rên rỉ - ông coi tác giả lá thư là dạng đồng tính tiềm ẩn. Còn cô gái kia vốn là bồ cũ ông đã chia tay đường hoàng, không có vẻ gì là cô ta sẽ làm lớn chuyện, chứ đừng nói đến chuyện cô ta định tự tử như lá thư kia có vẻ muốn kể với ông một cách tinh vi.
Tay đồng nghiệp này là típ người chồng người cha sẵn sàng vứt bỏ cà vạt mà hàng đêm bỏ nhà đi ngủ lê la dưới sàn nhà với tình nhân trẻ quyến rũ mê hồn, rồi đến cơ quan, lên lớp trong tình trạng bệ rạc, đầy mùi thuốc phiện và mùi nhang khói. Nhưng sao giờ đây hắn ta lại có vẻ rất bi quan về những trò vô nghĩa ấy, và Grant nhớ lại là thực tế hắn đã cưới một trong những cô gái ấy làm vợ, nhưng rồi cô vợ bắt đầu thích tổ chức những bữa tiệc tối, thích có con, như những bà vợ thông thường khác.
“Như tôi thì tôi chả cười đâu,” tay đồng nghiệp nói với Grant, nhưng ông không nghĩ là mình đang cười. “Và nếu tôi là anh thì tôi sẽ chuẩn bị tinh thần sẵn cho Fiona.”
Và thế là Grant đến tìm Fiona ở Hồ Thảo Nguyên - tòa nhà Hồ Thảo Nguyên cũ - nhưng rồi thế nào ông lại thấy mình đang ở giữa giảng đường. Mọi người đang ngồi chờ ông đến giảng bài. Ngồi ở hàng cuối cùng, cao nhất, là cả một đàn những cô gái trẻ, ánh mắt họ lạnh lùng, tất cả đều mặc váy màu đen, tất cả đều trông tang tóc, họ chăm chăm nhìn ông với ánh mắt cay đắng, rõ ràng là không ghi chép gì và chẳng quan tâm đến bất cứ điều gì ông đang nói.
Fiona ngồi ở hàng ghế đầu, dáng vẻ thanh thản. Cô đã biến giảng đường thành cái góc nhỏ như cô vẫn luôn tìm cho mình khi đi dự tiệc tùng - một chốn cao khô ráo, nơi cô có thể nhâm nhi ly rượu với nước khoáng, hút thuốc lá thực sự chỉ là thuốc lá[24] và kể chuyện hài hước về mấy con chó của cô. Cô đang bơi ngược dòng trào lưu, cùng với vài người như cô, họ xem những tuồng chèo đang diễn ra ở những góc khác, trong phòng ngủ và ngoài hiên tối, không gì hơn là những hài kịch trẻ con. Như thể sự trinh bạch mới là thời thượng, và tính kín đáo là phước lành.
“Ôi dào, vớ vẩn.” Fiona nhận xét. “Con gái tuổi ấy lúc này chả đi rêu rao cho cả làng biết họ sẽ tự vẫn như thế nào.”
Nhưng nhận xét của cô không đủ thuyết phục - thực ra, nó còn làm ông hơi ớn lạnh. Ông lo sợ rằng nhận xét của cô không đúng, rằng chuyện gì đó khủng khiếp đã xảy ra, và ông nhìn thấy cái mà cô không thể thấy - đó là cái vòng tròn đen càng ngày càng dày đặc, khép lại gần hơn nữa, siết lấy cổ họng ông, bao trùm phía trên giảng đường.
Ông cố lôi mình ra khỏi giấc mơ và bắt đầu phân loại những gì là có thật và những gì chỉ là mơ.
Đúng là có một lá thư thật, và đúng là có ai đó đã viết “ĐỒ CHUỘT CHÙ”[25] bằng sơn đen lên cửa văn phòng ông, và Fiona, khi nghe nói về chuyện có cô gái trẻ đã đau khổ vì mẹ ông, đúng là đã nói cái gì đó tương tự như bà đã nói trong giấc mơ của ông. Không có người đồng nghiệp, những người đàn bà mặc váy đen chưa bao giờ xuất hiện trong lớp của ông, và không có ai tự tử. Grant không bị bẽ mặt, thực tế là ông đã thoát thân một cách khá dễ dàng, khi ta nghĩ đến những chuyện lẽ ra đã có thực xảy ra chỉ vài năm sau đó. Nhưng rồi những lời đồn đại cũng lan ra. Người ta quay lưng lạnh nhạt thấy rõ. Họ gần như chẳng được ai mời đến dự lễ Giáng sinh và họ đã phải đón năm mới một mình. Grant trở nên rượu chè be bét, và rồi chả ai đòi hỏi, tự ông đã hứa sẽ đổi đời với Fiona - ơn Chúa, ông đã không mắc sai lầm là đi thú tội với bà.
Nỗi xấu hổ ông cảm thấy lúc đó là xấu hổ vì bị lừa, vì không nhận ra đang có sự thay đổi. Và không một cô bồ nào giúp ông nhận thức được chuyện này. Trước đây đã từng có gì đó thay đổi, khi đột nhiên có rất nhiều phụ nữ xung quanh chỉ đợi cho ông ve vãn - hoặc ít ra và ông cảm thấy như vậy - còn giờ thì đến sự thay đổi mới mẻ này, khi bọn họ nói với ông bà chuyện xảy ra hoàn toàn không phải là chủ tâm họ muốn vậy. Họ đã chiều ý ông vì họ bất lực, hoang mang, và toàn bộ chuyện này làm cho họ bị tổn thương hơn là thích thú. Kể cả khi họ chủ động thì cũng chỉ là vì tình thế bất lợi lúc ấy mà thôi.
Không một ai ghi nhận rằng cuộc đời của kẻ săn gái (nếu Grant buộc phải gọi mình bằng cái danh xưng ấy - dù số vụ chinh phục hay chuyện bê bối của ông chẳng bằng một nửa cái gã đàn ông đã quở trách ông tướng mơ) cũng có những hành động tử tế, rộng lượng và thậm chí đầy đức hy sinh đấy chứ. Có thể không phải ngay lúc đầu, nhưng ít ra là dần dà sau đó. Đã nhiều lần ông thỏa mãn lòng tự tôn của phụ nữ, bảo vệ tính yếu đuối của họ bằng cách ban phát thêm tình cảm, hoặc tỏ ra đam mê mạnh mẽ hơn tình cảm thực của ông. Ông đã làm tất cả những việc tốt ấy để rồi bây giờ bị buộc tội gây tổn thương, lợi dụng và phá hủy lòng tự trọng của họ. Lại cả tội lừa dối Fiona nữa chứ - tất nhiên là ông đã lừa dối bà - nhưng liệu có tốt hơn cho bà không nếu ông cư xử như những gã đàn ông khác là bỏ vợ?
Ông chưa bao giờ nghĩ đến chuyện gì như thế. Ông chưa bao giờ lơ là chuyện làm tình với Fiona mặc dù có bao nhiêu đòi hỏi rầy rà ở những nơi khác. Ông chưa bao giờ bỏ rơi bà lấy một đêm. Chưa bao giờ bịa chuyện tinh vi để đi nghỉ cuối tuần ở San Francisco hay cắm trại ở đảo Manitoulin. Ông ít khi uống rượu hút thuốc và tiếp tục cho ra những bài báo nghiên cứu, tham gia các ủy ban, thăng tiến trong sự nghiệp. Ông chưa bao giờ có ý định vứt bỏ công việc và hôn nhân của mình để về quê làm thợ mộc hay nuôi ong.
Thế nhưng rồi cái chuyện đại loại như thế cũng đã xảy ra. Grant buộc phải về hưu non với mức lương hưu thấp hơn. Ông bác sĩ tim mạch đã qua đời sau một thời gian sống cô đơn trong ngôi nhà lớn, hoang mang và khắc kỷ. Fiona được thừa hưởng cả ngôi nhà và nông trại nơi cha bà lớn lên - vùng nông thôn gần vịnh Georgia. Bà bỏ việc điều phối viên dịch vụ thiện nguyện ở bệnh viện (trong thế giới đời thường, như bà nói, đây là nơi người ta thực sự gặp những khó khăn không dính líu đến ma túy, tình dục hay tranh cãi học thuật). Cuộc sống mới rồi cũng phải bắt đầu.
Lúc này Boris và Natasha đã chết. Một con bị bệnh và chết trước - Grant không nhớ là con nào - rồi con kia ra đi, phần nào vì thương nhớ bạn.
Ông và Fiona tự sửa sang lại ngôi nhà. Họ trượt tuyết việt dã. Họ không thích giao tiếp mấy nhưng dần dà cũng kết bạn được với mấy người. Ông không còn bận bịu ve gái nữa. Không còn những ngón chân trần phụ nữ rờ rẫm ống quần ông dưới gầm bàn giữa tiệc tối. Không còn những bà vợ phóng đãng.
Vừa kịp lúc, Grant vỡ lẽ ra như vậy, khi cảm giác bất công đã vơi đi. Những người ủng hộ nữ quyền và cũng có thể chính cái cô gái u sầu ngốc nghếch ấy, hay đám người hèn nhát gọi là bạn ấy, đã đẩy ông ra đúng lúc. Ra khỏi lối sống mà quả là mang đến cho ông ngày càng nhiều rắc rối hơn là lợi lộc. Cái lối sống mà có thể cuối cùng sẽ khiến ông đánh mất Fiona.
Vào buổi sáng hôm quay lại Hồ Thảo Nguyên để thăm vợ lần đầu, Grant đã dậy rất sớm. Ông có cảm giác chộn rộn một cách nghiêm trang, giống như thời xa xưa, vào những buổi sáng hẹn hò lần đầu với một người tình mới. Cái cảm giác không chính xác là nhục dục. (Sau này, khi chuyện hẹn hò đã trở thành thường xuyên thì nhục dục là tất cả những gì còn sót lại.) Đó là cảm giác kỳ vọng khám phá, gần như là mở rộng tâm hồn. Và có cả sự rụt rè, tự ti, lo sợ.
Ông rời nhà từ quá sớm. Khách không được phép vào thăm trước hai giờ chiều. Ông không muốn ngồi ở bãi đậu xe chờ đợi, nên ông buộc phải quay xe đi theo hướng khác.
Trước đó có một đợt tuyết tan. Tuy vẫn còn nhiều tuyết, nhưng quang cảnh rực rỡ hồi đầu đông đã biến mất. Những đống tuyết lỗ chỗ dưới bầu trời xám trông như những đống rác trên cánh đồng.
Trong thị trấn gần Hồ Thảo Nguyên, ông tìm thấy một cửa hàng hoa và mua một bó hoa lớn. Ông chưa từng tặng hoa cho Fiona. Và cũng chưa bao giờ tặng hoa cho bất cứ người đàn bà nào khác. Ông đi vào tòa nhà, cảnh giác mình chẳng khác gì một người tình tuyệt vọng hay một người chồng tội lỗi trong tranh biếm họa.
“Ôi chao. Hoa thủy tiên đầu mùa,” Kristy nói. “Chắc là ông phải tốn cả gia tài để mua đây.” Cô đi trước ông, dọc theo hành lang, rồi bật đèn trong cái tủ tường, hay đại loại như tủ bếp, để tìm lọ hoa. Cô là một phụ nữ trẻ, phốp pháp, và dường như cô đã chẳng buồn chăm chút gì đến ngoại hình của mình nữa, trừ mái tóc. Đó là mái tóc vàng dày. Cả một bộ tóc đánh phồng lộng lẫy kiểu gái bưng rượu quầy bar hay vũ nữ thoát y, ngự trên một khuôn mặt và thân hình hoàn toàn không có gì đặc biệt.
“Ở đằng kia kìa,” cô nói, hất đầu ra hiệu về phía cuối hành lang. “Tên gắn ngay trên cửa.”
Đúng vậy, tên được ghi trên một bảng tên trang trí hình những con chim thanh tước. Ông đắn đo không biết có nên gõ cửa không, và rồi ông gõ, mở cửa và gọi tên bà.
Bà không có ở trong phòng. Cửa tủ đóng, giường gọn ghẽ. Không có gì trên bàn đầu giường ngoài hộp khăn giấy và một ly nước. Không có lấy một tấm hình hay bất cứ một bức tranh nào, không sách, không báo. Có lẽ ta phải cất những thứ ấy trong ngăn tủ.
Ông quay trở lại quầy y tá, hay bàn tiếp tân, hay là cái chỗ gì đó tương tự. Kristy hỏi, “Không có bà ấy à?” với vẻ ngạc nhiên mà ông cho là chỉ chiếu lệ.
Ông ngập ngừng, tay ôm bó hoa. Cô nói, “Thôi được rồi, được rồi - ông hãy tạm đặt bó hoa xuống đây cái đã.” Cô buông tuồng thở dài, như thể ông là đứa trẻ đến muộn trong ngày đầu tiên đi học, cô dẫn ông dọc một hành lang, bước vào vùng ánh sáng rọi xuống từ những ô cửa sổ vĩ đại trổ trong căn phòng lớn ở trung tâm, có trần cao như trần nhà thờ. Vài người ngồi dọc theo tường, trong những chiếc ghế bành thoải mái, những người khác ngồi quanh những chiếc bàn đặt giữa phòng trải thảm. Không có ai trông quá kinh khủng. Già thì có - vài người đã bất lực tới mức cần đến xe lăn - nhưng cũng tươm tất. Trước đây, khi ông và Fiona đến thăm Farquar, họ thường thấy những cảnh tượng đáng sợ. Những bà già cằm có râu, một người còn có con mắt lồi ra trông như quả mận thối. Miệng chảy dãi, đầu cổ lắc lư, lải nhải như điên. Còn bây giờ, trông có vẻ như người ta đã thanh lý hết tất cả những trường hợp tác hại nhất. Hoặc có thể người ta dùng thuốc, phẫu thuật, cũng có thể là có cách gì đó chữa dị dạng, chữa bệnh không kiềm chế nổi lời nói và cả bệnh không kiềm chế được những chức năng khác - những phương cách chưa hề có cách đây vài năm.
Tuy nhiên, cũng có một bà trông có vẻ rất chán nản đang ngồi bên cây đàn piano, gõ phím đàn bằng một ngón tay, mãi mà chẳng được một giai điệu nào cho ra hồn. Một bà khác, cặp mắt trống rỗng đăm đăm nhìn từ đằng sau bình cà phê và chồng ly nhựa, như thể đang buồn chán đến tận xương tủy. Nhưng bà ta hẳn phải là nhân viên - vì bà ta mặc quần màu xanh lá cây nhạt như của Kristy.
“Ông thấy không?” Kristy hạ thấp giọng. “Ông ra đó thăm hỏi bà ấy đi và cố đừng làm bà ấy sợ đấy nhé. Nhớ là bà ấy có thể không… Chẹp. Ông cứ đến gặp bà ấy đi.”
Ông thấy khuôn mặt nhìn nghiêng của Fiona, ngồi dán vào một trong mấy bàn chơi bài, nhưng không chơi. Mặt bà trông hơi sưng, lớp mỡ một bên má chảy xuống che khóe miệng của bà, theo một kiểu không giống như trước đây. Bà ngồi xem người đàn ông ngồi sát cạnh chơi. Ông ta nghiêng lá bài của mình để bà có thể nhìn thấy. Khi Grant đến gần, bà ngước lên nhìn ông. Tất cả bọn họ - tất cả những người đang chơi bài ở bàn đó - đều ngước mặt lên nhìn ông, vẻ khó chịu. Rồi tất cả tức thì đồng loạt cúi xuống bài của mình, như thể muốn xua đuổi người đến quấy nhiễu.
Nhưng Fiona đã mỉm cười, nụ cười lệch, bối rối, ranh mãnh và duyên dáng, bà đẩy lui ghế và đi vòng đến bên ông, rồi bà đặt ngón tay lên miệng mình ra dấu đừng làm ồn.
“Bài bridge,” bà thì thào. “Nghiêm túc chết người ấy. Họ điên cuồng vì trò này. Bà kéo ông về phía bàn nước, vừa đi vừa trò chuyện. “Tôi nhớ mình cũng như thế hồi học đại học. Tôi và mấy người bạn thường cùng tiết, tụ tập ở phòng sinh hoạt chung, hút thuốc và sát phạt nhau. Có một cô tên là Phoebe, tôi không nhớ những cô khác.”
“Phoebe Hart,” Grant nói. Ông hình dung một cô gái nhỏ thó, ngực hõm, mắt đen, có lẽ giờ đã chết. Quyện trong khói thuốc, Fiona, Phoebe và những cô khác, mê hoặc như phù thủy.
“Ông cũng biết cô ta à?” Fiona hỏi, mỉm cười về phía bà phục vụ có khuôn mặt lạnh như đá. “Tôi có thể mời ông uống nước không? Một tách trà nhé? Tôi e rằng cà phê ở đây chẳng ngon lành gì.”
Grant chả bao giờ uống trà.
Ông không thể nào ôm chầm lấy bà. Dù rất thân thuộc nhưng có gì đó trong giọng nói, trong nụ cười của bà, có gì đó trong cái cách bà dường như đang bảo vệ những người chơi bài, thậm chí bảo vệ cả bà phục vụ cà phê, để ông không phiền đến họ - cũng như bảo vệ cho ông khỏi sự khó chịu của họ - đã khiến ông không thể nào ôm chầm lấy bà.
“Anh có mang hoa tặng em,” ông nói. “Anh nghĩ hoa sẽ làm cho phòng em tươi tắn hơn. Anh đến phòng em, nhưng em không có ở đó.”
“Tất nhiên bà không rồi,” bà đáp lại. “Vì tôi đang ở đây mà.”
Grant nhận xét, “Em có bạn mới.” Ông hất đầu chỉ người đàn ông hồi nãy ngồi cạnh bà. Đúng lúc đó, ông kia ngước lên nhìn Fiona và bà quay lại, có thể bà vì câu nói của Grant, hay cũng có thể là vì bà cảm nhận được cái nhìn của người đàn ông nọ.
“Ông Aubrey ấy mà,” bà trả lời. “Rất buồn cười là hóa ra tôi đã biết ông ấy từ lâu lắm rồi. Ông ấy làm việc ở một cửa hàng. Cửa hàng đồ ngũ kim mà ông tôi hay đến mua. Ông ấy và tôi lúc nào cũng trêu đùa nhau nhưng ông ấy không bao giờ đủ can đảm để hẹn hò với tôi. Cho đến tận cuối tuần cuối cùng thì ông ấy mới dẫn tôi đi xem bóng chày. Nhưng khi trận bóng vừa kết thúc, ông tôi đã có mặt ngay để đón tôi về. Thời ấy tôi hay đến đó vào dịp nghỉ hè. Thăm ông bà tôi - họ sống ở nông trại.”
“Fiona. Anh biết ông bà em đã từng sống ở đâu. Đấy là nơi chúng ta sống. Đã từng sống.”
“Thật á?” bà nói, không hoàn toàn tập trung vào câu trả lời vì người đàn ông chơi bài đang nhìn bà, cái nhìn không phải là khẩn khoản mà là ra lệnh. Ông ta cũng tầm tuổi Grant, hay có thể hơn chút đỉnh. Mái tóc bạc trắng thô dày phủ xuống trán, da nhăn nheo nhưng nhợt nhạt, trắng vàng như cái găng tay trẻ con cũ kỹ và nhàu nhĩ. Khuôn mặt dài trang nghiêm và u sầu, ông ta có cái vẻ đẹp của một con ngựa già mạnh mẽ nhưng thoái chí. Nhưng chỉ cần liên quan đến Fiona là ông ta không thoái chí chút nào.
“Tôi phải quay lại đó thôi,” Fiona nói, khuôn mặt mới đầy đặn của bà thoáng ửng hồng. “Ông ấy nghĩ là ông ấy không thể chơi được nếu không có tôi ngồi đó. Thật là ngớ ngẩn, tôi giờ chả còn nhớ mấy về trò chơi này. Tôi sợ là ông phải thứ lỗi cho tôi thôi.”
“Thế ván bài đã sắp xong chưa?”
“Ồ, chắc là sắp. Nhưng cũng còn tùy. Nếu ông đến và lịch sự hỏi xin cái bà trông rầu rĩ kia thì bà ấy sẽ cho ông một ly trà đấy.”
“Anh ổn mà,” Grant nói.
“Vậy tôi sẽ để mình ông ở đây nhé, ông sẽ tự lo được mà phải không? Mọi thứ có vẻ lạ lẫm với ông lắm phải không, nhưng rồi ông sẽ ngạc nhiên khi thấy mình làm quen nhanh đến như thế nào. Ông sẽ biết tất cả mọi người, ai là ai. Chỉ có điều vài người như ở trên chín tầng mây, ông biết đấy - mình không thể bắt tất cả mọi người phải biết mình là ai.”
Bà quay lại và trườn vào chiếc ghế của mình rồi ghé tai Aubrey nói gì đó. Ngón tay gõ nhẹ lên mu bàn tay của ông ta.
Grant đi tìm Kristy và gặp cô ở hành lang. Cô đang đẩy chiếc xe chở những bình nước táo và nho ép.
“Đợi tôi một chút,” cô nói với ông, rồi thò đầu qua một khung cửa. “Có ai muốn uống nước táo không? Nước nho? Bánh bích quy?”
Ông đợi cô rót đầy hai ly nhựa mang vào phòng. Rồi cô quay lại, bỏ hai chiếc bánh quy củ dong vào những cái đĩa giấy.
“Thế nào?” cô hỏi. “Ông có hài lòng khi thấy bà ấy hòa nhập như vậy không?”
Grant hỏi, “Liệu bà ấy thậm chí có biết tôi là ai không?”
Ông không thể nào biết chắc chắn. Rất có thể là bà đang đùa bỡn ông. Cái đó không hẳn là không giống bà. Bà đã để lộ chân tướng khi giả vờ đóng kịch vào lúc cuối, nói chuyện với ông như thể bà cho ông là cư dân mới.
Biết đâu bà đang giả vờ. Biết đâu chuyện này chỉ là màn kịch.
Nhưng nếu thế thì sao bà lại không chạy theo ông và cười giễu ông khi bà đã xong trò nghịch ngợm? Chắc chắn là bà sẽ không quay lại đám chơi bài và giả bộ quên ông. Như thế thì quá ư là tàn nhẫn.
Kristy an ủi, “Chỉ bà ông đến không đúng lúc thôi. Họ đang say mê chơi bài.”
“Nhưng bà ấy có chơi đâu,” ông chống chế.
“Đành là thế, nhưng bạn của bà ấy đang chơi. Ông Aubrey.”
“Vậy chứ Aubrey là ai?”
“Thì là ông ấy. Aubrey. Bạn của vợ ông. Ông có muốn uống nước trái cây không?”
Grant lắc đầu.
“Ôi, ông nghe này,” Kristy nói. “Ở đây vẫn thường có kiểu gắn bó như thế. Tình trạng này sẽ kéo dài một thời gian đấy. Kiểu như bạn thân vậy. Nhưng chỉ tạm thời thôi.”
“Cô muốn nói là bà ấy thực sự rất có thể không biết tôi là ai?”
“Rất có thể. Rất có thể ngày hôm nay bà ấy không biết. Còn ngày mai thì như thế nào - chúng ta chẳng thể nào biết được, đúng không nào? Tình trạng này sẽ thay đổi tới lui hoài và chúng ta chẳng làm gì được. Sau một thời gian thăm viếng thường xuyên, ông sẽ thấy đây là cái điều không tránh khỏi. Ông sẽ quên dần và sẽ không coi chuyện này là trầm trọng nữa. Hãy tập làm quen dần, từng ngày một.”
Từng ngày một. Nhưng trên thực tế tình trạng này không thay đổi tới lui hoài và ông không thể nào làm quen được với nó. Dường như Fiona mới chính là người làm quen dần với ông, với một người khách dai dẳng và quan tâm đặc biệt đến bà. Hay thậm chí là một người hay quấy rầy, mà theo nguyên tắc lịch sự của bà, không nên để họ biết họ là kẻ quấy rầy. Bà đối xử với ông bằng một lòng tốt hời hợt theo kiểu xã giao và chính cách cư xử này đã khiến ông không cách nào hỏi được một điều rõ ràng nhất và cần thiết nhất. Ông không thể nào đòi bà phải rạch ròi là bà có nhớ ông, người chồng của bà đã gần năm chục năm nay. Ông có cảm tưởng là bà sẽ xấu hổ nếu ông hỏi như vậy - không phải xấu hổ cho bà mà là xấu hổ cho ông. Bà sẽ dao động mà cười phá lên, sẽ làm ông mất mặt bởi chính phép lịch sự và tình trạng bối rối của bà, rồi bằng cách nào đó, bà sẽ vẫn không trả lời là có hay không. Hoặc bà sẽ chọn một trong hai câu trả lời nhưng với cái cách sẽ không thỏa mãn ông tẹo nào.
Kristy là cô y tá duy nhất mà ông có thể trò chuyện. Vài y tá khác coi toàn bộ chuyện này như một tấn trò cười. Một gã y tá đểu giả đã cười vào mặt ông. “Lão Aubrey với bà Fiona ấy á? Đúng là mê nhau như điếu đổ nhỉ?”
Kristy cho biết là ông Aubrey trước đây làm đại lý cho một công ty chuyên bán thuốc diệt cỏ - “và tất cả những thứ đại loại như vậy” - cho nông dân.
“Ông ấy đã từng là một người đàng hoàng,” cô nói, Grant không hiểu ý cô muốn nói Aubrey là một người trung thực, rộng lượng và tốt bụng với mọi người, hay ông ta là một người biết ăn nói, ăn mặc sang trọng và đi xe xịn. Có lẽ là cả hai.
Thế rồi khi ông ấy còn chưa già và thậm chí chưa về hưu - cô kể - ông ấy đã bị bệnh gì đó dị thường.
“Thường thì bà vợ chăm lo cho ông ấy. Bà ấy chăm sóc ngay tại gia. Bà ấy chỉ gửi ông chồng vào đây tạm thời trong khi tranh thủ đi nghỉ dưỡng sức. Chị bà ấy muốn bà ấy đi Florida. Ông thấy đấy, bà ấy đã khổ sở vô cùng, ai mà ngờ được một người đàn ông như thế… Trong lúc họ đi nghỉ mát ở đâu đó, ông ấy đã bị con gì đó như côn trùng cắn và bị sốt cao kinh khủng. Cơn sốt đã đẩy ông ấy vào tình trạng hôn mê và bây giờ ra nông nỗi này.”
Ông hỏi cô về chuyện tình cảm giữa các cư dân. Họ có bao giờ đi quá xa không? Bây giờ ông đã có thể giả giọng quan tâm thích thú với hy vọng nó sẽ giúp ông tránh phải nghe những bài lên lớp của cô.
“Còn tùy ý ông muốn nói gì cô trả lời. Cô cắm cúi viết vào sổ ghi chép của mình trong lúc suy nghĩ nên trả lời ông như thế nào. Khi viết xong, cô ngước lên nhìn ông và mỉm cười thẳng thắn.
“Chuyện phiền phức chúng tôi gặp ở đây, kể cũng buồn cười, lại thường xảy ra với những cư dân vốn hoàn toàn chẳng ưa gì nhau. Có lẽ họ còn chẳng biết gì về nhau ngoài phạm vi cần biết, tỷ như người kia bà đàn ông hay đàn bà? Người ta thường cứ đinh ninh là mấy ông sẽ muốn mò vào giường mấy bà, nhưng ông không biết đấy thôi, phải đến một nửa số trường hợp là hoàn toàn ngược lại. Các bà lại là người theo riết các ông. Tôi đồ là họ vẫn chưa kiệt hết sức.”
Rồi cô không mỉm cười nữa, như thể cô sợ mình đã nói quá nhiều, hoặc lời lẽ như vậy và hơi nhẫn tâm.
“Ông đừng hiểu nhầm tôi nhé,” cô phân bua. “Tôi không có ý nói bà Fiona như vậy đâu. Bà Fiona là một quý bà.”
Thế còn ông Aubrey thì sao? Grant muốn hỏi. Nhưng rồi ông sực nhớ ra là ông Aubrey phải ngồi xe lăn.
“Bà ấy thực sự là một quý bà Kristy nói với giọng cương quyết và khẳng định tới mức Grant lại sinh nghi. Ông hình dung ra cảnh tượng Fiona mặc chiếc váy ngủ dài có gấu viền ruy băng đục lỗ màu xanh da trời, đùa cợt vén chăn chui vào giường lão già kia.
“Ừm, đôi khi tôi tự hỏi…” Ông ngập ngừng.
Kristy hỏi, giọng gay gắt. “Ông tự hỏi cái gì?” “Tôi tự hỏi liệu bà ấy có đang đóng kịch với tôi chăng.”
“Đang làm gì cơ?” Kristy hỏi.
Phần lớn những buổi chiều, cặp bài trùng này hay cùng ngồi ở bàn chơi bài. Aubrey có đôi bàn tay to, ngón tay thô dày. Ông ta chật vật lắm mới sắp xếp được những lá bài. Fiona xáo và chia bài cho ông, đôi khi bà nhanh nhẹn chộp lá bài và sửa lại ngay ngắn khi thấy nó sắp tuột khỏi tay ông. Từ bên kia phòng, Grant quan sát những cử động nhanh như tên bắn của bà và lắng nghe những câu vội vã cười xin lỗi. Ông có thể nhìn thấy cái điệu bộ Aubrey cau mày như của một ông chồng khi lọn tóc của bà chạm vào má ông ta. Aubrey thích làm bộ như phớt lờ bà, miễn là bà quanh quẩn đâu đó gần mình.
Nhưng bà chỉ cần mỉm cười chào Grant, bà chỉ cần đẩy ghế đứng lên mời ông uống trà - chứng tỏ bà chấp nhận chuyện ông có mặt ở đây và rất có thể bà cảm thấy hơi có trách nhiệm đối với ông - tức thì nét mặt Aubrey sẽ lo u sầu. Ông ta để mặc cho những lá bài tuột khỏi tay mình rơi xuống sàn nhà, làm hỏng ván chơi.
Và thế là Fiona lại phải bận rộn chỉnh đốn mọi thứ.
Nếu không ngồi ở bàn chơi bài thì họ đi bách bộ dọc hành lang, Aubrey một tay vịn lan can, còn tay kia bám chặt lấy cánh tay hoặc bả vai Fiona. Y tá xem việc này như một phép mầu kỳ diệu, cái cách bà thuyết phục ông ta không dùng xe lăn. Nhưng nếu phải đi xa hơn - tới nhà kính ở đầu này hoặc đến phòng xem ti vi ở đầu kia tòa nhà - thì họ cần đến xe lăn.
Truyền hình dường như lúc nào cũng chiếu kênh thể thao và Aubrey xem bất cứ loại thể thao nào, nhưng có lẽ ông ta thích xem gôn nhất. Grant sẵn sàng xem cùng với họ. Ông sẽ ngồi cách đó vài ghế. Trên màn hình lớn, một nhóm nhỏ khán giả và bình luận viên theo chân những người chơi gôn, băng qua sân cỏ bình yên xanh rì, và vào những lúc thích hợp sẽ nổ một tràng pháo tay lịch sự. Nhưng sự yên lặng sẽ ngự trị ở mọi nơi khi người chơi vung gậy và quả bóng bắt đầu hành trình cô đơn đã định xuyên qua trời. Aubrey, Fiona, Grant và có thể có cả những người khác ngồi đó, nín thở, và rồi Aubrey sẽ là người bật ra trước, bày tỏ sự hài bòng hoặc thất vọng. Và chỉ một khoảnh khắc sau, Fiona sẽ đồng tình phụ họa theo.
Nhưng ở nhà kính thì sẽ không có kiểu yên lặng đó. Cặp đôi nọ sẽ tìm một chỗ nào đó giữa đám cây rậm rạp nhất giống cây vùng nhiệt đới - nếu thích thì cũng có thể gọi đó là một cái phòng the - và Grant chỉ vừa đủ kiềm chế để không xâm phạm. Hòa lẫn trong tiếng lá xào xạc, tiếng nước bắn là tiếng cười và giọng nói khe khẽ của Fiona.
Và rồi có tiếng cười khúc khích. Ai trong họ cười nhỉ?
Có thể không phải họ - có thể đó là tiếng một trong mấy chú vẹt trơ tráo sặc sỡ ở mấy cái lồng trong góc.
Aubrey nói chuyện được, mặc dù giọng ông ta có lẽ nghe không giống thước dây nữa. Có vẻ như ông ta đang nói gì đó - vài âm tiết ríu lại. Cẩn thận. Lão đang ở đây đấy. Mình à.
Dưới đáy xanh của đài phun nước là những đồng xu ước nguyện. Grant chưa bao giờ mục kích ai ném tiền vào đó. Ông đăm đăm nhìn những đồng năm xu, mười xu, hai lăm xu, tự hỏi không biết người ta có dán những đồng xu này vào gạch lót đáy hồ không - thêm một chi tiết trang trí khích lệ của tòa nhà.
Đôi bạn thời niên thiếu sân bóng chày, ngồi tận băng ghế trên cùng của khán đài, tách xa đám bạn của cậu con trai. Giữa họ chỉ là vài xăng ti một mặt gỗ trần trụi, bóng tối buông xuống, hơi lạnh buổi chiều cuối hè ập về. Tay xoa xoa, hông xê dịch, mắt không rời sân bóng lấy một giây. Nếu có mặc áo khoác thì cậu sẽ cởi ra choàng lên đôi vai gầy của cô. Dưới lớp áo khoác, cậu có thể kéo cô lại gần hơn, ngón tay cậu sẽ siết chặt cánh tay mềm mại của cô.
Không như thời nay, bọn con trai chắc sẽ chỉ tìm cách ngủ với cô ngay từ lần hẹn hò đầu tiên.
Cánh tay mềm mại mảnh mai của Fiona. Dục vọng của tuổi tác đã làm cô kinh ngạc và lóe lên dọc theo mọi dây thần kinh trong cơ thể thanh xuân mảnh dẻ của cô, trong lúc bóng đêm đang dần ken lại dày đặc bên ngoài lớp bụi sáng đèn của sân bóng.
Hồ Thảo Nguyên có rất ít gương soi, nên Grant không phải thấy hình bóng mình đang lén lút rình mò. Nhưng thỉnh thoảng, ông chợt nhận ra có lẽ mình trông thật là ngốc nghếch, đáng thương hại và có lẽ hơi thần kinh khi cứ bám theo Fiona và Aubrey như vậy. Ông không thể tìm được một dịp may nào để có thể đối chất với bà, hay với ông kia. Càng ngày ông càng nghi ngờ cái quyền được có mặt ở nơi này, nhưng đồng thời cũng không thể nào rút lui. Ngay cả khi ở nhà, trong khi làm việc tại bàn giấy, hay khi dọn dẹp nhà cửa, hoặc trong lúc xúc tuyết, ý nghĩ về Hồ Thảo Nguyên và lần tiếp theo đến thăm bà cứ như tiếng máy gõ nhịp không ngừng tích tắc trong đầu ông. Đôi khi ông thấy mình là cậu bé lì lợm đang theo đuổi vô vọng, đôi khi ông lại thấy mình là một anh chàng khốn khổ, lẽo đẽo trên đường phố theo đuổi những cô nàng nổi tiếng với lòng tin mạnh mẽ và một ngày nào đó họ sẽ quay đầu lại và nhận ra tình yêu.
Ông đã hết sức nỗ lực mới giảm được số ngày đi thăm bà xuống chỉ còn thứ Tư và thứ Bảy. Ông còn tự đặt ra cho mình nhiệm vụ quan sát nhiều thứ khác ở Hồ Thảo Nguyên, như thể ông chỉ là một người khách chung chung, một người làm công tác thanh tra hay nghiên cứu xã hội học.
Thứ Bảy thường có cái vẻ nhộn nhịp và căng thẳng của ngày lễ. Các gia đình đến theo từng tốp. Các bà mẹ thường chỉ huy mọi thứ, họ như những con chó chăn cừu, vui vẻ nhưng cương quyết, chăn dắt đám đàn ông và trẻ con. Chỉ có bọn trẻ lít nhít là không chút âu lo. Chúng để ý ngay những ô vuông màu xanh lục và trắng trên sàn hành lang và chọn một màu để đi, màu khác thì nhảy qua. Mấy đứa dạn hơn thì tìm cách đu lên bám theo xe lăn. Mặc dù bị la mắng, vài đứa vẫn bướng bỉnh không chịu thôi trò nghịch ngợm này và cuối cùng bị tống ra xe ngồi đợi. Và ngay lúc đó, hết sức hồ hởi, hết sức sẵn sàng, mấy đứa trẻ lớn hơn hoặc mấy ông bố sẽ tình nguyện tháp tùng bọn trẻ nghịch ngợm này ra xe, bằng cách đó tránh phải tham gia vào cuộc viếng thăm.
Chính phụ nữ là những người giữ cho câu chuyện được sôi nổi. Đàn ông hình như bị tình thế này làm cho sợ hãi, còn bọn trẻ mới lớn thì cáu kỉnh. Những người được thăm thì ngồi trên xe lăn hoặc lộp cộp nặng nề chống gậy, hoặc đi đứng cứng nhắc, không cần ai giúp, họ dẫn đầu đám rước, tự hào về số người đến thăm, nhưng dưới áp lực của cuộc viếng thăm, cặp mắt họ có vẻ trống rỗng, miệng lắp bắp một cách tuyệt vọng. Và bây giờ, khi được vây quanh bởi đủ loại người từ ngoài vào, những người trong viện quả thực trông không giống người bình thường. Râu cằm mấy bà già có lẽ đã được cạo tiệt đến tận lỗ chân lông và những cặp mắt ghê rợn có lẽ đã được che giấu bằng gạc hoặc mắt kính râm, những phát ngôn bừa bãi có lẽ đã được kiềm chế bằng thuốc men, nhưng vẫn còn đó vẻ đờ đẫn, cứng nhắc như ma ám - như thể người ta hài lòng với việc trở thành ký ức của chính mình, những tấm ảnh cuối cùng.
Bây giờ Grant mới hiểu rõ hơn cảm giác mà ông Farquar ắt hẳn đã trải qua. Những người ở đây - thậm chí cả những người không tham gia hoạt động gì mà chỉ ngồi vật vờ quan sát những cánh cửa hoặc nhìn mông lung ra cửa sổ - thực ra có một cuộc sống khá bận rộn trong đầu họ (đó là chưa kể đến cuộc sống trong cơ thể họ, những chuyển động kỳ diệu trong ruột, những cơn đau nhói như dao đâm và những nhức nhối đi kèm), đó là cuộc sống mà nói chung không thể mô tả rõ ràng hoặc nói bóng gió trước mặt khách đến thăm. Tất cả những gì họ có thể làm là tự lăn xe hoặc bằng cách nào đó tự đẩy mình đi quanh, với hy vọng là họ sẽ kiếm được cái gì đó để trưng ra hoặc để nói chuyện.
Ở đây có cái nhà kính để khoe, và cả cái màn hình ti vi to nữa. Mấy ông bố trầm trồ thán phục. Mấy bà mặc nức nở khen lá dương xỉ đẹp tuyệt. Thế rồi tất cả mọi người sẽ ngồi xuống xung quanh những cái bàn nhỏ và ăn kem - trừ mấy đứa trẻ mới lớn; chúng thấy mọi thứ ở đây ghê tởm đến chết đi được. Phụ nữ lau chùi nước dãi nhỏ xuống từ những cái cằm già nua run rẩy, còn đàn ông thì nhìn tránh đi nơi khác.
Hẳn là phải có mặt chút thỏa mãn trong cái nghi lễ thăm viếng này, và có lẽ ngay cả cái đám trẻ con mới lớn một ngày nào đó cũng sẽ thấy mừng vì chúng đã đến đây. Grant không mấy rành rẽ về mấy chuyện gia đình.
Có vẻ như không có con mà cũng chả có cháu đến thăm Aubrey, và vì họ không thể chơi bài khi bàn chơi bài đã được dùng để đãi tiệc kem, ông ta và Fiona thường tránh xa cuộc diễu hành thăm viếng của ngày thứ Bảy. Nhà kính lúc ấy quá ư đông đúc nên họ không thể nói chuyện thân mật được.
Tất nhiên, những buổi chuyện trò thân mật ấy có lẽ đang diễn ra sau cánh cửa đóng kín phòng Fiona. Grant không tài nào gõ cửa được, mặc dù đôi khi ông đứng đó, căng thẳng chăm chăm nhìn hình những con chim Disney, lòng trào lên một nỗi căm ghét thực sự ác độc.
Hoặc cũng có thể họ ở trong phòng Aubrey. Nhưng ông không biết đó là phòng nào. Càng khám phá chỗ này, ông càng phát hiện ra nhiều hành lang, chỗ nghỉ chân, những đường dốc cho xe lăn, và trong lúc lang thang, ông thấy mình vẫn dễ đi lạc như thường. Ông thường dùng tranh ảnh hay ghế ngồi nào đó để làm dấu, nhưng tuần sau, những thứ ông chọn làm dấu ấy dường như lại được dời đi nơi khác. Ông không muốn đề cập đến chuyện này với Kristy vì sợ cô nghĩ bản thân ông đang bị bệnh tâm thần gì đây. Ông giả thiết những thay đổi và sắp xếp lại liên tục này có lẽ dành cho các cư dân - để việc tập tành hằng ngày của họ đỡ nhàm chán.
Ông cũng không nhắc đến chuyện đôi khi ông nhìn thấy ai đó xa xa và tưởng là Fiona, nhưng rồi ông lại gạt ý nghĩ đó đi vì cách ăn mặc của người đàn bà đó. Đời nào bà ấy lại mặc áo hoa hòe hoa sói và quần màu xanh lấp lánh thế kia? Vào một ngày thứ Bảy, ông nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy Fiona. Chắc chắn phải là bà. Bà đang đẩy xe