NGƯỜI ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT LÊN CÂN…
Người ta làm lễ mai táng họa sĩ Malinin. Người đi đưa đông khiến Serbakov ngạc nhiên. Linh cữu quàn trong một gian phòng lớn, một dòng người đi qua, người ta đem đén hoa bó, hoa vòng. Trong khi đó, ngay sát cỗ quan tài, dòng người chen chúc, ai cũng cố nhìn kỹ người quá cố. Người ta nhòm nhỏ với vẻ mặt tò mò gần như thất thố, thậm chí ngờ vực. Ngay chính Serbakov cũng có cái cảm giác gần như thế, vì đã từ lâu anh không coi Malinin là người còn sống nữa. Về Malinin không hiểu sao không nghe thấy ai nhắc đến và ông hầu như bị quên bẵng đi, vì thế, việc mãi đến bây giờ ông mới chết khiến người ta ngỡ ngàng.
Phía góc xa, bộ tam tấu đang cử nhạc. Ở giữa những bức tranh lồng kinh là bức chụp Malinin ngực đeo đầy huân chương và huy chương giải thưởng, đặt trong khung tang. Chính các huân huy chương thì lấp lóa ngay trên những tấm gối đỏ, còn bản thân Malinin lại nằm tách riêng ra, cao hơn, giữa những vòng hoa viếng.
Ban lãnh đạo đã đến, đám tang có ngay được ý nghĩa trọng thể, và thế là không còn thấy cái vẻ bối rối mới rồi nữa.
Khi Serbakov đứng vào vị trí túc trực linh cữu, anh thấy Malinin kề ngay cạnh, nhưng không nhận ra ông. Nghếch chòm râu bạc mà trong ảnh không thấy có, ông già gầy guộc với khuôn mặt sạm năng, khắc khổ, lạnh lùng đang nheo mắt lại không rõ vì ánh sáng chói quá hay vì những cái nhìn tò mò đang chăm chăm nhìn ông lần chót. Malinin trông hoàn toàn không giống ông thầy đường bệ mà Serbakov vẫn nhớ hồi còn ở trường, một người đã quen được chú ý, vững tin ở bàn tay không bao giờ lầm lỡ của mình. Cái ông Malinin ấy tính hay giễu cợt, vui vẻ, rạng ngời hào quang thành đạt. Ông cũng xuất hiện thế trong các bài điếu kế tiếp nhau nói về ông. Các diễn giả lúc thì nhìn người quá cố, lúc lại nhìn vào giấy, dường như không tin vào mắt mình. Người ta kể ra các giải thưởng, chức vụ, nêu tên những cuộc triển lãm và những bức tranh đã làm xôn xao dư luận một thời. Cứ theo đó thì Malinin xứng đáng với vinh quang của một họa sĩ tầm cỡ, xuất sắc, nổi tiếng. Quả là cho đến giờ, Serbakov vẫn còn nhớ một số bức vẽ của ông với đầy đủ mọi chi tiết; anh cũng nhớ đã có lần Malinin mời anh ghé thăm xưởng vẽ của ông, nhưng Serbakov đã ngại không tới, thành thử sống kề bên một họa sĩ như thế, có lẽ là một bậc kinh điển, vậy mà anh đã không nhận ra. Một phụ nữ ở Bộ Văn hóa đang phát biểu. Chị ta nói không cần giấy, giọng thấm thía về một cuộc đời hết lòng phụng sự nghệ thuật, và lần đầu tiên Serbakov thoáng thấy buồn. Nhưng đến câu “tài năng của ông còn có thể đem lại cho mọi người biết bao nhiêu tuyệt tác nữa” thì giọng chị ta nghẹn lại, và lúc ấy Serbakov mới sực nhớ ra là cái giọng nghẹn ngào cùng với câu nói ấy anh đã được nghe chị ta nói hôm lễ tang ông đạo diễn nhà hát của họ.
Anh ngoảnh lại nhìn. Đứng cách anh không xa là Anđrianov và Phalêev, họ đang bàn cãi xem sẽ đưa ai vào hội đồng nghệ thuật thay cho người quá cố. Họa tranh luận khe khẽ, mặt vẫn giữ nguyên vẻ đau buồn. Trên những khuôn mặt khác cũng thể hiện vẻ đau buồn như thế. Những vẻ mặt giống nhau khiến Serbakov chú ý, điều bí ẩn ở đây, anh nghĩ, rõ ràng là tình cảm ấy không chân thật, bởi những tình cảm chân thành không giống hệt nhau và ở mỗi người phải thể hiện theo cách riêng.
Dàn nhạc bắt đầu cử hành. Khúc nhạc tang cất lên trên cỗ quan tài, trên những vòng hoa viếng, những cái gối nhỏ và gian phòng lần đầu tiên phảng phất hơi hướng bí ẩn của cái chết, một câu đố muôn đời.
Số người được theo ra nghĩa trang rất ít. Chỉ hai xe buýt là đủ, số còn lại phải để ra về. Xe chạy lâu. Dừng lại hồi lâu ở chỗ đường chắn dẫn vào nghĩa trang. Mưa chuyển thành tuyết. Những bông tuyết lớn tan ra trong những vũng nước vàng ệch. Trên xe người ta nói về bệnh tật, bàn tán vì sao Malinin những năm gần đây không triển lãm tranh; một số cho rằng ông bị khủng hoảng, số khác cho là ông bị ốm. Serbakov giận mình nhu nhược. Khi người ta khiêng quan tài ra khỏi phòng, số đông người dự bỗng biến đi đâu mất cả, không hiểu nổi làm sao mà mới đấy mà biến mất đi được ngần ấy con người. Những kẻ chậm chân nghiêng người lách ngang qua chỗ chị trưởng phòng quản trị Nina Gurgenovna đang lớn tiếng mời mọi người lên xe. Nhìn khắp lượt những người ngồi trên xe, chị ta phàn nàn với Anđrianov: toàn ông già cả, lấy ai khiêng quan tài được bây giờ? Anđrianov lắc đầu:
- Vô liêm sỉ, vô lương tâm.
Anh ta mặc chiếc măng tô bằng da màu nâu mới tinh, bóng loáng, và cả người anh ta, cao to, vai rộng, ngời ngời sức khỏe và vẻ niềm nở.
- Serbakov đây kìa, anh ấy sẽ đi. Đúng không?
- Khỏi cần bàn – Serbakov nói và chui vào xe.
Ngồi trong xe, anh thấy Anđrianov giương ô, bấm nút, cái tán ô đen mở tung ra. Andrianov che ô đưa Nina Gurgenovna lên xe đằng trước, còn anh ta thì lại đi đâu không rõ, dáng thoăn thoắt. Serbakov tự rủa mình, nhưng từ chối Anđrianov thì anh không thể. Từ thời sinh viên anh đã thừa nhận vai trò số một của Anđrianov và đã quen phục tùng anh ta rồi. Anđrianov từng là niềm tự hào của cả khóa học. Vả lại, thành công của anh ta cũng không liên quan trực tiếp tới tài năng của anh ta. Đúng hơn, anh ta thành đạt là nhờ cái tính cách có số hên của mình, nói chính xác hơn là nhờ bản tính của mình, bởi khó mà xác định được tính cách của Anđrianov, song anh ta có những phẩm chất lôi cuốn mọi người – vui vẻ, với ai cũng niềm nở như nhau, sẵn sàng giúp đỡ, đồng thời lại kiên định, tự tin, anh biết cách xử sự với lãnh đạo đúng cốt cách của một người có tài, và lãnh đạo rất vị nể anh ta.
Đất ở nghĩa trang nhão nhoét. Cỗ áo quan nặng trịch. Serbakov khiêng và nhìn xuống dưới chân, chỉ lo trượt.
Phía sau những chấn song sắt hàng rào nghĩa trang ngổn ngang cảnh công trường. Ở đó, trong làn khói xanh, những xe chở pa-nen gầm gừ. Những khối nhà ở dài đang lên tầng ba. Chiếc cần cẩu đang chầm chậm thả những tấm tường vuông trổ sẵn cửa sổ xuống. Khoảng trời xám xịt trôi vùn vụt sau mặt kính đầy bụi. Tấm pa-nen đã được đặt vào vị trí, và Serbakov chợt nghĩ rằng từ nay, từ ô cửa sổ đó nhìn ra bao giờ cũng thấy khu nghĩa trang, những đám tang, những cây thập tự và mộ chí. Chuyện đó đâu có gì là dở, anh nghĩ, việc gì người ta cứ phải đẩy các nghĩa trang ra mãi tận ngoại ô, việc gì mà người ta cứ phải tránh né nó. Phải như anh thì anh sẽ giữ lại những nghĩa trang nhỏ ở ngay giữa thành phố. Để nhớ đến cái kiếp phù du của đời người. Để người ta chôn cất ngay trước mặt mọi người, để đưa lũ học trò đến đây cho chúng suy tưởng; như Puskin đã nói – để cuộc đời trẻ trung đùa chơi bên cửa mộ. Cái chết phải được tận dụng để làm cho con người ta trở nên tốt đẹp hơn. Những ý nghĩ ấy khiến Serbakov thích thú. Một ngày kia, khi anh không còn phải làm việc ở nhà hát và không còn bị ràng buộc bởi các thứ đơn đặt hàng nữa, anh sẽ vẽ một bộ tranh thuốc nước về các loại nghĩa trang, những nấm mộ. Những tấm bia mộ – cái để bỏ hoang phế, cái thì được chăm chút, trang trí cầu kỳ, hợm hĩnh… Tôi ca ngợi không phải là cái chết, mà là cuộc sống, anh sẽ nói như thế nếu người ta buộc tội… Bận theo đuổi những suy nghĩ của mình, anh không nhận thấy đang có một tình trạng bất ổn. Nina Gurgenovna không tìm được ai để nói vài lời kết thúc lễ tang. Vì mưa quá nên số người đưa tiễn vắng hẳn, một số thì lẩn vào xe ngồi. Serbakov chợt tỉnh khi Gurgenovna nắm tay anh thì thào năn nỉ. Anh hoàn toàn không định phát biểu mà thực tình thì đi đưa đám cũng chỉ là tình cờ, anh được nhà hát cử đi đặt mua vòng hoa viếng. Anh muốn giải thích tất cả những chuyện đó cho Nina Gurgenovna nghe, nhưng đúng lúc ấy có một ông to béo, đứng tuổi đeo máy ảnh trước bụng chen vào giữa họ và xin Nina Gurgenovna cho ông ta được phát biểu. Đôi mắt kính dày cộp của ông ta trượt xuống chỏm mũi đầy mồ hôi, cái nhìn của ông xúc động và cầu khẩn đến nỗi Nina Gurgenovna thốt nhiên chột dạ. “Treliukin à?”. Chị ta hỏi lại. Cái họ ấy không nói lên điều gì với chị cả, và Nina Gurgenovna dứt khoát từ chối – đã muộn rồi, bây giờ, để kết thúc, Serbakov sẽ nói mấy lời thay mặt cho lớp trẻ, cho đám học trò, và chị tức thì giới thiệu anh.
Serbakov sợ hãi, và lạ thay, lúc ấy anh không hề cảm thấy bí mà ngược lại, dường như những ý nghĩ trong anh trào lên muốn bật thành lời về Malinin, con người mà anh biết quá ít, mặc dù lẽ ra anh đã có thể biết rõ hơn nhưng đã bỏ lỡ dịp, rằng ngoài Malinin với những bức tranh ông để lại còn có một con người tên là Malinin và giờ đây người vừa mất đi chính là con người đó, con người mà ta không thể qui giản vào những bức tranh. Lúc này đây, khi mà ông không còn nữa thì mới vỡ ra rằng người ta chẳng biết gì về con người ấy, không ai biết gì về ông ấy…
Do đâu mà anh nghĩ như thế với một niềm tin vững chắc, điều xưa nay chưa từng có ở anh.
Vả lại, người ta cũng chẳng ai nghe anh nói. Họ đứng co ro dưới những cái ô, buồn bã đổi hết chân nọ sang chân kia. Họ nhìn anh thờ ơ, nhìn mà không thấy. Những người đào huyệt đã chuẩn bị xong dây thừng Và, bỗng dưng, giữa làn mưa bụi lạnh lẽo đó, Serbakov cảm thấy có người đang chăm chú nhìn anh. Anh không tìm ra ngay cái tia lửa ấy trong cặp mắt đỏ ngầu như thể đã lòa. Kia, sau cặp mắt kính, một cái gì đó cháy lên đón bắt từng lời anh nói với một sự khoái trá đau đớn. Và Serbakov chỉ còn nói cho người đàn ông to béo ấy nghe – tên ông ta là gì ấy nhỉ – Treliukin – ông ta đứng kia, bỏ mũ bê-rê, và tuyết cùng mưa cứ thế rơi trên mái đầu hói của ông ta.
Người ta bắt đầu đóng nắp quan tài, mọi người nhộn nhạo và bỗng nhiên lúc đó, cái ông Treliukin kia bật khóc. Thậm chí tiếng nức nở của ông nghe như tiếng chim kêu lảnh lót. Ông đã cố nén lại nhưng không được. Tiếng kêu tuyệt vọng ấy thật không đúng lúc… Mấy bà già bèn sụt sịt, hỉ mũi, họ khóc khe khẽ một cách phải phép, đúng hơn là khóc cho cái chết đã gần kề của chính mình. Người ta lau mắt, lau má, nhưng cũng có thể là vì mắt, má ướt đầm nước mưa. Treliukin chộp lấy máy ảnh và giơ lên bấm lia lịa. Những giọt nước mắt lăn nhanh trên gò má nhợt nhạt của ông. Và nỗi đau ghê gớm trong những giọt nước mắt mà ông ta không sao che giấu được khiến Serbakov cúi đầu, thấy ngượng thay cho Treliukin, cho cả đám người bối rối cóng rét kia, cho cả sự vội vã của những kẻ đang đắp mộ.
Rời nghĩa trang, người ta quay về dự bữa tiệc tang. Serbakov lạnh run, lên xe cùng mọi người, ước được làm một ngụm vôt-ka.
Bàn ăn dọn trong xưởng vẽ của Malinin. Xưởng rộng và trống hoang – trần đầy những vết ố dột, bong tróc nham nhở nhưng nó vẫn làm cho Serbakov thán phục vì sự rộng rãi của nó, vì những ngăn gác lửng có cầu thang lên bằng gỗ sồi. Cách bài trí có sự cân nhắc kỹ lưỡng kết hợp với độ bền chắc, với tính quy mô – cứ nhìn những ngăn giá để màu vẽ, những tay nắm bằng đồng, những khung kéo của giá vẽ, những bậc thang bịt đồng là đủ rõ.
Quanh bàn ăn xăng xái qua lại là hai bà em họ của Malinin. Người vào ra, tụ tập rửa tay bên cái bồn rửa lớn bằng sành men xanh. Anđrianov, Phalêev với Alla cùng với cái bà trên Bộ xuất hiện. Khi mọi người đã yên vị, ngồi xuống bên cạnh Serbakov là Treliukin. Cốc đầu tiên, theo tục lệ, mọi người uống mà không chạm cốc để tưởng nhớ người đã khuất. Serbakov lập tức uống luôn thêm một cốc nữa rồi bắt đầu ăn. Người ta dọn lên món khoai tây nóng, thịt luộc, cháo gạo nấu với nho. Sao lại có cháo ở đây, Serbakov không hiểu. Món cháo cúng đấy, Treliukin nhắc anh. Ông ta tiếp nhận mọi thứ với vẻ nghiêm trang sùng kính. Bàn ăn nghi ngút khói, lấp lóa ánh thủy tinh, màu rau xanh, những trái cà chua rửa sạch, bóng mọng. Màu sắc tươi tắn của bàn tiệc không sao hoà hợp được với những khung cửa sổ mờ đục lâu ngày không được lau rửa cùng với mùi ẩm mốc của một căn nhà rõ ràng là đã bỏ hoang lâu ngày. Điều đó đập ngay vào mắt mọi người. Và đến đây mới vỡ lẽ là suốt những năm qua không một ai trong số những người đang có mặt lui tới cái xưởng vẽ này. Điều này thật khó hiểu, bởi trước đây người ta đến thăm nó thường xuyên. Mọi người ngồi mãi đến khuya, hát hò, ăn uống, hỏi nhau xem ai đang vẽ gì. Người ta bị thu hút đến với Malinin, ông giúp đỡ, gợi ý, ông giữ nhiều cương vị mà trước đó ông đã phải từ chối đây đẩy mãi, khổ sở để rồi lại vẫn lãnh đạo, vẫn tham gia… Ông yêu thích hoạt động xã hội của mình, nó có vẻ phù phiếm, rỗng tuếch, nhưng là cái không thể thiếu đối với bản tính nhiệt huyết của ông. Trong cái xưởng vẽ này. Ông làm mọi việc một cách chóng vánh, dễ dàng bao giờ cũng kịp có tranh tham dự triển lãm. Ông đã vẽ hàng trăm bức tranh, hàng ngàn bức phác thảo… Nhưng không hiểu sao mọi cái bỗng bặt đi. Từ một lúc nào đó, Malinin đã thôi không tham gia triển lãm nữa. Người ta không hề thấy tác phẩm mới của ông, không nghe ai nói gì về chúng cả. Ông đã từ chối cuộc triển lãm cá nhân của mình ở Manegiơ. Sự từ chối của ông đã làm chấn động dư luận. Người ta đồn rằng ông đang xem xét lại, đang tìm kiếm một cái gì đó, mà cũng có thể là ông đang vướng mắc chuyện gì đó. Dần dà ông ngày càng ít xuất hiện ở Hội Mỹ thuật hơn, ông biến đi đâu không rõ. Ông không nhận điện thoại, không trả lời thư từ. Vô hình chung ông bị lãng quên, ông đã mất tăm.
Trong nghệ thuật, kẻ nào không làm cho người ta nhớ đến mình thì chẳng mấy chốc sẽ không còn tồn tại nữa. Người ta vẫn cho rằng có một Malinin, ông vẫn ở đâu đó, nhưng dường như không phải là một con người hiện hữu, mà như một hồi ức ngày một nhạt nhòa… Serbakov hỏi hết người này đến người khác để rồi mới biết hóa ra trong những năm gần đây, không ai thấy bóng dáng Malinin đâu, chẳng ai biết gì về ông hết. Mọi người đều có vẻ ngượng ngập. Đúng lúc ấy, bất giác nhìn sang Treliukin, Serbakov rất đỗi kinh ngạc trước cái tư thế căng cứng của ông ta: Treliukin rụt cổ, mặt đờ ra, như thể đang nấp trốn.
- Thế bác có thường gặp Malinin không? – Serbakov hỏi.
Treliukin giật bắn mình, nhìn anh hồi lâu, do dự và không đáp lại.
- Với họa sĩ lớn, tĩnh lặng, tạm dừng, là điều cần thiết - Phalêev cất lời. - Hãy cứ xem Gôganh, Alecsanđr Benoa, Bôttichelli đấy, mà đâu có ít. Cần tích lũy. Im lặng – đó là tẩy rửa, thanh lọc. Malinin đã ấp ủ (thai nghén) bước đột phá mới.
Lời anh ta vang lên uy nghiêm, có sức trấn an và mọi người thảy đều đồng tình với anh ta, hài lòng vì đã có thể chuyển sang những đề tài khác, và câu chuyện trở nên tản mát.
Chỉ riêng Serbakov là tức sôi lên. Câu nói chen ngang của Phalêev đã làm hỏng hết cả. Một gã ba hoa lắm lời đầy tự tin, thêm nữa lại biết cách gây áp lực với mọi người bằng một giọng quyết đoán, bằng những lời bóng gió nhiều ngụ ý, dường như muốn nói rằng đằng sau lời lẽ của anh ta còn ẩn chứa điều gì khác nữa, những suy đoán của ai đó, mà có thể là cả những sự kiện nào đó nữa. Serbakov nghiêng đầu sang phía Treliukin. Ông ta khẽ hỏi:
- Ai vậy?
- Giáo sư Phalêev.
- Tôi có nghe nói đến.
- Bác nghe nói sao?
- Một nhà nghiên cứu nghệ thuật có tiếng.
Phalêev ngồi chênh chếch trước mặt họ và đang ăn món cá hồi. Đôi môi ướt nhẫy của anh ta cũng đỏ sậm hệt màu thịt cá hồi và điều đó khiến Serbakov thấy khó coi. Trên cặp môi là một bộ ria đen trĩu xuống đang động đậy. Phalêev mới để ria cách đây không lâu cho giống một tay Ka-dắc, bởi có một dạo anh ta rất hay nhắc đến nguồn gốc dân Ka-dắc của mình.
Serbakov không tin lời anh ta nói, có lẽ là vì Malinin không thể chịu nổi Phalêev và chắc không đời nào thổ lộ với anh ta… “Thanh lọc”, “tẩy rửa” – cả những tiếng ấy, cả cái cách mà Phalêev phát âm những từ ấy giờ đây khiến Serbakov thấy khó chịu, và vì Serbakov không thể để lộ ra cho Phalêev thấy thái độ đó, bởi cũng như những người khác, anh sợ y, nên anh càng sôi tiết hơn.
Chính Malinin, dù chẳng ưa gì Phalêev, cũng tránh va chạm với y. Trong các bài viết của Phalêev, ngay cả những bài tâng bốc, những cấu trúc được dồn nén trong những bức tranh mà y phát hiện, từ sự phán xét của y khiến chúng chết ngóm. Malinin thường gọi y là “nhà nghiền nát nghệ thuật”. Và việc Phalêev giờ lại có mặt ở đây và hết lời tán dương Malinin, nói về ông bằng giọng ông chủ, Serbakov cảm nhận được tất cả những điều này.
- Thế còn bác, bác nghĩ sao? Về sự im lặng của Malinin ấy? – Serbakov hỏi Treliukin.
- Sao lại là im lặng? – Tseliukin nhún vai, thở dài, sau đó nói – Thế nếu như không có sự im lặng nào hết thì sao? Có thể sẽ là một cái gì đó khác… Khủng hoảng.
Serbakov bật cười.
Nếu vì khủng hoảng thì người ta không vứt bỏ bút vẽ, vì khủng hoảng người ta thường trở thành lãnh đạo, thành phó chủ tịch Viện hàn lâm, thành hiệu trưởng đại học… Mà thiếu gì chỗ để leo lên cơ chứ…
Anh bỏ vào miệng một lát khoai tây nóng và nhồm nhoàm nói:
- Làm sao lại có thể khủng hoảng với một cái xưởng vẽ như thế này. Một cái giá vẽ trong hõm tường – đó là một thứ đồ chơi. Viền nẹp này, khung chạm trổ này. Xin mời anh cứ làm việc đi – tôi chả thiết.
Serbakov cảm thấy cuộc đời của Malinin đầy bí ẩn hấp dẫn. Thực ra khi con người ta còn sống thì cuộc đời người đó thật rõ ràng, nhưng khi người ấy chết thì những bí mật lại xuất hiện. Kỳ lạ thật. Sao cái chết lại làm thay đổi hình ảnh con người đến mức ấy nhỉ. Mọi thứ không sáng tỏ ra mà ngược lại, mất hẳn những đường nét rõ ràng, thực chất của con người biến mất.
Giữa lúc ấy, Anđrianov nâng cốc ca ngợi sự ngắn ngủi của đời người và bước chuyển của nó sang một dạng tồn tại khác. Vẻ mặt anh ta nghiêm trang, nhưng hàm răng tuyệt đẹp của anh ta sáng bóng lên, dáng đứng cao ngạo, nước da rám nâu, tưởng như nói về cái chết, với anh, chẳng có gì là đáng sợ, thậm chí còn là điều thích thú…
Đáp lại lời mời cạn cốc vì những họa sĩ chân chính, không chịu quy phục thời gian, những cái ly được nhất loạt nâng lên, và Serbakov bỗng cảm thấy dễ chịu vì mình cũng có phần dính líu đến sự bất tử ấy. Nhận thấy Anđrianov đang mỉm cười quay về phía mình, anh chợt nghĩ – có nên hỏi anh ta về xưởng vẽ không nhỉ? Về cái xưởng vẽ này chẳng hạn? Nhưng rồi anh thở dài, hiểu rằng mình chưa đáng mặt. Anh cảm thấy ngán ngẩm, và Alla nháy mắt với anh qua bàn, cho rằng nguyên do là tại Tseliukin; ở đâu ra cái ông mặt mày sầu thảm ngồi cạnh anh vậy? Tseliukin chau mày, chẳng ăn uống gì, mắt nhìn cau có, ông là người duy nhất mặc đồ đen, thắt cà vạt đen. Vẻ mặt ông xa lạ với những câu chuyện tạo nên hứng thú chung cho tất cả những người ngồi đây. Loáng thoáng nghe thấy những cái tên to tát, người ta bày tỏ ý kiến về những tên tuổi lẫy lừng khác, bàn tán những tin tức, dự đoán, giả định này nọ. Về những cuộc cầu cử tới đây vào tiểu ban sắp thành lập, những người được đề nghị nhận giải thưởng, về những suất đi công tác nước ngoài…
Sự im lặng nặng nề của Treliukin khiến Serbakov thấy khó nói, mà nghe cũng không rõ.
- Sao bác không uống gì cả thế? – Serbakov hỏi.
- Ngượng quá. – Treliukin nói.
- Gì cơ?
- Đám tang gì mà lại ra thế này? Mitia thì có dính dáng gì đến đây chứ?
- Thế bác biết ông ấy lâu chưa?
- Từ hồi sinh viên. Ở cùng một phòng.
- Thế thì bác kể cho nghe đi. Tôi giới thiệu bác ngay đây.
Serbakov vớ lấy con dao ăn định gõ vào đĩa, nhưng Treliukin hốt hoảng giữ tay anh lại.
- Thôi đừng. Làm phiền họ làm gì!
Serbakov chực cãi lại, anh muốn Treliukin nói, nhưng Phalêev đã cướp lời, bắt đầu nói về tuổi trẻ của Malinin, về chuyện những tác phẩm viên mãn nhất của ông đều là vào những năm 30 – những tìm tòi về hình thức, thể nghiệm, chủ nghĩa hiện đại, - ấy thế mà người ta đã không để cho ông phát triển lên, người ta la ó, nhảy xổ vào mà công kích, cấm đoán, buộc ông phải bỏ đi tìm những con đường khác…
- Và tất cả những cái đó đã phải trả một giá đắt! Giá như được tự do phát triển, tự mình vượt qua những cái rườm rà, non nớt của mình… - Phalêev nói, không nhìn ai, nhưng mắt vẫn theo dõi để mọi người lắng nghe anh ta. - Tôi cho rằng, - anh ta ngừng lại một chút, những cuộc tranh cãi với người khác sẽ sinh ra tài hùng biện, những cuộc tranh cãi với chính mình sẽ sinh ra thi ca!
- Chính thế! – Aleska kêu lên – Tuyệt vời!
- Thì chính anh đã đả ông ấy, - Bỗng Treliukin buột thốt lên bằng một giọng rin rít, mắt nhìn xuống cái đĩa của mình. – Anh đã chả từng viết …
- Tôi ư? Khi nào vậy? - Phalêev ngạc nhiên.
Mọi người xung quanh đều chột dạ.
- Anh buộc tội ông ấy đã sa vào những tìm tòi vô bổ về hình thức vào thời trẻ – Mặt Treliukin đỏ bừng lên từng mảng, đầu ngẩng cao và vẫn tiếp tục nói bằng cái giọng rắn đanh nhức nhối. Anh đã lấy ông ấy làm dẫn chứng khi nói về những điều cần tránh. Đại loại là ông ấy đã vượt qua được những lầm lạc tai hại thế nào, thoát khỏi bãi lầy thế nào. Thế mà bây giờ thì lại nói anh thứ lỗi, lật ngược hẳn lại. Giờ thì lại tán dương.
Phalêev sửng sốt thực sự. Chưa bao giờ có ai dám nói với anh ta như thế. Thậm chí miệng anh ta vẫn há ra. Ai nấy đều nhìn Treliukin như thể lần đầu thấy ông. Chỉ mình Serbakov thấy khoái trá.
- Ông từ đâu chui vào đây vậy, mà ông có hiểu…
Phalêev bắt đầu lên giọng, nhưng rồi đã kịp nghĩ ra, phá lên cười một cách độ lượng, tha thứ cho ông già đáng thương kia vì đã đem lại một trò vui. – Ông bạn đáng yêu của tôi ơi, biết làm thế nào khác được. Chỉ có những kẻ giáo điều mới nhai đi nhai lại những cái người ta đã khẳng định từ hai chục năm về trước thôi. Tôi không phải là một tên giáo điều. Tôi, thưa ông bạn thân mến, đã kịp nhìn nhận lại trước tất cả mọi người, trước cả Malinin cơ. Và trước đó, những phát biểu của tôi đã chắn đỡ cho ông ta, bảo vệ ông ta, nếu không thì người ta đã bỏ ông ta vào cái cối xay thịt rồi. Mà không thế thì đời nào họ lại chịu tha cho ông ta chứ!...
Treliukin đứng phắt dậy, trên cái bụng ưỡn ra của ông ta lủng lẳng cái máy ảnh.
- Hèn hạ! – Mặt ông càng đỏ hơn, - Và dối trá!
Ông bước ra khỏi chỗ ngồi. Cổ ông loáng mồ hôi. Mãi khi ra đến chỗ cửa lớn, ông chợt quay ngoắt lại bằng một động tác nhanh nhẹn lạ lùng so với thân hình to béo của ông, hướng nhanh ống kính về phía Phalêev, bấm máy, sập cái khóa xuống như thể bắn một phát súng vậy, và biến mất.
Im lặng bàng hoàng một lúc.
- Hâm, - Phalêev xác định một cách rành rọt. – Lão này ở đâu ra vậy? – Câu hỏi nghiêm khắc ấy nhằm vào Serbakov.
- Tôi cũng không rõ. Hình như từ xa đến.
- Mặt trông đần độn. Một lão chập mạch điển hình. Một kẻ ngoại cuộc. – Phalêev vẫn tiếp tục.
Serbakov cảm thấy môi mình mỉm cười. Nụ cười thoáng nhẹ không chủ định, Nó không tắt đi, cũng không cách gì dập tắt được. Mọi người quanh bàn, cả cái bàn, cả cốc đĩa trông cứ dẹt phẳng ra như thể được dán trên mặt giấy vậy. Bộ ria ướt nhẹp của Phalêev, cặp mắt mèo vàng khè của anh ta, tất cả đều có thể đem cuộn lại được. Chỉ còn lại những bức tường, ánh chiều xế bóng rọi xuống từ những ô cửa sổ cao…
- Tiện đây xin nói thêm rằng đó là người duy nhất đã khóc ngoài nghĩa trang, - Serbakov nói. - Mặc dù các vị không trông thấy. Các vị không có mặt ở đó. Các vị chỉ tới đây thôi.
Nghe thô lỗ quá, và anh hơi hoảng. Nhưng không để lộ ra. Với những kẻ như Phalêev thì chỉ có thể hạ gục bằng một đòn thẳng tay…
Serbakov bỏ ra ngoài, hơi chệnh choạng, cố bước đi sao cho thật thẳng đường. Cái hành lang dài hun hút dẫn anh đi sâu vào nơi ở của Malinin. Những cái rương lớn, những chiếc xe đạp treo trên tường, những hốc tường… Anh đẩy một cánh cửa gắn kính mờ, lọt vào một căn phòng hình bán nguyệt. Ở đó có ô cửa sổ hình bán nguyệt, trần van vát đầy những vết ố sẫm, tường dàn kín giá sách. Giữa phòng kê một cái bàn ô-van gỗ bạch dương vùng Kareli, cạnh bàn là một cái nghế bành lưng cao bọc nhung màu huyết dụ. Ánh sáng vàng khè của ngọn đèn trần trụi càng làm cho mọi vật mờ đục, bụi bặm hơn.
Trên mặt sàn, ngay chân cửa sổ dựng ba bức sơn dầu cỡ nhỏ. Phía trước ba bức tranh đó, Treliukin đang bò lổm ngổm.
- Ra là bác ở đây. – Serbakov nói.
Treliukin không đáp. Phủi hai tay vào nhau, ông cứ bò từ bức tranh này sang bức tranh kia, thở phì phì, khịt khịt mũi một cách xúc động hệt như con chó pu-đen lông dài và quăn.
Chân dung một cô gái, chân dung một bà già, nội thất một căn nhà nghỉ - cả ba bức đều đẹp, nhẹ nhõm, nét vẽ góc cạnh nhìn hơi trẻ con, đó là đặc điểm dễ nhận ra ở tranh của Malinin. Serbakov biết rất rõ cái bút pháp đầy sức quyến rũ ấy, cái bút pháp mà một thời gian dài anh đã bắt chước và phải khó khăn lắm mới tự giải thoát được.
Treliukin bò lùi lại, chỉnh máy ảnh và chụp các bức tranh lấy mấy kiểu.
- Tội thân gì mà bác chịu lấm lem như vậy? - Serbakov nói. - Không có bác thì rồi mọi thứ đều sẽ được chụp ảnh quay phim cả mà. Phalêev sẽ lo liệu tất. Sẽ làm album, rồi cả chuyên khảo nữa ấy chứ. Và còn đặt cả tên phố nữa kìa.
Ánh đèn chớp soi nhoáng các góc nhà phía xa. Những dấu chân in rõ trên mặt sàn đầy bụi. Serbakov đâm bực: Sheliukin thậm chí chẳng buồn nhìn anh.
- Mà bác phát hiện ra được cái gì ở những bức tranh ấy vậy? – Serbakov hỏi với giọng cay độc. – Loại ấy thì Malinin làm hàng lô.
Chỉ vì Treliukin mà Serbakov đã bỏ cả bữa tiệc tang, sửng cồ mắng Phalêev, thế mà cái ông Tseliukin này chẳng buồn mở miệng nói lấy một tiếng.
- Phố Petrov Vokin không, phố Lentulov cũng không, ấy thế mà sẽ có phố Malinin đấy. Ông ấy rất xứng đáng liệt vào hàng kinh điển.
Treliukin thở nghi ngóp, đứng lên, phủi hai gối quần, nói cộc lốc:
- Anh khỏi nói…Malinin là một con người vĩ đại!
- Xin bác đi! Ông ta vĩ đại ở chỗ nào? Người đâu mà kỳ quặc! Nếu đã là một họa sĩ thì, ơn Chúa, chúng ta có chuẩn đo. Vĩ đại, đó là Vruben. Vĩ đại, đó là Picatso. – Serbakov cười ý nhị. – Thế nên chúng ta đừng thêm vào đó làm gì. Ông ấy là một cây cọ có tài…
- Anh là ai, họa sĩ à? – Sheliukin hỏi.
- Vâng. Thì sao ạ? – Serbakov đã bắt đầu khiêu khích. – Tôi thì đúng là rất khách quan. Thế bác là gì, thợ chụp ảnh à?
- Không. Cũng là họa sĩ. Trước đây. Từng là một kẻ bất tài. – Treliukin điềm đạm nói và ngồi xuống ghế bành – Từng là hiệu trưởng một trường mỹ thuật. – Ông ngẫm nghĩ. – Tôi có một công lao đối với nghệ thuật: đó là tôi đã không làm họa sĩ. Tôi toàn vẽ nhãn hộp kẹo.
- Thế bác chụp ảnh làm gì?
- Tất cả đang biến mất. Thật đáng sợ.
- Cái gì biến mất?
- Bỗng dưng bắt đầu biến đi. Bạn bè cùng lứa… Bánh mì tinh bột… Lũ ngựa…
Ông gọi tên những thứ mà Serbakov chưa bao giờ được nghe nói đến, những bóng dáng mờ nhạt thời thơ ấu: những bà bán sữa đeo bi-đông, những cái bánh mỳ sừng bò, những người đánh xe ngựa thồ hàng, những anh thợ nạo ống khói… những khoa bổ túc công nhân… một cuộc sống không còn lưu lại được gì cả - những cửa hiệu đồ cũ giăng đầy những bức vẽ cũ kỹ, những tranh khắc gỗ, chợ trời, nơi có thể đem tống ra đấy những bức vẽ bôi bác của mình, cái nơi chợ trời mua bán trao tay ồn ã, bất ngờ, với những của quý tình cờ vớ được, những tập album dày cộp, những khung tranh, mà trời đất ơi, những cái khung vớ được ở đó mới độc làm sao chứ, chốn ấy có cả keo dầu lanh, bút vẽ bằng lông chồn nâu cơ đấy…
Khuôn mặt ông bỗng trẻ hẳn ra. Đó là thế giới của ông, cái thế giới sẽ không còn được thấy lại nữa, ông chụp nó, muốn lưu lại dấu vết, những vật chứng còn sót lại.
- Thậm chí người ta không đúc lại khuôn mặt của Mitia. Đến một lúc nào đó họ sẽ hiểu thôi. Ít ra thì tôi cũng còn kịp bấm máy. Có lẽ vì lý do mà tôi vẫn còn được số phận níu kéo ở lại cõi đời này.
Treliukin bắt gặp nụ cười gượng gạo của Serbakov. Ông không hề lúng túng, gật đầu dường như chỉ chờ có thế.
- Anh đã bao giờ được trực tiếp quen biết một người vĩ đại chưa?
- Chưa được hân hạnh, - Serbakov đáp.
- Hừm, thế do đâu mà anh biết là thế?
- Tôi không hiểu.
- Có thể là ông ta đã từng ở ngay cạnh anh. Hoặc vẫn đang sống. Chiều chiều anh và ông ta vẫn chơi bài với nhau. Có thể ông ta còn hỏi vay tiền nữa? Hả? Thế rồi, sau khi ông ta chết, anh mới chợt nhận ra rằng người bạn học thời phổ thông của anh là một con người vĩ đại, vậy mà anh đâu có ngờ. Có thể là như thế không?
- Đấy là bác đang muốn nói về Malinin?
- …Còn các người thì lại lên giọng dạy khôn ông ta, cho ông ta là một gã ngốc, không biết đường sống. Không hiểu được hạnh phúc của mình. Lạy Chúa tôi, cứ làm như thể chính ta mới là người biết cách sống ấy!
Ông ta thở hổn hển, bệnh béo phì hành hạ ông. Mặt tái nhợt, đầm đìa mồ hôi, ông không hề để ý đến mình, rõ ràng là không thấy quý những gì còn tồn tại của thân xác mình. Những đường nét trên khuôn mặt ông mờ nhòa đi, dáng hình ông chảy xệ ra, thật khó hình dung được thời còn trẻ trông ông thế nào, đi đứng ra sao, mọi cái đều bị che lấp và khi nhìn kỹ ông, không mảy may thấy cảm thông với những đoạn thăng trầm trong cuộc đời của Treliukin mà như ngắm một mẫu vẽ, một phác thảo cho một bức tranh nào đó. Khi nhìn ngắm mọi người, Serbakov bao giờ cũng tìm xem có thể khai thác được gì ở người đó, - người này thì có hình dạng hay hay, người kia thì có cánh tay lực lưỡng, còn Treliukin thì như một đống mảnh vỡ. Những mảnh vỡ của cái gì nhỉ?
- …Nhưng làm thế nào để nhận biết được một con người như thế. Vinh quang chỉ càng làm cho rối rắm thêm. Vinh quang thường đến với những kẻ láu cá. Bởi cũng có sự vĩ đại mà không vinh quang chứ? – Treliukin hỏi, đưa mắt liếc Serbakov, - Ở chỗ sâu nước đâu có xoáy, đúng không? Tôi đã cạo cho ông ta một mẻ, cố giúp ông ấy quay về con đường đúng đắn. Tôi chẳng hiểu ông ấy còn thiếu thứ gì nữa cơ chứ? Sao lại có thể đạp đổ tất cả những gì đã chiếm lĩnh được, đã đạt đến được bằng bao nhiêu công sức như thế! Anh có biết ông ta đã trả lời tôi thế nào không?
- Bảo sao? – Serbakov hỏi thờ ơ.
- Thiếu chút nữa thì ông ấy cất giọng ngâm. - Shgeliukin bật dậy, ngâm nga, khàn khàn, giọng lạc hẳn đi, đầy tình cảm;
Nhưng bàn tay định mệnh đã từ lâu
Viết lên đó những giòng khủng khiếp!... 9
Mắt ông sáng rực lên.
- Ông ấy ví von đấy! Ông ấy nói gì cũng đều có ý cả. Trong Kinh thánh, bàn tay định mệnh viết cho ai nào?
Serbakov nhún vai.
- Còn sao nữa, thử cố nhớ lại đi – cho Đức vua Bantaza! Còn Mitia thì cho rằng ông ta sống chẳng khác gì vua Bantaza, cứ mải mê yến ẩm tiệc tùng cho đến khi đọc được những dòng chữ trên tường.
Serbakov không sao nhớ ra được một điều gì đại loại như vậy. Kinh thánh anh chưa từng đọc, mặc dù nhiều lần định bụng sẽ xem, tuy nhiên, với vẻ ranh mãnh của một người say, anh bắt đầu nhử Treliukin.
- Đó là Đức vua, còn đây là Malinin. Ông ấy không yến ẩm, ông ấy làm việc.
- Còn cái ký tự chính, ở giữa ấy, thì nghĩa là gì, hả? – Bước lại gần bức tường, Treliukin kiễng chân, ngón tay lần rờ theo và bằng giọng trang nghiêm, cất tiếng ngâm: Ngươi đã được đặt lên cân và thấy mình nhẹ bỗng! 10
Nghe có vẻ khoa trương, thậm chí buồn cười, nhưng trong câu chuyện này lại có cái gì đó ghê rợn, hăm dọa.
- Thấy mình nhẹ bỗng, - Serbakov nhắc lại, hất mạnh mái tóc một cái. – Thế thì sao? Vì sao ông ấy lại không làm việc nữa?
- Đâu có ngừng. Do đâu mà anh nghĩ thế?
- A hà! Tôi nghĩ thế. Nhưng bàn tay định mệnh thì có chứ? - Giọng Serbakov hào hứng. - Bác kể đi.
Treliukin nhếch mép cười khó hiểu, trong tay ông ta xuất hiện một cái cặp, một cái cặp căng phồng, loại thường được dùng để đi công tác, lôi ra từ đó một lọ nấm, một cái chai nửa lít quấn trong một cái khăn tắm dệt hình tổ ong, mấy cái cốc nhựa con, một cái thìa, thận trọng và nhanh nhẹn bày tất cả những thứ đó ra góc bàn chất đầy giấy má. Thứ vôt-ka, như Tseliukin cho biết, là loại nặng đô, của Uran, không phải tang dành cho thực quản của dân thủ đô, nhưng theo lời ông, vong linh của Mitia bay lượn ở đây chứ không phải ở nơi cỗ bàn thịnh soạn kia.
- Bác tin thế à? – Serbakov hỏi.
Treliukin không đáp, nhìn anh đầy vẻ thương hại như cách người ta thường nhìn một kẻ tật nguyền.
Thứ vôt-ka như lửa đốt cháy lục phủ ngũ tạng của Serbakov, làm anh ối lên một tiếng, tức khắc tỉnh rượu và cứ bám chặt lấy Tseliukin mong làm sáng tỏ được bí mật sự biến mất của Malinin. Nhưng Treliukin cứ trả lời loanh quanh, không sao moi ra được điều gì. Ông bảo bí mật đó không phải của ông và ông không có quyền, rằng hoàn toàn chẳng có bí mật nào cả, tất cả chỉ là một trò trẻ con, phải quan tâm đến con người, sau đó lại hỏi Serbakov cần biết cái bí mật ấy để làm gì, tốt hơn cả là đừng động đến nó… Cũng lúc đó, ánh mắt ông bỗng lóe lên sắc nhọn và một cảm giác khó chịu đã ngăn Serbakov lại.
Trên mặt bàn chỗ họ ngồi chồng chất cả một đống giấy tờ. Những tập album, phong bì, bằng khen, vé tàu xe, bưu thiếp… Serbakov thọc tay vào cái động trơn trượt ấy, rút ra hú họa một phiên bản tranh của Malinin, một tấm thẻ đỏ có dấu “Chủ tịch đoàn”. Rồi kế đó là một tấm danh thiếp, một mẩu báo cắt, tập danh mục tranh một cuộc triển lãm ở nước ngoài. Tất cả đều bị bới tung, chắc là người ta muốn tìm ảnh chụp, tài liệu, huân chương để dùng cho lễ tang. Từ những cặp bìa để mở vương ra những bức điện có vạch đỏ, những tấm thiếp chúc mừng mang chữ ký của những nhân vật từng tiếng tăm một thời…
Serbakov cứ “hừm, hừm” trong miệng. Những lời chúc tụng nhàm cũ, ánh đèn hoa trang trí đã tắt ngóm, cờ xí lễ hội đã gỡ bỏ cả rồi. Sắc sắc không không, hư ảo cả.
- Ai cần đến những của này chứ? Bới những thứ rác rến này ra làm gì nhỉ? – Anh nói. - Đồng chí A.N. Zubarev gửi lời chúc mừng. Thế bây giờ cái tay Zubarev ấy đâu rồi? Giờ thì còn ai nhớ đến cái tên này?
Cái đầu tròn láng bóng của Treliukin gật gật đồng tình, lát sau ông nói, không phải để cãi mà như tán thành:
- Đối với chúng tôi, dân tỉnh lẻ, chỉ cần có một mảnh giấy thế này thôi thì úi cha cha! Nó lập tức tôn anh, bốc anh lên khỏi những cái thường ngày. Chuyện đùa à? Nguyên một cột trên tờ báo của Thủ đô! Lại kèm cả phiên bản nữa! Thẻ “thành viên chủ tịch đoàn” này – trông thì tưởng chỉ là cái mẽ ngoài, nhưng phải có sức mạnh đến thế nào mới khước từ được chứ đâu phải chuyện chơi. Thế mà Mitia đã coi khinh, chối bỏ tất.
- Vậy ông ấy đã chối bỏ cái gì mới được chứ?
- Chối bỏ tất.
- Tôi không biết, không biết…
- Chối bỏ cái trọng yếu nhất.
- Sao bác cứ úp úp mở mở mãi thế?
Treliukin ngửi cái cốc của mình.
- Thế anh cần biết điều đó để làm gì?
- Chính là lỗi ở bác. Vĩ đại, vĩ đại, nhưng lại không chứng minh được. Nếu đã vĩ đại thì sao còn phải giấu diếm. Dớ dẩn! – Serbakov phẩy tay, điệu bộ dứt khoát đến mức Treliukin chợt thấy lo ngại.
- Giả dụ như tôi nói với anh rằng Malinin đã đi trốn, bắt đầu làm việc với một cái tên khác thì anh sẽ không tin, đúng không?
- Trốn ai? Nghe vớ vẩn thế nào ấy. Bác đang nói nghiêm túc đấy chứ? Thế là thế nào?
- Chả thế nào cả, - Treliukin xác nhận một cách mau mắn. - Phi lý quá, tôi cũng cho là thế.
- Thế chuyện ấy xảy ra khi nào? Do đâu mà ông ấy phải làm thế?
- Sau ngày vợ chết. Anh biết Nađia chứ? - Ông ta bắt đầu kể chuyện người phụ nữ quá cố đã say mê Malinin thế nào, đã xây xưởng vẽ ra sao.
Tất cả những tình tiết đó lúc ấy Serbakov cho là thừa, chỉ cản trở việc làm sáng tỏ vấn đề chính yếu – chối bỏ tên tuổi của mình, một tên tuổi vào tầm cỡ ấy để làm gì cơ chứ?
- Chính thế đấy, hoàn toàn chính xác, - Treliukin tán đồng và lại tiếp tục kể về chuyện đã đến chỗ ông ta, Malinin buồn nản, trầm tư thế nào.
- Ông ta bắt đầu dọn dẹp cái lều ngoài vườn của chúng tôi, dọn đồ ra đó ở.
Đang say, Treliukin vươn thẳng người, cái chỏm mũi của ông ta đỏ lựng lên, ánh mắt trong ngời:
- Anh thử hình dung xem: một ông thợ đã đứng tuổi, chẳng ai biết tên, mặc một cái áo bông, vác tranh của mình đến, sao? Không ai lại nghĩ rằng đó là Malinin. Một chữ ký lạ hoắc. Mà tranh cũng hoàn toàn khác.
- Làm thế nào mà ông ấy lại giữ kín được đến thế? Đến độ không ai biết gì cả?
Treliukin phẩy nhẹ tay.
- Không, anh trả lời tôi ngay đi xem, bản thân anh có làm được như thế không đã? – và nhìn xoáy vào anh bằng cặp mắt nhỏ trong đó bừng lên một ánh lửa. - Anh thử xét lại mình rồi nói nghe xem nào.
- Nhưng sao tôi lại phải làm thế, để làm gì cơ chứ? – Serbakov bật kêu lên.
- Khà, có thể nói rất nhiều lý do. - Treliukin dí một ngón tay vào ngực Serbakov. – Để sao cho không còn có chuyện biệt đãi ân ưu gì nữa. Được không? Để miễn trừ hết mọi lợi thế của tên tuổi và vinh quang. Hoặc, giả dụ, để thoát khỏi những khuôn mẫu sáo mòn của chính mình. Như anh đây chẳng hạn, anh đã định hình rồi, và anh phát ngấy, anh muốn khác đi kia, anh phải bứt ra, thoát ra khỏi bản thân mình.
- Thì cứ việc bứt ra, ai ngăn cấm ông, có điều là sao lại phải chối bỏ mình làm gì?
- Tôi cũng có hỏi ông ta như thế… Tôi bảo ông ấy: một người nghệ sĩ cần phải giữ nguyên là chính mình. Cứ phát triển theo hướng nào cũng được. Cứ lớn cao lên như thể một cái cây, nhưng gốc rễ thì vẫn là gốc rễ ấy. Thế nhưng nếu tôi lại không muốn làm một cái cây, ông ấy bảo thế, mà muốn làm cả một rừng cây, nếu vậy thì sao?
- Tôi không hiểu.
- Hôm nay là cây này, sau đó lại là một cây khác, nếu, ông ấy bảo, ở trong tôi có rất nhiều con người khác nhau có thể thể hiện được thì sao?
Cái ngón tay ấn càng mạnh hơn vào bụng. Serbakov lùi lại, câu chuyện này kéo dài quá, có một cái gì khó chịu, thậm chí nguy hiểm trong đó.
- Bác không quay trở lại đằng kia nữa à? – Serbakov hỏi.
Treliukin nhìn anh, nhếch môi cười ra ý hiểu.
- À vâng, anh đi đi.
- Cái ngón tay ấn mạnh vào chỗ dưới ức vẫn còn để lại cảm giác ớn lạnh. Câu hỏi ác nghiệt của ông già béo tưởng như lôi anh vào chỗ nước xoáy. Mà thực tế, liệu anh, Serbakov, tác giả của một bản luận án tốt nghiệp được chú ý và ba vở diễn, liệu anh có gan ký một cái tên khác thay vì ký tên Serbakov không… Thật đúng là phát rùng mình nếu phải lấy một cái tên bất kỳ nào đó.
Treliukin, nhai nốt miếng nấm, hỏi:
- Anh không nhận ra điều gì trong những bức này sao?
- Việc gì tôi lại phải thay đổi chữ ký của mình? - Serbakov nói. – Không đâu, xin lỗi. Đi tìm bản thân mình, cái đó thì tôi hiểu. Nhưng phải là mình kia. Phải trung thành với bản thân mình.
- Anh nhìn kỹ mà xem này, - Treliukin nói tiếp, không nghe anh nói. Ánh sáng chiếu từ đâu và bóng đổ xuống đâu. Kỳ quái. Ông ấy đã tìm kiếm rất lâu…
Serbakov sốt ruột nhún vai.
- Tất cả những cái ấy thì rõ cả rồi. Tốt hơn là bác nói xem cái đó đem lại cho ông ta cái gì? Ông ta đổi họ tên đi - rồi sao nữa?
- Anh kiểm nghiệm lại tất cả mọi chuyện bằng cái gì đây? – Treliukin gật gật cái đầu trụi lụi của mình. – Bằng thành quả. Từ đó có thể rút ra được một điều gì đó. Cái ý tưởng cốt lõi nhất của cuộc sống hiện nay. Ấy vậy mà không được gì cả. – Ông cúi chào rất kịch, khoa tay lên. – Chỉ toàn những mất mát. Anh thấy chưa ổn à?
- Nhưng để làm gì, vì lẽ gì chứ? – Bị kích động mỗi lúc một mạnh, Serbakov kêu lên.
- Đó là sự lừa bịp. Ông ấy muốn đánh lừa thiên hạ đó thôi. – Treliukin nói nhanh, khẽ, mắt ngước nhìn đâu đó phía trên cao. – Nếu như ông ấy không chết thì sẽ có hai nhà danh họa. Ông ấy chưa kịp đạt tới người thứ hai. Không thì cứ thử hình dung xem lúc ấy sẽ rắc rối thế nào. Hai nhà kinh điển. – Treliukin cười hì hì. – Hai đường phố… Thực ra thì mọi sự đâu phải thế. Ông ấy đã mốc lên vì những thứ nhàm chán. Tài năng đã trở thành kỹ thuật rồi… Ông ấy đã phát ngấy chính mình. Mà có thể đó không phải là bế tắc đâu, mà là một đỉnh cao. Một khi đã đạt đến đỉnh cao rồi thì còn biết đi đâu nữa? Thế là ông ấy nhảy xuống. – Treliukin đến gần Serbakov từ phía bên, nhìn vào mắt anh. – Nhưng cũng có thể ở đây có một cái hoàn toàn khác… Trước mắt ông ấy thấp thoáng những ý tưởng mới: vẽ cái mà những kẻ khác không muốn nhìn thấy. Nó ra sao? Cái mà thực tế đang diễn ra trong lòng ta, bên dưới đôi má hồng của ta. Sao nào? Hoặc ở xung quanh ta. Toàn bộ cái mặt trái của cuộc đời, tất cả cái mớ hỗn tạp, tất cả những thứ tình cảm được che đậy. Kinh đấy chứ? Ông chùi tay, lại đi quanh Serbakov một vòng. – Quả thực là tôi cũng đã không tin. Tại sao một người vốn vẫn luôn ngợi ca cái đẹp và niềm vui sống lại phải lao tâm khổ trí đến thế? Ắt là phải có một nguyên do hoàn toàn khác!
Nghe tất cả cái mớ rối mù ấy, đầu Serbakov quay cuồng.
- Bác lòe tôi những chuyện quái quỷ gì vậy? – Anh túm lấy cổ áo va-rơi của Treliukin để ông ta khỏi lăng xăng làm anh hoa cả mắt. – Ngay từ đầu tôi chỉ cần biết: nguyên do nào thôi.
- Anh muốn khám phá bí mật chẳng qua chỉ vì tò mò thôi. Anh thì thiết quái gì đến Mitia!
- Bác có chịu nói không nào?
Serbakov bắt đầu lắc ông ta. Đầu Treliukin gục gặc theo nhịp lắc, và một nụ cười giễu cợt cũng chao theo trên khuôn mặt nhợt nhạt của ông. Người ông nhẹ bỗng, mềm nhũn.
- Biết nói sao được. Tôi không biết gì cả, - Treliukin thú thật, giọng thều thào như kiệt sức. – Tôi đã để lỡ dịp.
- Lỡ cái gì?
- Hình như ông ấy muốn thổ lộ. Thế mà tôi đã gạt đi.
- Tại sao?
- Treliukin sửa lại kính, giọng nhẫn nhục như thể đang bị hỏi cung:
- Vội đi xếp hàng. Lúc ấy người ta bán xúc xích.
- Xúc xích thì dính dáng quái gì đến chuyện này?
- Tôi cóc thiết tha gì cái triết lý của ông ấy. Tôi đã cố tình chọc giận - đã chán chê các món ngon ở thủ đô của anh rồi thì cứ nếm thử thứ nước ngựa uống chỗ chúng tôi đi.
- Thế ông ấy muốn nói chuyện gì?
Treliukin nhún vai.
- Thì nào tôi đã biết được gì đâu. Mà cũng chẳng buồn hỏi nữa. Ông ấy thay đổi khác hẳn từ cái hôm ấy. Trở nên rất bình thản. Trầm mặc. Trong khi ông ấy vật vã, tôi thấy thương quá, nghĩ bụng: vì phiền muộn mà ông ấy đã tìm đến chỗ chúng tôi. Thế mà khi thất ông ấy trở thành một người khác… Ông ấy, đã hai lần muốn tránh mặt tôi. Vì tôi thì là cái thá gì? Một con số không. Ông ấy đã tụt xuống vạch không và từ cái điểm không có gì ấy lại muốn bay lên.
Cơn nóng giận nãy giờ vẫn phảng phất trong lời nói, nhưng giọng ông nghe đều đều và buồn bã. Serbakov cảm thấy có cái gì đó trơ trẽn và khó chịu trong những lời thú nhận nói bằng cái giọng bình tĩnh ấy.
Bác Treliukin này, chuyện đó thì có liên can gì đến bác đâu. Vậy bác xuất hiện ở đây làm gì?
Treliukin nâng kính lên, cặp mắt ti hí của ông ta nhìn xoi mói và khô lạnh.
- Biết làm thế nào được, thiếu tôi thì các anh sẽ không thu lượm được gì cả. Anh cứ coi như là một món rau tập tàng gớm ghiếc. Còn sót lại trên đĩa một dúm nộm trộn lạnh ngắt… Còn Mitia thì đã bị người ta coi như một kẻ mất trí. Thấy một con người hồi tâm lại, tươi tắn lên, sảng khoái ra thì chúng ta lại coi như một kẻ mất trí. Những bức tranh mới của ông cũng góp thêm vào đó một cái cớ nữa. Tôi đã không bác bỏ những lời đồn đại đó. Tôi muốn che chắn cho ông ấy. Còn đòi hỏi gì được ở một người đã mất khôn? Bệnh điên của ông ấy chẳng làm hại ai. Chẳng hạn ông ta vẽ những cái gáy. Mà quả là chính tôi cũng đã tự nhủ là ông ấy thế thật. Tôi đã tự biện bạch cho sự đê tiện của mình.
- Thế thì bác còn khóc lóc với tôi làm gì nữa – Serbakov nói, - Những lời tự thú của bác lúc này chẳng đáng một xu. Chúng không còn giá trị gì hết.
Sự việc lại thành ra quá gay gắt, tàn nhẫn đến mức Treliukin co rúm người lại, im bặt. Lát sau ông ta chợt nói bằng giọng ngạc nhiên:
- Vì sao tôi lại đau lòng đến thế nhỉ? Nghĩa là điều đó không còn giá trị gì sao? – ông ngẩng mặt nhìn lên trần nhà, nhìn những vết ố loang bẩn thỉu, - Một cơ may duy nhất trong đời đã đến với tôi, thế mà tôi đã bỏ lỡ mất. Mà tại sao nhỉ? Chúng ta không thể nào chịu để cho một người khác có thể hoàn toàn không giống như chúng ta đây. – Ông lắc đầu, - Vậy nếu là anh, anh Serbakov, thì anh sẽ xử trí ra sao? Hơi quá lớn với anh đấy.
Bên xưởng vẽ vẫn chưa giải tán, người ta đang uống trà với mứt. Phalêev hát bài “Đàn vịt bay đi” bằng một giọng the thé, mọi người hát theo một cách rời rạc, giọng say mèm và ướt rượt. Khói thuốc lá mù mịt khắp nhà, ồn ào, nóng bức. Thấy Serbakov xuất hiện, cả đám ngưng bặt. Trông mặt anh đờ đẫn và ngơ ngác như vừa bị một đòn giáng mạnh vào đầu. Chuyện gì đã xảy ra với anh, chưa ai kịp hỏi, anh đã tự lên tiếng như người đang trong cơn mộng du, giọng có phần bối rối: “Thế các vị có biết…” giá là người khác thì cứ hẵng khoan, chờ một chút cho trấn tĩnh lại đã, để người ta hỏi rồi hẵng trả lời. Bao giờ trả lời câu hỏi cũng có lợi thế hơn là khiến người ta phải nghe mình kể lể. Nhưng lúc đó Serbakov vẫn còn cả tin và không hề cân nhắc lợi hại. Anh đã không đủ kiên nhẫn.
Mọi người nghe anh nói với vẻ tò mò. Chuyện Malinin đã bỏ đi, sống những năm cuối cùng ở Uran, tại một thị trấn nhỏ, nơi Treliukin lãnh đạo một trường mỹ thuật. Ở đó, Malinin ẩn dật, bắt đầu làm việc, không cho phép mình được sử dụng bất cứ cái gì của quá khứ, ngay cả diện mạo bề ngoài cũng thay đổi. Treliukin đã đưa tranh của ông đi dự một cuộc triển lãm của tỉnh. Đã xảy ra một vụ xì-căng-đan. Song le Malinin cũng chẳng lấy đó làm khổ tâm lắm, ông còn bận với những tìm tòi của mình. Đáng tiếc là Serbakov đã không sao giải thích được những tìm tòi ấy là gì. Và cả tên của cái thị trấn nhỏ ở Uran kia anh cũng không nhớ ra, hình như anh cũng không nghe rõ cả cái bút danh mới của Malinin nữa. Tất cả những cái đó khi trò chuyện với Treliukin tuồng như chẳng quan trọng gì, nhưng lúc này thì lại gây nên những thắc mắc chính đáng. Serbakov lảng tránh những câu hỏi đó, thế là câu chuyện của anh mất hẳn sức thuyết phục. Có tiếng ai đó bật cười – có thể là anh định lỡm họ chăng? Alla khuyên anh nên uống trà đặc. Anh có cảm giác mọi người không ai tin anh, và thế là anh rối trí. Anh không hiểu họ cần những địa chỉ, tên họ kia để làm gì, tất cả những cái đó chỉ thêm lôi thôi rối rắm, mà có gì quan trọng đâu, những tiểu tiết cụ thể thì có thể hỏi lại Treliukin. Họ đi gọi Treliukin, nhưng không tìm ra ông ta.
Uống trà xong, Serbakov thấy mệt xỉu. Anh chùi nước bọt sùi trên mép và nói mỗi lúc một to:
- Hãy từ giã thế giới đi! Khỏi cần luyến tiếc nữa! Các người có hiểu không? Treliukin đã tự nhận mình không là thá gì hết, vì thế tôi tin ông ấy. Vậy hãy trả lời xem, Malinin những năm qua đã đi những đâu, hả? Không ai phản bác gì ư? Đó-đó!
Đến đây, Phalêev nhệch môi chua chát, nói rằng thiếu gì chuyện mà những người vô trách nhiệm như Treliukin có thể đơm đặt ra. Cần phải có thái độ phê phán với cái lối dựng chuyện kiểu đó. Khối kẻ bây giờ muốn dây dính đến tên tuổi của Malinin, họ chẳng ngại gì đâu. Chuyện ấy chỉ dành cho những kẻ cả tin, những kẻ chẳng biết gì về Malinin, về lòng yêu cuộc sống của ông cả… Anh ta nói với giọng của một người am hiểu thấu đáo, nhưng không có vẻ giễu cợt, mà nghe như đang bênh vực cho Serbakov, định biến câu chuyện thành một giai thoại vui, nhưng là một chuyện vui do Serbakov hiến cho mọi người, một giả thuyết nghe cũng khá xuôi tai và có thể trở thành đề tài cho những cuộc hàn huyên vui vẻ. Đáng lý ra Serbakov phải thở dài một cái rồi phá lên cười. Nhưng anh đã xử sự vụng về, quay ra tranh cãi với Phalêev, ra sức chứng minh rằng mọi chuyện là đúng như vậy, mặc dù không đưa ra được một bằng chứng nào. Anh huơ tay làm vỡ tan một cái ly, và ngay lúc đó, Phalêev gõ gõ ngón tay xuống mặt bàn và nghiêm giọng nói rằng tên tuổi Malinin từ nay thuộc về lịch sử nền nghệ thuật của chúng ta và không kẻ nào được phép nói nhăng nói cuội về ông.
Alla kéo Serbakov ra khuất tầm mắt của Phalêev:
- Đừng chấp anh ấy làm gì! – Cô ta nói – họ quá chén đấy mà.
Cái chữ “đừng chấp” làm Serbakov tức hơn cả. Trong đám những bộ mặt đỏ gay, bóng nhẫy, đỏ gay vì rượu vôt-ka, anh không tìm thấy dù chỉ một khuôn mặt biểu hiện một chút cảm thông. Anh không còn bạn bè ở đây. Nỗi xót xa cho chính mình xuyên thấu lòng anh – không còn lấy một người bạn nào, thực vậy, anh không còn tìm đâu được một người bạn quan tâm chia sẻ những tình cảm và suy nghĩ của anh. Trời ơi, sao anh lại cô độc thế này! Khuôn mặt đánh phấn của Alla bỗng nhòa đi.
- Ai trong số các anh có gan làm như thế? Không một ai cả. – Anh kêu lên – Malinin đã cài vào cho các anh một cái ngòi nổ đấy. 11 Không thích à?
Những lời khuyên can càng khiến anh phát khùng, nói lảm nhảm, sừng sộ như đã say khướt, vì thế phải lôi anh đi. Làm được việc đó chỉ còn có Anđrianov, người duy nhất mà Serbakov chịu nghe lời.
Ngoài đường sáng ánh tuyết, cái ánh trắng còn chưa quen mắt ấy dát lên những bãi cỏ, mái nhà, cây cối, bậu cửa sổ. Quang cảnh sạch sẽ như trong một ngày hội, thành phố dường như vừa được dọn dẹp tinh tươm. Anđrianov bỗng muốn quay lại.
- Mình về nhà đây, - anh ta nói. – Kệ xác bọn họ. Tiệc tùng càng dài, kỷ niệm về người quá cố càng qua mau thôi. Mình đã dặn Anka giải thích cho Phalêev rằng cậu nổi điên lên như thế là vì cô ta. Ghen thôi. Vì tốt hơn cả là đừng dây với Phalêev, hắn chắc sẽ không tha cho cậu đâu.
Ngoài phố yên tĩnh, không nghe thấy tiếng chân bước. Đó là vì có tuyết. Serbakov nghĩ ra và mừng vì mình đoán ra được.
- Thế can gì mà hắn sửng cồ lên?
- Bởi vì cậu, đồ gàn ạ. Cậu động đến nguồn gốc sự tồn tại của hắn. Mà câu chuyện đáng ngờ của cậu thì có lợi lộc gì cho Phalêev cơ chứ?
- Nghĩa là cậu cũng không tin?
Anđrianov xoay xoay cái ô, lẩm nhẩm hát:
Em tin, em tin chứ
Bản thân em đã trải nghiệm