← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ BA SẤM KÝ TRẠNG TRÌNH

I. VẤN ĐỀ VĂN BẢN

Tài tiên tri của Trạng Trình đã được nhân dân ta truyền tụng ngay từ khi Trạng còn sống. Nhưng về tư liệu thì xưa nhất chỉ còn lại trong quyển Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề viết sau khi Trạng mất đến 170 năm. Trong sách này có nhiều giai thoại về tài tiên tri của Trạng nhưng còn tập Sấm Trạng Trình thì hoàn toàn không thấy nói đến. Chỉ mãi đến đầu thế kỷ này mới thấy có. Người ta cho rằng đến khi thực dân Pháp triệt phá làng Cổ Am, quê hương Trạng thì tập sấm ký này mới xuất hiện. Những bản chữ Nôm có ghi về sấm Trạng Trình đều là chữ viết tay, có loại do Trường Viễn Đông Bác Cổ trước đây thuê chép. Chúng ta chưa biết những bản này nhập từ nguồn nào và từ bao giờ nhưng trong thư mục Hán Nôm lưu trữ tại Thư viện Khoa học xã hội (Viện Viễn Đông Bác Cổ) và Thư viện Quốc gia Hà Nội thì hiện còn bảy tài liệu chữ Nôm sau đây có sấm Trạng Trình:

1. Bạch Vân Nguyễn Trình Quốc công lục ký, 25 trang chữ Nôm viết tay ký hiệu VNB3.

2. Trạng Quốc công ký, 2 quyển chữ viết Nôm: VHV 1453/b - 36 trang VHV 102 - 32 trang.

3. Trình Quốc công sấm ký, chữ viết Nôm 34 trang: AB345.

4. Trình tiên sinh quốc ngữ, chữ viết Nôm 22 trang: AB444.

5. Sấm ký bí truyền, chữ viết toàn Nôm 34 trang: VHV2261.

6. Thiên nam ngũ Lục ngoại ký, có phụ chép một số câu sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Thượng Thư: AB192.

7. Nhất tích thiên văn gia truyền. VHV1382 có một bài sấm nói là của Trạng Trình.

Về bản chữ quốc ngữ thì bản đầu tiên xuất hiện là năm 1930. Giáo sư Đỗ Văn Hỷ - Viện Văn học - trong tập kỷ yếu Hội nghị Khoa học nhân kỷ niệm 400 năm ngày mất của Trạng, có nói tới “mấy bài văn trường thiên in trong Quốc học tùng thư và chú thích đó là đệ nhất tập - Nam ký thư quán xuất bản tại Hà Nội năm 1930 mà ông chưa tra cứu lại được. Cư sĩ Minh Điền trong cuốn Sấm, xuất bản năm 1948 cũng nói được đọc quyển này do Quốc học tùng san xuất bản.

Chúng tôi có tra cứu lại thì thấy trong quyển Thư mục sử dụng Đông Dương (Bibliographic oe 1’Indochine) là cuốn sách ghi chép đầy đủ nhất toàn hộ các xuất bản phẩm ở Đông Dương trước năm 1935 thì ở tập IV (1931-1935), tác giả Paul Boudet có ghi: Bạch Vân am thi văn tập; văn thơ sấm ký của cụ Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm recucilli par Sở Cuồng - Nam ký thư quán - 1930 - 53 trang - Imp Trịnh Văn Bích - Coll Quốc học tùng san”.

Chắc chắn đây là bản quốc ngữ đầu tiên mà hiện nay chưa tìm lại được.

Sau đó là phụ trương Khoa học huyền bí của tiểu thuyết nhật báo do nhà Mai Lĩnh xuất bản năm 1939 và Đông Tây tiểu thuyết phát hành ở Nam Định số Xuân - 1940 cũng phiên âm, dịch nghĩa và in tập Sấm Trạng Trình.

Ngoài ra, từ năm 1948 đã thấy có những cuốn sau đây:

1. Sấm ký, Nhà xuất bản Đại La, Hà Nội 1948.

2. Sấm Trạng Trình của Cư sĩ Minh Điền, Nhà in Thái Bình, Sài Gòn 1948.

3. Sấm ký, Bùi Xuân Tiến, Nam ký, Hà Nội 1952.

4. Sấm Trạng Trình, Hưng Long thư quán, Hà Nội 1952.

5. Sấm Trạng Trình, Chu Ngọc Chi soạn, Hưng Long, Hà Nội 1954.

6. Trạng Trình, Phạm Văn Giao, Phạm Văn Tươi Sài Gòn xuất bản 1956.

7. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thái Bạch, Sống Mới, Sài Gòn 1957.

8. Đại chiến thế giới thứ ba với Sấm Trạng Trình, Thiệu Nghĩa Minh, Phương Thảo, Sài Gòn 1964.

9. Sấm ký Trạng Trình và Nostradamus, Nguyễn Duy Hinh, Dân trí, Sài Gòn 1963.

10. Nguyễn Bỉnh Khiêm với toàn bài Sấm ký trong cuốn Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển, Trịnh Văn Thanh, Sài Gòn 1966.

11. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, Hoàng Xuân do Anh Phương Sài Gòn in không ghi năm xuất bản nhưng rõ ràng là sau 1954.

12. Bạch Vân quốc ngữ thi tập, Nguyễn Quân, Sống Mới xuất bản, Sài Gòn 1974.

Trong các sách kể trên có một số trình bày đủ một bản sấm, một số khác chỉ trích dẫn từng đoạn. So sánh các văn bản dùng trong các sách trên, chúng tôi thấy sự khác nhau giữa các bản là khá lớn về số câu số chữ cũng như nội dung. Nhiều bản giống với bản ghi trong quyển số 10 kể trên: Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển mà chúng tôi chọn làm bản chính (bản A) với 262 câu.

Các bản khác chúng tôi trích giới thiệu trong phần DỊ BẢN là:

- Bản B của Cư sĩ Minh Điền (bản số 2 kể trên) gồm 487 câu chia làm hai chương. Chương nhất có 280 câu và chương nhì 207 câu, nội dung khác hẳn bản A kể trên.

- Bản С của Nguyễn Quân (bản số 12 kể trên) gồm 107 câu nội dung là một bài sấm ký theo thể thơ hỗn hợp - đa số là lục bát - có tính cách một bài diễn ca lịch sử. Riêng phần mở đầu đã có tới 26 câu giống với bản của Hưng Long thư quán.

II. BẢN А - SẤM KÝ TRẠNG TRÌNH

Đây là bản trích ở quyển Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển (tập 2) của Trịnh Văn Thanh. Bản này ngoài 14 câu “Cảm đề” có 248 câu “Sấm ký” cộng 262 câu. Để tiện việc nghiên cứu, chúng tôi chia 248 câu trong phần “Sấm ký” thành 58 khổ thơ, với 8 khổ 6 câu, còn lại 50 khổ thơ 4 câu và đánh số từ 1 đến 58.

Tám khổ thơ 6 câu là các khổ thứ 1, 6, 10, 19, 23, 31, 34 và 44.

Về thể loại thơ chúng tôi thấy có:

- Thơ 4 chữ: 2 khổ (khổ 2 và 3) với 8 câu.

- Thơ 5 chữ: (khổ 49, 50) với 8 câu.

- Thơ 6 chữ: 1 khổ (khổ 35) với 4 câu.

- Thơ 7 chữ: 5 khổ (khổ 11, 12, 15, 22, 40) với 20 câu.

- Thơ lục bát: 23 khổ (1).

- Thơ song thất lục bát: 13 khổ.

- Và hổn hợp lẫn các thể loại: 4 khổ

Trang 58 thơ trên ta thấy có:

- 7 khổ thơ toàn chữ Hán là các khổ 2, 3, 23, 35, 40, 49 và 50.

- 5 khổ thơ có hai câu thơ chữ Hán là các khổ 4, 5, 6, 27 và 51.

- Các khổ thơ còn lại đều là thơ Nôm (tất nhiên trong đó có lẫn các từ Hán Việt).

CẢM ĐỀ

Thanh nhàn vô sự là tiên,

Năm hồ phong nguyệt ruổi thuyền buông chơi (2)

Cơ tạo hóa,

Phép đổi dời,

Đầu non mây khói tỏa,

Mặt nước cánh buồm trôi.

Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi,

Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời.

Tuổi già thua kém bạn, (3)

Văn chương gởi lại đời.

Dở hay nên tự lòng người cả,

Bút nghiên soi hoa chép mấy lời.

Bí truyền cho con cháu,

Dành hậu thế xem chơi.

SẤM KÝ

1- Nước Nam từ họ Hồng Bàng,

Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi vần.

Tự Đinh, Lê, Lý, Trần thuở trước,

Đã bao lần ngôi nước đổi thay.

Núi sông thiên định đặt bày,

Đồ thư một quyển xem nay mới rành.

(Khổ mở đầu. “Đồ thư” là bản đồ và sách)

2- Hòa đao mộc lạc,

Thập bát tử thành.

Đông a nhật xuất,

Dị mộc tái sinh.

(“Hòa, đao, mộc” là chữ Lê, “lạc” là rơi, ý nói nhà Lê hết. “Thập, bát, tử là chữ Lý, ám chỉ nhà Lý nối tiếp. “Đông a” là chữ Trần. “Dị mộc tái sinh” là cây khác sống lại, ý nói nhà Hậu Lê).

3- Chấn cung xuất nhật

Đoài cung vẫn tinh

Phụ nguyên trì thống,

Để phế vi đinh.

(Nói nhà Nguyễn Tây Sơn xuất hiện (xem giai thoại số 6, mục II)

4- Thập niên dư chiến,

Thiên hạ cửu bình

Lời thần trước đã ứng linh.

Hậu lai phải đoán cho minh mới tường.

(Hơn mười năm chinh chiến, thiên hạ mới được lâu dài yên ổn)

5- Hòa đao mộc hồi dương sống lại

Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương

Hà thời biện lại vi vương,

Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn.

(Thời Trịnh - Nguyễn đánh nhau, Nam Bắc phân tranh, nhà Lê trung hưng, Nguyễn Nhạc lên làm vua (Xem giai thoại 5, mục II)

6- Lê tồn Trịnh tại,

Lê bại Trịnh vong

Bao giờ ngựa đá sang sông,

Thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng.

Hà thời thạch mã độ giang

Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.

(Nói về quan hệ giữa vua Lê và chúa Trịnh. Dân Vĩnh lại cả làng được làm quận công (Xem giai thoại số 6 và số 9, mục I).

7- Chim bàng cất cánh về đâu?

Chết tại trên đầu hai chữ quận công.

Bao giờ trúc mọc qua sông,

Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non tây.

(Về Nguyễn Hữu Chỉnh (Bằng quận công) và chiên thắng Đống Đa lịch sử (Xem giai thoại 6 và 7, mục II).

8- Đoài cung một sớm đổi thay,

Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.

Đầu cha lộn xuống chân con,

Mười bốn nắm tròn hết số thì thôi.

(Vua Quang Trung truyền đến đời vua Cảnh Thịnh, hai đời được mười bốn năm (giai thoại 6, mục II).

9- Phụ nguyên chính thống hẳn hoi,

Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê.

Dục lòng chinh chích u mê

Thập trên tứ dưới: nhất đè chữ tâm.

(Nhà Nguyễn mắc mồi Tây Dương, mất chủ quyền về tay người Pháp và cái chết của vua Dục Đức (xem giai thoại 8, mục II).

10- Để loài bạch quỷ Nam xâm,

Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly.

Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy.

Gia đình một ở ba đi dần dần.

Cho hay những gã công hầu,

Giầu sang biết gửi nơi đâu chuyến này.

(Nhà Nguyễn đưa dân ta vào vòng nô lệ và ba vị vua yêu nước bị đi đày ở Châu Phi (giai thoại 8, mục II)

11- Kia kìa gió thổi lá rung cây.

Rung Bắc rung Nam Đông tới Tây.

Tan tác Kiến kiều An đất nước,

Xác xơ Cổ thụ sạch am mây.

12- Lâm giang nổi sóng mù thao cát,

Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy.

Một ngựa một yên ai sùng bái?

Nhắn con nhà Vĩnh Bảo cho hay.

(Cuộc khởi nghĩa Yên Bái bất thành năm 1930 (giai thoại 1, mục III).

13- Tiền ma bạc quỷ trao tay,

Đồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua.

Giữa năm hai bẩy mười ba,

Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây.

(Các cuộc khởi nghĩa đầu thế kỷ 20 và cái chết của viên toàn quyền Pierre Pasquier (giai thoại 5a, mục III).

14- Rồng nằm bể cạn dễ ai hay,

Rắn mới hai đầu khó chịu thay,

Ngựa đã gác yên không người cưỡi,

Dê không ăn lộc ngảnh về tây.

15- Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu,

Gà kia vỗ cánh chập chùng bay.

Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa,

Ăn no ủn ỉn, lợn kêu ngày.

(Những biến cố trong 8 năm liên tiếp: Thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi).

16- Nói cho hay khảm cung ong dậy,

Chí anh hòa biết đấy mới ngoan

Chữ ràng lục, thất nguyệt gian,

Ai mà giữ được mới nên anh tài.

(Gặp người có đạo đức, nhân chính tự nhiên thì mọi người tin theo không phải vất vả gì).

17- Ra tay điều đỉnh hộ mai,

Bấy giờ mới rõ là người an dân.

Lọ là phải nhọc kéo quân,

Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về.

18- Phá điền than đến đàn dê,

Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng,

Dễ đi dê lại tuồn luồn.

Đàn đi nó cũng một môn phù trì.

19- Thương những kẻ nam nhi chí cả,

Chớ vội sang tất tả chạy rong,

Học cho biết chữ cát hung,

Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi.

Hễ trời sinh xuống phải thì,

Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong.

20- Kìa những kẻ vội lòng phú quý,

Xem trong mình một tí đều không.

Ví dù có gặp ngư ông,

Lưới giăng đâu dễ nên công mà hòng.

21- Khuyên những đứng thời trung quân tử,

Lòng trung nghi nên giữ cho mình.

Âm dương cơ ngẫu hộ sinh,

Thái Nhâm, Thái Ất trong mình cho hay.

(18 - 21) Đoạn này chưa thấy sách nào giải thích cụ thể xem ứng với biến cố nào.

22, 23- Chớ vật vờ quen loài ong kiến,

Hư vô bàn miệng tiếng nói không.

"Ô hô thế sự tự bình bồng,

Nam, Bắc hà thời thiết lộ thông.

Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch,

Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng.

Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,

Ngưu xuất Lam Điền nhật chính Đông.

Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,

Tứ phương thiên hạ thái bình phong”.

(22.23) Xem giai thoại 5e, mục III. Tám câu cuối, ông Ngư Phổ giáo đã dịch nôm như sau:

Than ôi thế sự thật bình bồng! Gà kêu cây ngọc trời nghiêng Bắc.

Nam, Bắc chừng nào thiết lộ thông? Trâu tới Lam Điền bóng rạng Đông

Hồ ẩn trong non, mao thấy trăng Tới lúc ưng về sư tử dậy.

Kình ngoi ngoài biển tuyết loang hồng Thái bình mới tỏa khắp non sông.

24- Ngõ may gặp hội mây rồng,

Công danh rạng rỡ chép trong vân đài,

Nước Nam thường có thánh tài,

Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường?

25- So mấy lề để tàng kim quỹ,

Kể sau này ngu bỉ được coi.

Đôi phen đất lở cát bồi,

Đó đây ong kiến dậy trời quỷ ma.

(24, 25) Chưa thấy tài liệu nào giải thích cụ thể.

26- Ba con đổi lấy một cha,

Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền.

Mão, Thìn, Tý, Ngọ bất yên,

Đợi tam tứ ngũ lai niên cũng gần.

(26) Việc thay dần đồng tiền Khải Định bằng đồng Bảo Đại (giai thoại 5c mục III).

27- Hoành sơn nhất đái,

Vạn đại dung thân.

Đến thời thiên hạ vô quân,

Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành.

(27) Chúa Nguyễn vào Nam củng cố thế lực (giai thoại 7, mục II).

28- Gà kêu cho khỉ dậy nhanh,

Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung.

Thiên sinh hữu nhất anh hùng,

Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà.

(28) Nhà Nguyễn cáo chung (giai thoại 3, mục III).

29- Thái Nguyên cận Bắc đường xa,

Ai mà tìm thấy mới là thần minh.

Uy nghi dung mạo khác hình,

Thác cư một góc kim tinh phương Đoài.

30- Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi

Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân.

Binh thư mấy quyển kinh luân,

Thiên văn địa lý, nhân dân, phép mầu.

31- Xem ý trời ngõ hầu khải thánh,

Dốc sinh ra điều đỉnh hộ mai.

Song thiên nhật nguyệt sáng soi,

Thánh nhản chẳng biết thì coi như tường.

Thông minh kim cổ khác thường,

Thuấn, Nghiêu là trí, Cao, Quang là tài.

(29-31) Một vị thánh nhân sáng suốt mở đường cho dân tộc, đức độ nhan trí như vua Nghiêu, vua Thuấn, tài giỏi như vua Hán Cao Tổ và vua Quang Vũ Đế.

32- Đấng hiên ngang nào ai biết trước,

Tài thao lược yêm bác vũ văn.

Ai còn khoe trí khoe năng,

Cấm kia bắt nọ hung hăng với người.

33- Chưa từng thấy nay đời sự lạ,

Chốc lại mòng gá vạ cho dân.

Muốn bình sao chẳng lấy nhân,

Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình.

34- Đã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán,

Lại đua nhau quần thán đồ lê.

Chức này quyền nọ say mê,

Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương.

Kẻ thì phải thuở hung hoang,

Kẻ thì bận cửa bổng toan, khốn mình.

(32-34) Chưa thấy tài liệu nào giải thích xem ứng với sự kiện gì. Hoàn Dế và Linh Đế là hai vị hôn quân ở cuối đời Đông Hán.

35- Cửu cửu càn khôn dĩ định,

Thanh minh thời tiết hoa tàn,

Trực đáo dương đầu mã vĩ,

Hồ binh bát vạn nhập Trường An.

(35) Tám vạn bộ đội cụ Hồ vào giải phóng Thủ đô (giai thoại 4, mục III)

36- Nực cười những kẻ bàng quan,

Cờ tan lại muốn toan đường chống xe,

Lại còn áo mũ xum xoe,

Còn ra xe ngựa mầu mè khoe khoang.

(36) Nói về những kẻ toan chống lại thời thế

37- Ghê thay thau lẫn với vàng,

Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng.

Thánh ra tuyết tán mây tan,

Bây giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi.

38- Can qua, việc nước bời bời,

Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân.

Oai phong khấp quỷ kinh thần,

Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca.

39- Rừng xanh núi đỏ bao la,

Đông tàn Tây bại sang gà mới yên.

Sửu, Dần thiên hạ đảo điên,

Ngày nay thiên số vận niên rành rành.

(37-39) Chưa thấy có giải thích nào cụ thể.

40- Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,

Can qua xứ xứ khổ đao bình.

Mã đề dương cước anh hùng tận,

Thân, dậu niên lai kiến thái bình.

(40) Bốn câu này được ông Ngự Phủ giáo dịch như sau:

Đuôi rồng đầu rắn nổi chiến tranh

Khắp hòa thiên hạ khổ đao binh

Móng đê chân ngựa anh hùng hết

Thân dậu rồi ra mới thái bình

Nói về cuộc Đại chiến Thế giới Thứ hai (giai thoại 2 mục III).

41- Sự đời tính đã phân minh,

Thanh nhân mới kể chuyện mình trước sau:

Đầu thu gù gáy xôn xao

Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long.

(41) Cách mạng Tháng Tám - 1945 (giai thoại 3, mục III).

42- Chó kêu ầm ĩ mùa Đông,

Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi,

Lợn kêu tình thế lâm nguy,

Quỷ vương chết giữa đường đi trên giời.

(42) Nhà Nguyễn cáo chung.

Hai câu sau có người cho ám chỉ Đại tướng Pháp Leclerc ngộ nạn máy bay chết cháy.

43- Chuột xa chĩnh gạo nằm chơi,

Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra.

Hùm gầm khắp nẻo gần xa,

Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời.

44- Rồng bay năm vẻ sáng ngời,

Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng,

Ngựa hồng quỉ mới nhăn răng,

Cha con dòng họ thấy tăng hết thời.

Chín con rồng lộ khắp nơi,

Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu.

(43, 44) Giặc Pháp bại trận (giai thoại 5d, mục III).

45- Lời truyền để lại bấy nhiêu,

Phương Đoài giặc đã đến chiều bại vong.

Hậu sinh thuộc lấy làm lòng,

Đến khi ngộ biến đường trong giữ mình.

46- Đầu can võ tướng ra binh,

Ắt là trăm họ thái bình âu ca.

Thần Kinh Thái Ất suy ra,

Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn.

47- Ngày thường xem thấy quyển vàng,

Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi.

Bởi Thái Ất thấy lạ đời,

Ấy thuở sấm trời vô giá thập phân.

48- Kể từ đời Lạc Long Quân,

Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian.

Mỗi đời có một tôi ngoan,

Giúp chung nhà nước dân an thái bình.

(45-48) Nói về sự ra đời của bài sấm và dần dần trăm họ thái bình, quốc thái dân an.

49- Phú quý hồng trần mộng,

Bần cùng bạch phát sinh.

Hoa thôn đa khuyển phệ,

Mục dã dục nhân canh.

50- Bắc hữu Kim thành tráng,

Nam hữu Ngọc bích thành.

Phân phân tùng bách khởi,

Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh.

51- Bảo giang thiên tử xuất,

Bất chiến tự nhiên thành.

Rồi ra mới biết thánh minh,

Mừng đòi được lúc hiển vinh reo hò.

(49-51) Cuộc sống dần tới ấm no. Mấy khổ này dịch như sau:

Giầu sang mộng bụi hồng Tuyết rơi tùng bách xanh

Khốn cùng sinh tóc bạc Bối rối thủa đông chinh

Hoa Thôn chó sủa nhiều Bảo giang vua xuất hiện

Trẻ trâu giục người gác Chẳng đánh tự nhiên thành

Bắc có Kim Thành vững Rồi ra mới biết thánh minh

Nam có Ngọc Bích Thành Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò.

52- Nhĩ Hà mật dải quanh co,

Chính thực chốn ấy để đô hoàng bào.

Khắp hòa thiên hạ nao nao,

Cả gặp mưa rào có thích cùng chăng?

(52) Chính Hà Nội (có sông Nhĩ Hà chảy qua) mới là kinh đô.

53- Nói đến độ thầy tăng ra mở nước,

Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu.

Bấy lâu những cậy phép mầu,

Bây giờ phép ấy để lâu không hào.

(53) Nói về thực dân Pháp vẫn tự nhận là bảo hộ khai hóa nhưng do hà hiếp dân ta lại vẫn cậy vào văn minh cơ khí nay đã hết thời, dân tộc ta đã trưởng thành, các thứ ấy khỏng còn hiệu nghiệm nữa.

54- Cũng có kẻ non trèo biển lội,

Lánh mình vào ở nội Ngô, Tề.

Có thầy Nhân Thập đi về,

Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh.

55- Những người phụ giúp thánh minh,

Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai.

Phùng thời nay hội thái lai,

Can qua chiến trận để người thưởng công.

56- Trẻ già được biết sự lòng,

Ghi làm một bản để hòng giở xem.

Đời này những thánh cùng tiên,

Sinh những người hiền trị nước an dân.

(54-56) Thầy Nhân Thập (danh từ riêng) chưa rõ chỉ ai. Hai bên phải trái có người hỗ trợ, cây cỏ cũng thành binh lính. Gặp thời nay tới hội tốt lành rạng rỡ, những chiến công thắng giặc đều được khen thưởng, nhân dân vui sướng.

57- Này những lúc thánh nhân chưa lại,

Chó còn nằm đầu khải cuối thu.

Khuyên ai sớm biết khuông phù,

Giúp cho thiên hạ Đường, Ngu ngõ hầu.

58- Cơ tạo hóa phép mầu khôn tỏ,

Cuộc tàn rồi mới rõ thấp cao.

Thấy sấm từ đây chép vào.

Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.

(57-58) Kết thúc bài Sấm.

Hồi này thánh nhân chưa lại, khuyên mọi người giúp đỡ nhau để thiên hạ thái bình như đời vua Nghiêu nhà Đường và vua Thuấn nhà Ngu.

III. DỊ BẢN

BẢN В: SẤM TRẠNG TRÌNH.

(Trích 50 câu đầu và 30 câu cuối trong số 487 câu trong bản của cư sĩ Minh Điền - 1948).

1. Vận hành mừng gặp tiết lành

2. Thấy trong quốc ngữ tập tành nên câu

3. Một câu là một nhiệm mầu

4. Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao

5. Trái vì sao mây che Thái Ất

6. Thuở cung tay xe Nhật phù lên

7. Việt Nam khởi tổ gây nên

8. Lạc Long ra trị đương quyền một phương

9. Thịnh suy bĩ thái lẽ thường

10. Một thời lại một nhiễu nhương nên lề

11. Đến Đinh Hoàng nối ngôi cửu ngũ

12. Mở bản đồ rũ áo chắp tay

13. Ngự đao một chốc đổi thay

14. Thập bát tử rày quyền đã nổi lên

15. Đông a âm vị nhi thuyền

16. Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh

17. Chấn cung hiện nhật quang minh

18. Sóng lay không chống trưởng thành bền cho

19. Đoài cung vẽ rạng trăng thu

20. Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn

21. Sáng cửu thiên ám vầng hồng nhật

22. Dưới lẫn trên, ăn vẫn uống quen

23. Sửa sang muôn việc cầm quyền

24. Ngồi không ai dễ khẳng nhìn giúp cho

25. Kìa liệt vương khí hư đồ ủng

26. Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn

27. Trời sinh ra những kẻ gian

28. Mặc khôn đổi phép mặc ngoan tham tài

29. Áo vàng ấm áp đã hay

30. Khi sui đắp núi khi sang xây thành

31. Lấy đạt điền làm công thiên hạ

32. Được mấy năm đất lở giếng mòn

33. Con yết ạch ạch tranh khôn

34. Võ già mở hội mông tôn làm chùa

35. Cơ trời xem đã mê đồ

36. Đã đô lại muốn mô đô cho ììgười

37. Ấy lòng trời xui lòng bất nhẫn

38. Suốt vạn dân cưu giận nhau than

39. Dưới trên dốc chí lo toan

40. Những đua bán tước bán quan làm giàu

41. Thống rũ nhau làm mồi phú quí

42. Mấy trung thần có chí an dân

43. Đua nhau làm sự bất nhân

44. Đã tuần rốn bể lại tuần đầu non

45. Dư đồ chia sẻ càn khôn

46. Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau

47. Vội sang giầu giết người lấy của

48. Sự có chăng mặc nọ ai đòi

49. Việc làm thất chính tơi bời

50. Minh ra bỗng lại thấy thôi bấy giờ

…………………

458. Kim kê khai lựu điệp

459. Hoàng cái xuất quí phương

460. Nhân nghĩa thùy vi địch

461. Đạo đức thực dữ dương

462. Tô tuyền nhị thập ngũ

463. Vận khái ngũ viên trường

464. Vận đáo dương đầu ách

465. Chấn đoài cương bất trường

466. Quần gian đạo danh tự

467. Bách tính khổ tai ương

468. Can qua tranh đấu khởi

469. Phạm địch thánh hung hoang

470. Ma vương sát đại quỷ

471. Hoàng thiên tru ma vương

472. Kiền khôn phú tải vô lương

473. Đào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng

474. Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết

475. Đảo hoàn sơn tam biệt ngũ phân

476. Ta hồ vô phụ vô quân

477. Đào viên tán lạc ngô dân thủ thành

478. Đoài phương phước địa giáng linh

479. Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân

480. Phá điền thiên tử giáng trần

481. Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm

482. Trần côn nãi thị phúc tâm

483. Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du

484. Tướng thần hệ xuất Y Chu

485. Thức cơ phục kiến Đường Ngu thị thành

486. Hiệu xưng thiên hạ Thái Bình

487. Đông Tây vô sự Nam thành quốc gia.

Theo thống kê của chúng tôi, bản này chỉ có 22 câu giống bản A: từ câu 374 đến 431, còn lại là khác hoàn toàn.

BẢN С : BẠCH VÂN CA

(Bản của Nguyễn Quân trong Bạch Vân Quốc ngữ thi tập - Sống Mới xuất bản)

1. Nước nam thường có thánh tài,

2. Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường,

3. Kìa Nhị thủy, nọ Dao sơn,

4. Bãi ngọc đất nổi âu vàng trời cho.

5. Học cách vật mới dò tới chốn,

6. Chép ghi làm một bổn xem chơi.

7. Muôn vật cũng bởi tại người,

8. Suy ra mới biết sự đời nhường bao.

9. Dẫu ai có vàng trao ngàn hột,

10. Chẳng báu hơn chữ một nghĩa mười.

11. Tiên Hoàng từ trước mở ngôi,

12. Cờ lau tập trận, thay trời trị dân.

13. Mới được mười hai dư xuân,

14. Lê Hành kế vị xa gần âu ca.

15. Ba mươi năm ngôi nhà được lẻ,

16. Đến Ngọa Triều mới kể tai hay.

17. Ngôi trời để Lý vào thay,

18. Tám cành hoa nở đến ngày dực phân.

19. Chiêu Hoàng là ả Nữ quân,

20. Thấp bề nhan sắc trao Trần Thái Tôn.

21. Thập nhị thế tiếng đồn nhân hậu,

22. Trăm bảy mươi ghi dấu thất niên.

23. Đông a chốn ấy còn bền,

24. Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam.

25. Đại Ngu được mười bốn năm,

26. Hậu Trần nhị đế lại chăm phục hồi.

27. Suy ra mới biết sự trời,

28. Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê gia.

29. Tây Sơn sừng sực kéo ra,

30. Ngẫm xem thế tục gọi là phương ngôn.

31. Đến Phụ nguyên đời còn chinh chiến,

32. Trải bao thu dâu biển cát lầm.

33. Rừng xa vực thẳm nguồn thâm,

34. Nào ai biết lẽ nhân tâm lúc này.

35. Chó mừng chúa gà bày cộc tác,

36. Lợn ăn no tha rác nằm chơi.

37. Đó mới kể là đời thịnh thế,

38. Mà thiên hạ sao xẻ làm hai.

39. Người Đoài cũng thực ấy tài,

40. Mà cho người Sở toan bài lập công.

41. Bởi Trần Vương ngu không kể xiết,

42. Mới phen này dê giết lại dê.

43. Đến khi thực tận binh bì,

44. Âm binh ở giữa dễ thì biết sao.

45. Trời cho ta mang dao chém quỷ,

46. Khắp dưới trời bình trị quỷ hư.

47. Ai từng cứu con thơ sa giếng,

48. Chờ một lòng chinh chiến phá nhau.

49. Muôn dân chịu những âu sầu,

50. Kể dư nhị ngũ mới hầu biết cho.

51. Chốn đông nam là lò khổ ải;

52. Lánh cho xa kẻo phải đao binh.

53. Bắc phương chỉn thực đế kinh,

54. Náu mình chửa dễ náu danh được nào.

55. Vả người là đấng anh hào,

56. Đánh làm sao được ước ao đêm ngày.

57. Ấy những quân đời này thế ấy,

58. Lòng trời xui ai nấy biết đâu.

59. Chớ đừng tham của làm giàu,

60. Tim nơi tam hiểm ngõ hầu bảo thân.

61. Đà giang chốn ấy cũng gần,

62. Kim ngưu chốn ấy cũng phần thuở nơi.

63. Ba Thục riêng một góc trời,

64. Thái nguyên một giải là nơi trú đình.

65. Tứ bề núi đá xanh xanh,

66. Có đường tiểu mạch nương mình ai hay.

67. Bốn bụt xuất thế đã chầy,

68. Chưa chọn được ngày ra cứu nhân dân.

69. Ấy là điềm xuất thánh quân,

70. Hễ ai biết được thì thân mới toàn.

71. Chữ rằng “hữu xạ tự nhiên hương”,

72. Có phải tầm thường thuốc dấu bán sao.

73. Nắng lâu phải có mưa rào,

74. Vội chi tát nước xôn xao cày bừa.

75. Hạn rồi thì phải có mưa,

76. Buồm giương gặp gió cày bừa gặp cơn.

77. Tuần này thánh xuất khảm phương,

78. Sự thật đã tường chẳng lọ phải suy.

79. Quân hùng binh dậy sơn khê,

80. Kẻ khoe cứu nước người khoe trợ đời.

81. Xem thấy những sương rơi tuyết lạnh,

82. Loài bất bình tranh cạnh hung hăng.

83. Một cơn sấm dậy đất bằng,

84. Thánh nhân ra mới cứu hằng sinh linh.

85. Lược thao văn vũ tài tình,

86. Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng.

87. Tam công gặp hội vui mừng,

88. Bõ khi cá nước vẫy vùng biển sông.

89. Bõ khi chém rắn vẽ rồng,

90. Bõ khi non bác ải đông mịt mù.

91. Bõ khi kẻ Việt người Hồ,

92. Bõ khi kẻ Sở người Ngô xa đường.

93. Càn khôn phú tái vô lường,

94. Đào viên đỉnh phát, quần dương tranh hùng.

95. Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết,

96. Đảo Hoành sơn tam liệt ngũ phân.

97. Ta hồ vô phụ vô quân,

98. Đào viên tản lạc ngô dân thủ thành,

99. Đà giang phúc địa giáng linh,

100. Cửu trùng thụy hứng long thành ngũ vân.

101. Phá điền thiên tử giáng trần,

102. Dũng sĩ nhược hải, mưu thần như lâm.

103. Trần công nãi thị phúc tâm,

104. Giang hồ sử sĩ Đào Tiềm xuất du.

105. Tướng thần hệ xuất y, Chu,

106. Thử kỳ phục kiến Đường, Ngu thị thành,

107. Hiệu xưng thiên hạ thái bình.

Bản này so với bản В thì giống nhau ở đoạn cuối: Các câu từ 93 đến 107 của bản giống với các câu từ 472 đến 486 của bản B. So với bản A thì bản С hoàn toàn khác, không một câu nào giống cả.