- 4 -
Cho xe vào ga-ra xong, tôi còn loay hoay hồi lâu ở bên cạnh. Tâm trí tôi căng thẳng đến cực độ. Tôi chỉ nghĩ đến một điều: phải kéo rơ-moóc qua đèo Độ Long. Dù có thế nào cũng mặc, tôi phải làm cho bằng được. Nhưng liệu có ai cho tôi rơ-moóc?
Tôi đi đi lại lại trong sân nghĩ mãi những chuyện ấy. Bấy giờ đã khuya. Duy ở phòng điều vận là còn thấy ánh đèn ở cửa sổ. Tôi dừng lại: phải rồi! Người phụ trách điều vận có thể dàn xếp xong xuôi hết! Hôm nay hình như Kađitsa trực nhật. Càng tốt, Kađitsa sẽ không từ chối. Cô ấy không được từ chối. Mà xét ra có phải tôi định làm việc gì tội lỗi đâu, ngược lại, nếu cô ấy bằng lòng, tức là cô ấy chỉ giúp tôi làm một việc có ích, cần thiết cho mọi người.
Trong khi bước về phía phòng điều vận tôi chợt nghĩ rằng đã lâu tôi không vào cửa phòng như hồi trước, mà chỉ đứng ở ghi-sê. Tôi ngần ngại. Cánh cửa mở ra. Kađitsa đứng trên ngưỡng cửa.
- Tôi đến gặp cô đây, Kađitsa ạ. May mà cô chưa về.
- Tôi đang sắp sửa về đây.
- Thế thì cùng đi, tôi đưa cô về nhà.
Kađitsa ngạc nhiên giương cao đôi mày lên, nhìn tôi có vẻ nghi hoặc, rồi mỉm cười:
- Ta đi thôi.
Chúng tôi ra khỏi trạm xe. Ngoài đường tối mịt. Từ phía hồ vẳng lại tiếng sóng vỗ, gió lạnh thổi vù vù. Kađitsa nắm lấy khuỷu tay tôi, nép người vào tôi cho khuất gió.
- Lạnh à? - tôi hỏi.
- Gần anh thì chẳng sợ chết cóng! - cô ta đùa lại.
Mới phút trước tôi còn lo lắng cuống cuồng lên, mà bây giờ không hiểu sao đã thấy yên lòng.
- Mai cô trực nhật vào lúc nào, Kađitsa?
- Phiên thứ hai. Thế sao?
- Tôi có một việc rất cần. Thành hay bại là tùy cô cả đấy...
Lúc đầu Kađitsa chối quầy quậy, nhưng tôi cứ một mực thuyết phục. Chúng tôi dừng chân cạnh một cột đèn ở góc đường.
- Chao ôi, Ilyax! - Kađitsa lo sợ nhìn vào mắt tôi nói. - Sao anh lại đi bày chuyện ra như thế cho khổ!
Nhưng tôi đã hiểu rằng Kađitsa sẽ làm theo yêu cầu của tôi. Tôi cầm lấy tay cô ta:
- Kađitsa hãy tin tôi! Mọi việc sẽ đâu vào đây cả. Sao, đồng ý chứ?
Kađitsa thở dài:
- Thôi, đối với anh thì còn biết làm thế nào nữa! - đoạn cô gật đầu.
Tôi bất giác ôm choàng lấy vai Kađitsa.
Giá Kađitsa sinh ra làm một chàng gighit thì phải hơn.
- Thôi, đến mai nhé! - tôi siết chặt tay cô. - Đến chiều cô nhớ chuẩn bị giấy tờ cho đủ nhé, hiểu chưa?
- Khoan đã! - Kađitsa thốt lên, không buông tay tôi ra. Rồi cô bỗng quay phắt đi. - Thôi anh đi đi... Hôm nay anh ngủ ở nhà tập thể à?
- Ừ.
- Ngủ ngon nhé!
Hôm sau ở trạm chúng tôi kiểm tra kỹ thuật. Anh em đều lo lắng bứt rứt: mấy ông thanh tra ấy lúc nào cũng đến bất chợt, động tí gì cũng moi móc, cũng lập biên bản. Họ gây ra bao nhiêu chuyện rầy rà, phiền phức. Nhưng các ông tướng ấy thì cứ lạnh như tiền.
Về phần xe tôi thì tôi yên trí lắm, nhưng tôi cứ đứng xa xa làm ra vẻ như đang bận chữa. Phải trì hoãn cho đến phiên Kađitsa trực nhật. Không ai bắt chuyện với tôi, không ai nhắc nhở đến việc hôm qua. Tôi biết các cậu ấy chẳng hơi đâu mà nghĩ đến tôi: ai nấy đều cố sao qua cuộc kiểm tra kỹ thuật cho nhanh để lên đường cướp lại thời gian đã mất. Tuy vậy nỗi uất ức trong lòng tôi vẫn không nguôi.
Quá trưa mới đến lượt tôi kiểm tra kỹ thuật. Các cán bộ kiểm tra đã ra về. Trong trạm bấy giờ im lặng và vắng hẳn đi. Ở cuối sân có mấy cái rơ-moóc để giữa trời. Thỉnh thoảng nó vẫn được dùng khi đi đường đồng bằng, những chuyến vận tải nội địa. Tôi chọn lấy một chiếc kiểu thông thường: một thùng bốn bánh. Bao nhiêu mưu mẹo chung quy chỉ có thế. Có gì đâu mà phải vật vã khổ sở mãi... Lúc ấy tôi chưa biết những gì đang chờ tôi. Tôi bình thản trở về nhà tập thể để ăn cho chắc bụng và ngủ lấy một tiếng đồng hồ cho khỏe: đường đi sẽ khó khăn. Nhưng tôi cứ trằn trọc mãi không chợp mắt được. Khi trời bắt đầu sẩm tối, tôi trở về trạm xe.
Kađitsa đã ở đấy. Mọi thứ đều chuẩn bị xong xuôi. Tôi cầm lấy công lệnh và bước vội ra ga-ra. “Bây giờ bọn mày phải coi chừng!” Tôi mở máy, đánh xe đến chỗ xếp rơ-moóc, cho về số một, bước ra ngoài đưa mắt nhìn quanh. Không có lấy một bóng người. Chỉ nghe tiếng máy tiện chạy rè rè trong xưởng sửa chữa và tiếng sóng dào dạt ở ngoài hồ. Trời có vẻ quang quang, nhưng vẫn không trông thấy sao. Bên cạnh, máy kêu xình xịch khe khẽ, trống ngực tôi hình như cũng hòa theo. Tôi châm thuốc hút nhưng rồi lại vứt ngay: sau hẵng hút.
Ra đến cửa, bác thường trực chặn tôi lại.
- Đứng lại; đi đâu?
- Đi bốc hàng, ắcxakan ạ, - tôi nói, cố làm ra vẻ thản nhiên. - Giấy ra cửa đây.
Ông già chúi đầu vào tờ giấy; dưới ánh đèn lồng ông ta chẳng mò ra được chữ gì.
- Nhanh lên không muộn mất, ắcxakan ạ! - Tôi sốt ruột quá, giục. - Công việc không trì hoãn được đâu.
Việc bốc hàng diễn ra một cách bình thường. Xe chở đến mức tối đa: hai kiện trên thùng xe, hai kiện trên rơ-moóc. Chẳng ai nói gì hết - tôi cũng phải lấy làm lạ. Xe ra đến đường cái rồi tôi mới châm thuốc hút. Tôi ngồi lại cho thoải mái, bật đèn pha lên và thả hết ga. Bóng tối trên đường nghiêng ngả, chập chờn trước mắt tôi. Đường quang, không có gì ngăn trở tôi dận hết tốc lực. Xe chạy bon bon, cái rơ-moóc lịch kịch ở phía sau hầu như không có ảnh hưởng gì. Quả tình ở những chỗ ngoặt, xe hơi láng sang một bên, trả lại có khó hơn nhưng tôi nghĩ đó là vì lâu nay không kéo rơ-moóc; rồi sẽ quen dần thôi. “Nào, tiến lên Độ Long, tiến về Tân Cương!” - tôi tự ra lệnh và cúi lom khom trên tay lái như một kỵ sĩ cúi mình trên bờm ngựa. Trong khi đường còn bằng phẳng phải chạy dấn vào. Tôi trù tính đến nửa đêm sẽ bắt đầu tiến lên chiếm lĩnh Độ Long.
Tôi đã chạy nhanh hơn cả dự tính ít nhiều, nhưng khi bắt đầu vào núi đành phải lái thận trọng hơn. Không phải vì máy không đương nổi sức chở nặng. Những khi lên dốc không khó mấy, xuống dốc mới gay. Cái rơ-moóc cứ chồm chồm trên sườn dốc, kêu ầm ầm, thúc vào chiếc xe, không cho xuống dốc một cách êm thấm; phút phút lại phải sang số, hãm phanh, trả vô lăng. Lúc đầu tôi giữ vững tinh thần, cố không lưu ý tới. Nhưng càng đi lại càng khó, rốt cục tôi bắt đầu hoang mang, cáu kỉnh. Trên đường đi bao nhiêu là dốc lên, dốc xuống, chưa hề có ai nghĩ đến chuyện đếm thử! Nhưng tôi vẫn không nản lòng. Chưa có gì đáng cho tôi phải sợ cả, nhưng sức tôi cứ kiệt dần. “Không sao! - tôi tự an ủi. - Trước khi lên đèo ta sẽ nghỉ một lát. Nhất định sẽ qua được!” Tôi không hiểu tại sao lần này lại vất vả hơn nhiều so với dạo mùa thu, hôm tôi kéo chiếc xe kia.
Đã sắp lên đến đèo Độ Long. Hai luồng ánh sáng của đèn pha lướt trên những vách đá đồ sộ của hẽm núi đen ngòm. Những tảng đá khổng lồ đầu phủ tuyết cheo leo ở trên đường đi. Những bông tuyết lớn chập chờn trước cửa kính. “Hẳn là gió từ trên đèo thổi xuống”, - tôi thầm nghĩ. Nhưng các bông tuyết bắt đầu bám vào cửa kính và từ từ tụt xuống: thế tức là trời đang mưa tuyết. Tuyết không dày lắm, nhưng ẩm ướt. “Chỉ còn thiếu có thế nữa thôi!..” - tôi càu nhàu qua kẽ răng. Tôi cho que gạt kính chạy.
Đã lên đến những đoạn đường dốc đứng của đèo Độ Long. Máy xe bắt đầu điệu hát quen thuộc. Tiếng ro ro đều đều, nhức tai bò dọc đường cái tối tăm. Cuối cùng xe đã lên đến đỉnh dốc. Bây giờ trước mắt còn cả một con đường xuống dốc dài. Máy nấc lên từng đợt. Xe bắt đầu lao xuống. Nó lập tức trùng triềng từ bên này sang bên nọ. Sau lưng, tôi cảm thấy cái rơ-moóc giở chứng lồng lộn lên, thúc vào xe, tôi nghe tiếng xủng xoảng, tiếng sắt nghiến ken két ở chỗ nối rơ-moóc. Cái tiếng ken két ấy như cứa sâu vào lưng tôi, khiến hai bả vai tôi nhức buốt ê ẩm. Bánh xe không chịu ăn phanh nữa, cứ trượt trên lớp tuyết ướt át phủ trên đường. Xe cứ chuồi xuống, cả cái khối nặng rung chuyển nhảy lên chồm chồm, giật vô-lăng ra khỏi tay tôi và toài ra nằm chéo giữa đường. Tôi lái trả lại và dừng xe. Không thể đi được nữa, tôi kiệt sức rồi. Tôi tắt đèn, khóa máy lại. Hai tay tê dại hẳn đi, cứ như tay gỗ. Tôi ngả người vào lưng tựa và nghe thấy tiếng thở khò khè của mình. Tôi ngồi như thế mấy phút cho lại sức, châm thuốc hút. Xung quanh bóng tối dày đặc, im lặng một cách hoang dã. Chỉ có tiếng gió thổi hun hút qua các khe hở của buồng lái. Tôi không dám hình dung đoạn đường phía trước. Từ đây trở đi là những đoạn dốc chữ chi cheo leo trên vực thẳm. Leo những đoạn dốc ngoằn ngoèo vô tận ấy thật là một cực hình cho xe và cho hai bàn tay. Nhưng không thể do dự được nữa, tuyết đang xuống mỗi lúc một dày đặc.
Tôi mở máy. Chiếc xe gầm gừ nặng nề leo lên dốc. Tôi nghiến răng lái một thôi không nghỉ qua các đoạn đường chữ chi, hết đoạn này đến đoạn khác. Đoạn đường chữ chi đã hết. Bây giờ là một đoạn xuống dốc thẳng đứng, rồi đến con đường bằng phẳng, xuống thoai thoải dẫn đến tận chỗ rẽ vào trạm coi đường và sau đó là đỉnh đèo. Tôi khó nhọc lái xuống. Trên con đường thẳng kéo dài khoảng bốn cây số, tôi cho xe lao vun vút và luôn đà phóng lên dốc. Xe leo lên, leo lên nữa... Nhưng chẳng mấy chốc đã hết đà. Xe bắt đầu giảm tốc độ một cách đáng sợ, tôi chuyển sang số hai, rồi số một. Tôi tựa hẳn vào lưng ghế, xiết chặt vô-lăng. Qua một khoảng hở giữa các đám mây, mấy ngôi sao lấp lánh chiếu vào mắt - xe đứng yên không chịu nhích tới nữa. Bánh xe bắt đầu quay không, dạt sang một bên. Tôi dận hết ga.
- Nào, cố lên! Tí nữa thôi! Cố lên! - tôi quát, giọng lạc hẳn đi.
Tiếng máy rên rỉ kéo dài chuyển thành một tiếng sắt rung lanh lảnh, rú lên, rồi tắt hẳn. Chiếc xe từ từ tụt xuống. Hãm mấy cũng không ăn thua nữa. Dưới sức nặng của chiếc rơ-moóc, xe lăn xuống dốc, rồi húc vào đá đứng phắt lại. Xung quanh im phăng phắc. Tôi đẩy cửa xe nhìn ra ngoài. Tôi đoán không sai! Thật đến khổ! Chiếc rơ-moóc đã tụt xuống hố. Bây giờ không có sức mạnh nào có thể lôi nó lên được. Trong cơn hoảng hốt, tôi lại mở máy dấn về phía trước. Bốn bánh xe quay tít, chiếc xe cố sức lên gân, rướn thẳng tới, nhưng không hề nhích lên được chút nào. Tôi nhảy xuống đất chạy đến cạnh rơ-moóc. Bánh nó đã lún sâu xuống hố. Làm thế nào bây giờ? Không suy nghĩ gì hết, như điên như dại, tôi xông vào chiếc rơ-moóc, bắt đầu dùng hai tay và tì cả người vào đẩy. Rồi tôi ghé vai xuống dưới thùng rơ-moóc, gầm lên như con thú dữ, hì hục lên gân đến nỗi đầu buốt như kim châm, cố sức đẩy rơ-moóc lên đường cái, nhưng đẩy làm sao được! Kiệt sức, tôi ngã sấp mặt xuống đất, hai tay cào lớp tuyết lẫn bùn, và khóc lên vì uất ức. Một lát sau tôi đứng dậy, lảo đảo đến ngồi ở bậc xe.
Từ xa vọng lại tiếng động cơ. Hai đốm sáng đang lướt xuống dốc, đi về phía đoạn đường thoai thoải. Tôi không biết người lái xe ấy là ai, tại sao, số phận dun dủi đi đâu mà lại qua đèo vào lúc đêm hôm khuya khoắt như thế, nhưng tôi hoảng lên như thể hai ngọn đèn ấy sắp đang đuổi theo tôi, sắp bắt lấy tôi. Như một thằng kẻ trộm, tôi chạy đến tháo xích móc vứt xuống đất nhảy lên buồng lái và cho xe phóng lên dốc, bỏ chiếc rơ-moóc lại trong hố.
Một nỗi sợ hãi vô lý, rùng rợn đang truy bức tôi. Tôi cứ có cảm giác như chiếc rơ-moóc đang đuổi tới sát gót, sắp kịp đến nơi. Tôi phóng nhanh chưa từng thấy, và sở dĩ không lao xuống vực có lẽ cũng chỉ vì tôi đã thuộc làu đường này.
Gần tảng sáng tôi về đến trạm chuyển tải. Không còn hay biết gì nữa, như một thằng điên, tôi nện cả hai quả đấm lên cửa. Cửa mở, không nhìn Axen, tôi vào nhà, bùn lấm bê bết từ đầu đến chân. Thở hổn hển, tôi ngồi lên một cái gì ươn ướt. Đó là một đống quần áo đã giặt để trên chiếc ghế đẩu. Tôi lục túi tìm thuốc lá. Tay tôi chạm phải chùm chìa khóa xe. Tôi dang tay vứt mạnh sang một bên, gục đầu xuống và ngồi thừ ra, kiệt sức, bẩn thỉu, ngây dại. Đôi chân không của Axen dẫm dẫm bên cạnh bàn. Nhưng tôi biết nói gì với Axen bây giờ? Axen nhặt chùm chìa khóa vứt giữa đất để lên bàn.
- Em lấy nước anh rửa nhé? Nước em hâm từ chập tối, - Axen nói khẽ.
Tôi từ từ ngẩng đầu lên. Axen, người rét cóng, đang đứng trước mặt tôi, mình mặc mỗi chiếc áo sơ-mi, hai cánh tay mảnh dẻ áp trước ngực. Đôi mắt nàng hốt hoảng nhìn tôi, lo lắng và ái ngại.
- Rơ-moóc bị sụp ở trên đèo rồi, - tôi nói, giọng thẫn thờ, không biểu lộ một cảm xúc gì cả.
- Rơ-moóc nào? - Axen không hiểu.
- Chiếc bằng sắt sơn xanh, chiếc số 02-38 ấy! Rơ-moóc nào mà chả thế! - tôi gắt gỏng quát lên. - Anh lấy trộm rơ-moóc em hiểu chưa? Anh lấy trộm.
Axen khẽ kêu lên một tiếng, ngồi xuống mép giường hỏi:
- Nhưng để làm gì?
- Sao, để làm gì à? - tôi nổi cáu lên vì cái óc chậm hiểu của vợ. Anh muốn kéo rơ-moóc qua đèo! Rõ chưa? Anh định chứng minh ý kiến của anh là đúng... Thế rồi anh đã thất bại!...
Tôi lại úp mặt vào lòng bàn tay. Cả hai chúng tôi im lặng một lát. Axen bỗng quả quyết đứng dậy mặc áo.
- Anh còn ngồi đấy làm gì? - nàng hỏi, giọng nghiêm nghị.
- Thế biết làm gì bây giờ? - tôi lẩm bẩm.
- Trở về trạm xe.
- Sao! Không có rơ-moóc ấy à?
- Về đấy anh sẽ nói hết.
- Em nói gì lạ thế! - tôi phát khùng lên, loạng choạng chạy khắp phòng. - Mặt mũi nào mà lôi rơ-moóc về đấy? Ấy, xin lỗi các đồng chí, tôi trót sai lầm, xin các đồng chí tha thứ cho! Bò lê bò la theo họ mà van xin ư? Không đời nào! Họ muốn làm gì thì làm. Nhổ toẹt vào!
Tôi quát to quá làm thằng bé thức giấc. Nó khóc thét lên. Axen bế nó lên, nó lại càng khóc to hơn.
- Anh hèn nhát! - nàng bỗng nói, giọng khẽ nhưng rắn rỏi.
- Sa-a-ao? - Tôi điên tiết xông lại, vung quả đấm lên, nhưng không dám đánh. Đôi mắt nàng mở to vì kinh ngạc đã chặn tay tôi lại. Trong đôi con ngươi của Axen tôi đã trông thấy khuôn mặt dúm dó, khủng khiếp của tôi.
Tôi phũ phàng gạt Axen ra một bên, bước ra khỏi nhà và đóng cửa đánh sầm một tiếng.
Ngoài trời đã sáng hẳn. Dưới ánh sáng ban ngày tôi càng thấy những sự việc xảy ra hôm qua sao mà đen tối, xấu xa, không phương cứu vãn. Hiện nay chỉ có một lối thoát: ít nhất cũng đem đến tận nơi chỗ hàng chở trên xe. Còn sau đó sẽ làm gì nữa thì tôi không biết...
Trên đường về tôi không ghé qua nhà. Không phải vì tôi đã xích mích với Axen, mà vì tôi không muốn giơ mặt ra cho ai thấy hết, tôi không muốn gặp ai hết. Tôi không biết người khác thì thế nào, nhưng riêng tôi thì trong những trường hợp như thế thà cô độc một mình còn hơn. Tôi không muốn bày ra cho người khác thấy nỗi buồn của mình. Ai người ta cần biết đến nó? Có giỏi thì hãy chịu đựng đến cùng cho mọi sự tiêu tan hết...
Tôi nghỉ đêm ở dọc đường, trong quán trọ. Tôi nằm mơ thấy mình đi tìm chiếc rơ-moóc ở trên đèo. Không phải là một giấc mơ thường, mà là một cơn ác mộng. Tôi trông thấy vết bánh xe, nhưng rơ-moóc thì chẳng còn tăm hơi. Tôi vật vã tự hỏi nó biến đi đằng nào, ai kéo nó đi?..
Quả nhiên trên đường về tôi không trông thấy chiếc rơ-moóc ở cái chỗ oan nghiệt ấy nữa. Sau này tôi mới biết Alibêk đã kéo nó về trạm xe.
Sáng hôm sau tôi cũng về trạm. Mấy ngày qua da tôi đen sạm đi; nhìn vào chiếc gương ở trước buồng lái mà không nhận ra mặt mình nữa.
Ở trạm xe cũng như mọi khi, cuộc sống bình thường vẫn trôi qua. Chỉ có mình tôi, như một người ở đâu mới đến, ngần ngừ cho xe chạy vào cổng, lặng lẽ lái vào sân, dừng lại cách ga-ra một quãng xa, trong một góc sân. Tôi không xuống xe ngay. Tôi đảo mắt nhìn quanh một lát. Mọi người ngừng việc ngẩng lên nhìn tôi. Chao ôi, tôi chỉ muốn mở máy cho xe quay lại chạy biến đi đâu thì chạy. Nhưng không còn biết rúc vào đâu nữa, đành phải bước xuống. Tôi cố thu hết nghị lực đi qua sân đến phòng điều vận. Tôi cố làm ra vẻ điềm tĩnh, nhưng thật ra tôi bước như một quân nhân phạm tội ra trước hàng ngũ, tôi biết rằng mọi người đều hầm hầm nhìn theo tôi. Chẳng ai gọi tôi, chẳng ai thèm chào hỏi. Vả chăng giá ở địa vị họ, chắc chắn tôi cũng sẽ làm như thế.
Tôi vấp chân ở ngưỡng cửa, và tim tôi như cũng giật thót lên: tôi đã quên mất Kađitsa, tôi đã báo hại cô.
Trong hành lang, tờ báo tường “Tia chớp” đập ngay vào mắt tôi. Một chữ “Nhục” viết to tướng ở trên báo tường, phía dưới có vẽ một chiếc rơ-moóc bỏ chơ vơ giữa núi...
Tôi quay đi. Mặt tôi nóng ran lên như vừa bị tát. Tôi vào phòng điều vận. Kađitsa đang nói chuyện qua điện thoại.
Trông thấy tôi, cô ta bỏ ống nghe xuống.
- Đây! - tôi ném tờ công lệnh tai hại lên bàn.
Kađitsa ái ngại nhìn tôi. Tôi chỉ mong cô ta đừng bu lu bù loa lên. “Sau hãy hay, bây giờ khoan đã”, tôi thầm van xin Kađitsa. Và Kađitsa cũng hiểu ý, không nói gì hết.
- Ầm ỹ lắm phải không? - tôi hỏi khẽ.
Kađitsa gật đầu.
- Không sao! - tôi nói qua kẽ răng, cố an ủi cô ta.
- Anh bị đình chỉ công tác rồi đấy, - Kađitsa nói.
- Đình chỉ hẳn à? - tôi mỉm một nụ cười mếu máo.
- Ở trên cũng định đình chỉ hẳn, cho về xưởng sửa chữa... Nhưng anh em đã xin hộ... Tạm thời anh bị đưa về đường nội địa. Anh đến gặp đồng chí trạm trưởng đi. Đồng chí ấy gọi đấy.
- Tôi không đến! Cứ để cho họ giải quyết, không cần có mặt tôi. Tôi sẽ chẳng tiếc nuối gì...
Tôi bỏ ra ngoài, cúi đầu bước dọc hành lang. Có ai đi ngược lại phía tôi. Tôi muốn lách sang một bên, nhưng Alibêk đã chặn ngang lối.
- Khoan đã, cậu đứng lại tôi bảo! - Alibêk dồn tôi vào góc tường. Mắt nhìn thẳng vào mắt tôi, anh nói, giọng thì thầm giận dữ rít lên: - Sao, anh hùng nhỉ, chứng minh được rồi chứ? Chứng minh rằng cậu là đồ chó đẻ!
- Mình định làm cho hết sức, - tôi lúng búng.
- Nói láo! Cậu muốn chơi trội. Cậu làm vì cá nhân cậu. Thế là hỏng hết cả việc chung. Bây giờ cứ thử đi mà thuyết là có thể kéo rơ-moóc qua đèo nữa đi! Đồ ngu! Đồ hám danh!
Có lẽ giá phải người khác thì nghe những lời này chắc phải nghĩ lại, nhưng bấy giờ tôi còn bụng dạ đâu nữa: tôi không hiểu gì hết, tôi chỉ thấy mỗi một nỗi uất ức riêng. Tôi mà là một kẻ hám danh, tôi mà lại muốn chơi trội, muốn đi tìm danh vọng? Không đúng chút nào!
- Cậu đi đi! - tôi gạt Alibêk ra. - Không có cậu tớ cũng đã lợm mửa lên rồi.
Tôi bước ra thềm. Một luồng gió lạnh thấu xương quét tuyết bay lất phất trong sân. Mấy người đi ngang qua, im lặng liếc nhìn tôi. Biết làm gì bây giờ? Tôi đút hai bàn tay nắm chặt vào túi quần và đi ra cổng. Những vũng nước đóng băng kêu răng rắc ở dưới chân. Tôi đâm phải một cái hộp đựng dầu nhờn cũ. Tôi lấy hết sức đá mạnh nó qua cổng ra đường và bước ra theo.
Suốt ngày hôm ấy tôi đi lang thang không chủ đích trên các đường phố của thị trấn, thơ thẩn, men theo bến thuyền vắng ngắt. Gió bão thổi trên hồ Ixức-kun, mấy chiếc sà-lan dập dờn dưới bến.
Rồi tôi bỗng bất chợt thấy mình ngồi trong một quán trà. Trên chiếc bàn đặt trước mặt tôi là chai nửa lít vốt-ca đã vơi và một đĩa đồ nhắm gì đấy. Choáng váng ngay từ cốc đầu, tôi thẫn thờ ngồi nhìn xuống chân.
- Sao lại rầu rĩ thế, chàng gighit? - bỗng bên cạnh tôi có ai nói to, giọng niềm nở hơi thoáng ý giễu cợt. Tôi khó nhọc ngẩng đầu lên: Kađitsa.
- Sao, không có bạn uống mất ngon phỏng? - nàng mỉm cười ngồi xuống một bên. Thế thì ta cùng uống nhé!
Kađitsa rót rượu ra hai cốc, đẩy một cốc lại cho tôi.
- Cầm lấy! - cô ta nói và nháy mắt tinh nghịch, làm như thể chúng tôi đã đến đây cốt để ngồi chơi uống rượu.
- Cô vui cái nỗi gì thế? - tôi hỏi, có ý không bằng lòng.
- Thì việc gì mà buồn? Có anh, em chẳng sợ gì cả, Ilyax ạ! Thế mà em cứ tưởng anh vững hơn kia đây. Thôi, chả việc gì mà sợ! - Kađitsa cười khe khẽ, kéo ghế lại gần, chạm cốc, âu yếm nhìn tôi với đôi mắt đen thẫm.
Chúng tôi uống cạn cốc. Tôi châm thuốc hút. Lòng thấy nguôi nguôi, và lần đầu tiên trong ngày hôm ấy, tôi mỉm cười.
- Cô khá lắm, Kađitsa ạ! - tôi nói đoạn siết chặt tay cô ta.
Sau đó chúng tôi ra phố. Trời đã tối. Một cơn gió cuồng dại từ ngoài hồ thổi vào làm rung chuyển cây cối và đung đưa những ngọn đèn treo ngoài đường. Mặt đất như đưa võng dưới chân. Kađitsa nắm tay tôi dắt đi, ân cần bẻ cổ áo lên cho tôi.
- Anh có lỗi với em, Kađitsa ạ! - tôi thốt lên, lòng chan chứa ân hận và biết ơn. - Nhưng anh sẽ không để em bị rầy rà đâu... anh sẽ chịu lấy trách nhiệm...
- Quên chuyện ấy đi, anh yêu! - Kađitsa đáp, - Anh chẳng chịu sống yên ổn gì cả, lúc nào cũng xông xáo, em cứ lo thay cho anh. Chính em trước kia cũng thế. Được đến đâu, hay đến đấy, chẳng bon chen với cuộc đời được đâu... Trêu ngươi số phận làm gì...
- Cũng tùy cách quan niệm! - tôi cãi, rồi ngẫm nghĩ một lát, tôi nói thêm: - Mà có khi em nói đúng cũng nên...
Chúng tôi dừng lại trước căn nhà Kađitsa ở. Cô sống một mình từ lâu. Không biết vì sao cô đã ly dị với người chồng trước.
- Thôi, em đến nhà rồi, - Kađitsa nói.
Tôi ngần ngừ không bước đi ngay. Đã có một cái gì như thể ràng buộc chúng tôi lại. Vả chăng cũng không muốn đi về nhà tập thể bây giờ. Sự thật vẫn hay đấy, nhưng đôi lúc nó đắng cay quá chừng và người ta bất giác cố lẩn tránh nó.
- Lại nghĩ ngợi gì thế, anh yêu? - Kađitsa hỏi. - Mệt à? Hay ngại đi xa?
- Không sao, rồi cũng sẽ lần về đến nơi được. Thôi anh về.
Kađitsa cầm lấy tay tôi.
- Ôi, anh bị cóng rồi còn gì! Đứng đây em ủ cho! - Kađitsa nói, ủ tay tôi vào trong áo măng-tô của cô và lật bật ghì siết vào ngực. Tôi không dám rút tay ra, không dám cưỡng lại cử chỉ âu yếm nồng nàn ấy. Tim Kađitsa đập dưới lòng bàn tay tôi, đập dồn dập như đang đòi hỏi điều mình vẫn hằng mong đợi bấy lâu. Tôi đang say, nhưng chưa đến nỗi không còn hay biết gì. Tôi thận trọng nhấc tay ra.
- Anh đi à? - Kađitsa nói.
- Ừ.
- Thôi, tạm biệt anh! - Kađitsa thở dài và vội quay đi. Trong bóng tối có tiếng cánh cổng đóng sập lại. Tôi cũng đã bỏ đi, nhưng chỉ được mấy bước tôi dừng lại. Tôi cũng chẳng hiểu ra sao, chỉ thấy mình đã lại đứng bên cánh cổng. Kađitsa đang chờ tôi. Cô ôm chầm lấy cổ tôi, ghì thật chật và hôn lên môi tôi.
- Anh đã quay lại! - cô thì thầm, rồi nắm tay tôi dẫn vào nhà.
Đến đêm tôi tỉnh giấc và mãi hồi lâu không tài nào hiểu được mình đang nằm ở đâu. Đầu tôi nhức buốt. Chúng tôi đang nằm cạnh nhau. Kađitsa nửa mình để trần, người nóng hổi, nép sát bên tôi và thở đều đều vào vai tôi. Tôi định đứng dậy, đi khỏi nơi này ngay lập tức. Tôi cựa mình. Kađitsa, mắt vẫn nhắm, lại ôm chặt lấy tôi.
- Anh đừng đi! - cô khẽ van xin. Sau đó cô ngẩng đầu lên nhìn vào mắt tôi trong bóng tối và nói thì thầm từng câu dứt quãng: - Bây giờ em không thể nào sống thiếu anh được rồi... Anh là của em! Từ trước đến nay bao giờ anh cũng vẫn là của em!.. Ngoài ra em không cần biết gì nữa. Chỉ cần anh yêu em là đủ, Ilyax ạ! Em không đòi hỏi gì hơn nữa. Nhưng em sẽ không chịu lùi bước đâu, anh hiểu không, em nhất định sẽ không lùi bước!.. - Kađitsa bật lên khóc, nước mắt chảy ròng ròng trên mặt tôi.
Tôi đã không bỏ đi. Gần sáng chúng tôi ngủ thiếp đi. Khi thức giấc thì ngoài trời đã sáng bạch. Tôi vội vã mặc quần áo. Một cảm giác lạnh buốt, day dứt, đâm nhói vào tim tôi. Tôi vừa đi vừa xỏ tay vào chiếc áo da lông cừu, bước vội xuống sân và lẩn nhanh ra khỏi cổng. Phía trước mặt có một người đội chiếc mũ da cáo đo đỏ xù lông đang đi thẳng lại phía tôi. Ôi, giá mắt tôi có thể bắn ra những luồng đạn! Giantai đang đi làm, nhà hắn ở gần đây. Cả hai chúng tôi đứng ngẩn người ra trong giây lát. Tôi làm ra vẻ như không trông thấy hắn. Tôi quay ngoắt lại và rảo bước về phía trạm xe hơi. Giantai ném theo một tiếng đằng hắng đầy ý nghĩa. Chân hắn bước trên tuyết lạo sạo, không gần lại mà cũng chẳng xa thêm. Chúng tôi cứ đi theo chân nhau như thế về đến tận trạm xe hơi.
Tôi không rẽ vào ga-ra mà đi thẳng đến văn phòng. Trong phòng làm việc của kỹ sư trưởng, chỗ vẫn thường hội ý buổi sáng, đang có những tiếng nói râm ran khẽ vẳng ra. Sao tôi thấy muốn được vào đây thế: giá được ngồi lên một bậu cửa sổ, vắt chéo chân lên châm thuốc hút, nghe anh em lái xe cãi cọ và mắng nhiếc nhau không hề có ác ý. Chưa bao giờ tôi tưởng tượng con người có thể ao ước điều đó thiết tha như vậy. Nhưng tôi không dám vào. Không, quả tình không phải tôi sợ. Lúc này nỗi hằn học, cơn bướng bỉnh đầy ý thách thức, liều lĩnh, bất lực, vẫn sôi sục trong người tôi. Và thêm vào đấy là tâm trạng rối loạn sau cái đêm ở nhà Kađitsa... Mà mọi người tuyệt nhiên chưa hề có ý muốn quên việc thất bại của tôi: chính họ đang bàn chuyện tôi trong phòng ấy. Có ai quát lên:
- Không còn ra thể thống gì nữa! Phải đưa hắn ra tòa mới đúng, đằng này các anh lại cứ xuê xoa! Lại còn cả gan nói là ý kiến hắn đúng nữa chứ! Chiếc rơ-moóc thì vứt lại trên đèo!.
Tiếng một người khác ngắt lời:
- Đúng! Chúng mình đã thừa biết những tay như thế. Thông minh lắm. Muốn làm ầm ĩ lên để lĩnh tiền thưởng, ra cái điều ta đã ra tay giúp cho trạm xe thoát khỏi nước bí đây... Rốt cuộc lại xôi hỏng bỏng không!
Họ bắt đầu cãi nhau ầm ĩ. Tôi bỏ đi: chả nhẽ lại đứng sau cánh cửa mà nghe trộm.
Nghe có tiếng mấy người nói đằng sau, tôi càng rảo bước thêm. Anh em vẫn còn bàn cãi xôn xao, Alibêk đang vừa đi vừa nói rất hăng, hình như đang chứng minh điều gì cho một người nào không rõ:
- Còn các phanh rơ-moóc thì chúng mình sẽ làm lấy ở trạm, bắc tuy-ô từ bộ phận ép hơi ra, đặt má vào, có phải là việc gì khó khăn lắm đâu!.. Ilyax kia hay sao ấy nhỉ? Ilyax, đứng lại đã! - Alibêk gọi tôi.
Tôi cứ thẳng đến ga-ra. Alibêk đuổi kịp, túm lấy vai tôi.
- Rõ đồ quỷ! Cậu hiểu không, thế mà mình cũng đã làm cho các cậu ấy tin rồi đấy. Chuẩn bị đi, Ilyax! Cậu đi với mình làm lái kép nhé? Đi thí nghiệm kéo rơ-moóc!
Nỗi hằn học lại tràn vào lòng tôi: định ra tay cứu giúp, kéo cái thằng bạn bại cuộc này theo đấy. Làm lái kép! Tôi hất tay anh chàng ra khỏi vai:
- Cút mẹ nó đi với thứ rơ-moóc ấy của cậu!..
- Sao lại cáu kỉnh thế? Chính cậu có lỗi... À mà mình quên khuấy mất. Vôlôđka Sưriaev không bảo gì cậu à?
- Không, không gặp. Sao?
- Còn sao nữa! Cậu đi đâu mất tăm thế? Axen cứ đứng chờ ngoài đường, hỏi anh em trạm ta xem cậu đi đâu, đang lo đấy! Mà cậu thì...
Chân tôi muốn khuỵu xuống. Trong lòng bỗng thấy nặng trĩu, ngán ngẩm không sao chịu được, đến nỗi giá được chết ngay đi tại chỗ tôi cũng vui lòng. Alibêk vẫn cứ níu tay áo tôi mà giảng giải về những bộ phận phụ gì lắp thêm vào rơ-moóc... Giantai đang đứng cạnh lắng tai nghe.
- Lui ra! - tôi giật phắt tay lại. - Sao các người cứ bám lấy tôi là cái cóc khô gì? Xin đủ! Đây chẳng cần rơ-moóc nào cả. Và cũng chẳng đi làm kép lái phụ gì hết... Đã rõ chưa?
Alibêk nhíu mày, nghiến răng lại, làm những thớ thịt dưới hai mang tai nổi lên cuồn cuộn:
- Chính cậu bắt đầu, chính cậu làm hỏng việc, rồi chính cậu lại định chuồn trước hả? Có đúng thế không?
- Cậu muốn hiểu thế nào thì hiểu.
Tôi đến cạnh xe, hai tay cứ run bần bật, không còn nghĩ được gì nữa, rồi bỗng dưng nhảy xuống cái hố xây bên dưới xe, nằm vật ra thềm gạch cho mát đầu.
- Này, Ilyax! - có tiếng thì thầm bên tai.
Tôi ngẩng đầu lên: lại ai nữa thế này? Giantai đầu đội mũ lông đang ngồi xổm bên miệng hố trông như một cái nấm, nhìn tôi bằng đôi mắt ti hí xảo quyệt.
- Cậu cho hắn một trận là phải lắm, Ilyax ạ!
- Cho ai?
- Cho Alibêk, cái ông tích cực ấy! Thật như một hòn đá giáng vào giữa hàm răng! Nhà phát minh phải tịt ngay.
- Thì việc gì đến cậu nào?
- Việc gì thì chắc cậu cũng thừa hiểu ra rồi: bọn lái xe chúng mình cần quái gì những cái rơ-moóc ấy. Bọn mình biết thừa là sự thể sẽ như thế nào mà: tăng hiệu suất vận chuyển lên, giảm bớt được chuyến đi, thế là cứ việc nai lưng ra, còn tỷ lệ tiền cước hàng chở một cây số thì họ sẽ hạ xuống, vậy tội gì mà chịu thiệt như thế. Danh giá được một ngày, còn sau đó thì sao? Bọn mình không giận cậu đâu, cậu cứ thế mà...
- Bọn mình là những ai? - tôi cố hỏi cho thật thản nhiên. - Bọn mình đây là cậu à?
- Có phải mình tớ đâu. - Giantai bắt đầu chớp mắt lia lịa.
- Nói láo, đồ trứng rận ghẻ kia! Tao sẽ cứ đi kéo rơ-moóc cho mày biết tay... Có toi mạng thì tao cũng sẽ làm kỳ được. Còn bây giờ cút! Mày sẽ còn biết tay tao!
- Thôi thôi, đừng quá quắt! - Giantai hầm hè đáp. - Tao biết tỏng mày rồi, trong sạch lắm đây... còn về chuyện kia thì một khi còn chơi bời được hãy cứ chơi đi...
- A, cái thằng này!.. - tôi giận quá gầm lên và lấy hết sức tông vào quai hàm hắn.
Giantai đang ngồi như thế nào trên miệng hố, thì cứ thế mà ngã nhào ra. Chiếc mũ lông lăn lóc trên mặt đất. Tôi nhảy ra khỏi hố, chồm lên người hắn. Nhưng Giantai đã đứng lên được, nhảy sang một bên và gào váng cả sân:
- Đồ du côn! Đồ ăn cướp! Muốn đánh nhau à? Sẽ có kẻ trị được mày! Mày tưởng mày có thể tha hồ trút giận lên đầu tao phỏng?..
Người từ bốn phía đổ xô lại, cả Alibêk cũng chạy đến.
- Làm sao thế? Sao cậu lại đánh nó?
- Vì tôi nói sự thật đấy! - Giantai hết sức rống lên, - Vì tôi đã nói thẳng sự thật vào mặt nó!.. Chính mình lấy trộm chiếc rơ-moóc, đánh đổ trên đèo, ỉa bậy ra đấy, đến lúc người ta thực tâm bắt tay vào sửa chữa lỗi lầm thì lại gây sự đánh nhau! Bây giờ thì việc này không có lợi cho hắn mà, đánh sổng mất danh vọng rồi còn gì!
Alibêk đến cạnh tôi, mặt trắng nhợt ra, giận quá nói lắp bắp:
- Đồ khốn nạn! - anh hích vào ngực tôi. - Phá bĩnh, trả thù vì chuyện trên đèo đấy hẳn! Không sao, không có anh chúng tôi cũng vẫn xoay xở được. Chả cần đến các vị anh hùng!
Tôi nín lặng, không đủ sức nói được điều gì nữa. Những lời bịa đặt trắng trợn của Giantai làm tôi đớ người ra không nói được câu nào. Anh em đứng chung quanh hầm hầm nhìn tôi.
Trốn! Phải trốn khỏi nơi này... Tôi nhảy vọt lên xe hơi và phóng ra khỏi trạm.
Dọc đường tôi uống rõ say. Tôi chạy vào một quán nhỏ bên đường: chưa ăn thua gì cả; tôi lại đỗ xe, nốc cạn một cốc đầy. Hơi men bốc lên, những đoạn cầu, những tấm biển tín hiệu và những chiếc xe ngược chiều chỉ còn thấy vút qua loang loáng. Lòng tựa như vui lên. “Chà! tôi nghĩ. Đã đi tong hết thì thôi! Mình còn cần gì nữa, ngồi lái xe thì cứ việc lái đi. Còn Kađitsa... Cô ta thua kém gì mọi người? Trẻ đẹp. Yêu mình tha thiết, chẳng còn tiếc gì... Mình thật đã ngốc lại vô ơn!”
Tôi về đến nhà thì trời đã tối. Tôi đứng trong khung cửa, người lảo đảo. Chiếc áo ngoài đeo một bên vai lủng lẳng sau lưng. Nhiều khi tôi vẫn không xỏ áo vào tay phải, để ngồi lái cho thoải mái. Thuở nhỏ, những khi đi ném đá tôi vốn đã có thói quen như thế.
Axen bổ nhào ra đón tôi:
- Ilyax, anh làm sao thế? - rồi hình như nàng đã đoán được sự tình, - Sao anh cứ đứng đấy thế? Anh bị mệt, lạnh cóng rồi phải không? Cởi áo ngoài ra đi!
Axen toan giúp tôi cởi áo, nhưng tôi lặng lẽ ẩy ra. Phải thật phũ phàng để che đậy nỗi xấu hổ. Tôi loạng choạng bước đi trong phòng, vấp phải cái gì đổ đánh rầm một tiếng, rồi nặng nề rơi phịch xuống ghế.
- Có việc gì thế, anh Ilyax? - Axen lo lắng, nhìn vào đôi mắt say lờ đờ của tôi.
- Sao, còn không biết nữa à? - Tôi cúi đầu: thà đừng nhìn còn hơn. Tôi ngồi yên đợi Axen lên tiếng trách móc, than thân trách phận và nguyền rủa. Tôi sẵn sàng nghe hết, không biện bạch. Nhưng vợ tôi cứ lặng yên như không có mặt trong phòng vậy. Tôi rụt rè ngước mắt lên. Axen đang đứng bên cửa sổ, quay lưng về phía tôi. Và tuy không trông thấy mặt, tôi cũng biết nàng đang khóc. Một niềm xót thương da diết cấu xé lòng tôi.
- Em biết không, anh muốn nói với em, Axen ạ, - tôi ngập ngừng mở đầu. - Anh muốn nói... - Tôi nghẹn ngào không nói được nữa. Tôi không đủ can đảm thú nhận. Không, tôi không thể giáng cho Axen một đòn như vậy được. Tôi thấy ái ngại, mà đáng lẽ không nên như thế mới phải... - Có lẽ chúng mình chưa về làng thăm thầy mẹ được ngay đâu, - tôi nói lảng sang chuyện khác. - Ít lâu nữa hẵng hay. Bây giờ thì chưa nghĩ đến việc ấy được...
- Chúng mình hoãn lại vậy, chẳng đi đâu mà vội... - Axen đáp, lau nước mắt và đến bên tôi. - Giờ đây đừng nghĩ đến việc ấy nữa, Ilyax ạ. Rồi sẽ êm đẹp cả thôi. Anh nên nghĩ đến mình thì hơn. Anh bỗng đâm ra khác thường thế nào ấy. Em không nhận ra anh được nữa, Ilyax ạ.
- Thôi được rồi! - tôi ngắt lời Axen, lòng tức giận vì đã tỏ ra hèn yếu. - Anh mệt lắm, muốn ngủ một tí.
Hôm sau trên đường về tôi gặp Alibêk ở bên kia đèo. Anh ta kéo theo chiếc rơ-moóc. Đèo Độ Long đã phải khuất phục.
Trông thấy tôi, Alibêk nhảy ra khỏi buồng lái trong khi xe vẫn chạy, giơ tay lên vẫy. Tôi cho xe chạy chậm lại, Alibêk đứng trên đường, gương mặt hớn hở đắc thắng.
- Chào cậu, Ilyax! Xuống đây hút thuốc đã, - anh ta gọi.
Tôi hãm xe lại. Trong buồng xe Alibêk có một cậu lái kép trẻ măng ngồi sau tay lái. Bánh xe được quấn những sợi xích vặn chéo lại. Chiếc rơ-moóc có lắp phanh hơi. Điều đó tôi trông thấy ngay. Nhưng không, tôi chẳng dừng lại. Anh thành công ư? Hay lắm! Còn tôi thì xin đừng đụng đến.
- Đỗ lại, đỗ lại! - Alibêk chạy theo tôi, - Tớ có việc bảo cho cậu, dừng lại, Ilyax! Chà, thằng quỷ, làm sao thế?.. Thôi được...
Tôi phóng xe đi. Kêu thì cứ việc kêu. Tôi với anh không còn có việc gì nữa hết. Việc của tôi hỏng bét từ lâu rồi. Tôi đã đối xử không hay, tôi đã để mất Alibêk, người bạn tốt nhất của tôi. Vì Alibêk đúng, đúng hoàn toàn, giờ thì tôi đã hiểu. Nhưng lúc ấy tôi không thể dung thứ được: Alibêk đã thành công một cách quá nhanh chóng và đơn giản trong khi tôi phải căng thẳng tột độ tốn bấy nhiêu hơi sức, bấy nhiêu tinh lực mà vẫn không xong.
Alibêk xưa nay vẫn là người chín chắn, biết suy nghĩ. Anh không đời nào đi vượt đèo kiểu du kích như tôi. Mang theo lái kép đi cũng là rất đúng. Dọc đường hai người có thể thay nhau lái, để đến khi vượt đèo sức vẫn còn nguyên. Trên đèo thì máy xe, ý chí và bàn tay con người quyết định tất cả. Hơn nữa Alibêk cùng với tay lái kép lại đã giảm thời gian vận chuyển xuống gần một nửa. Tất cả những điều đó anh đều suy tính. Anh lắp vào rơ-moóc những chiếc phanh ăn vào buồng hơi ép ở máy xe và cũng không quên những sợi xích tầm thường nhất, đem quấn vào hai bánh phát động. Nói chung anh đã vũ trang đầy đủ để chiến đấu với đoạn đường đèo, chứ không hò hét xông bừa ra trận địa.
Sau Alibêk, những người khác cũng bắt đầu kéo theo rơ-moóc. Vì bất cứ việc gì, cái chính vẫn là khi khởi sự. Trong khi ấy số xe cũng được tăng lên: trạm bên cạnh đã gửi đến giúp thêm. Con đường cái Thiên Sơn ầm ì tiếng bánh xe hơi suốt ngày suốt đêm trong một tuần rưỡi. Tóm lại, tuy gặp khó khăn, chúng tôi cũng đã thực hiện được đúng hạn lời đề nghị của nhà máy điện, không lỡ việc. Tôi cũng góp sức vào đấy...
Giờ đây, qua bấy nhiêu năm trời và mọi việc đã lắng vào dĩ vãng, tôi kể lại chuyện đó một cách bình thản như thế này, nhưng trong những ngày sóng gió ấy, tôi đã không ngồi được vững trên yên. Tôi đã không biết cầm cương cuộc sống...
Nhưng để tôi kể tiếp cho tuần tự.
Sau khi gặp Alibêk, tôi về đến trạm xe thì trời đã tối. Tôi đi bộ về nhà tập thể, nhưng dọc đường lại rẽ vào quán rượu. Suốt mấy ngày ấy tôi cứ muốn uống cho thật say mềm để quên hết mọi sự đời mà ngủ như chết, một ý muốn điên cuồng, phi nhân tính, không tài nào cưỡng lại được. Uống đã nhiều mà rượu vốt-ca vẫn như không có tác dụng gì cả. Tôi bước ra khỏi quán, lòng càng thêm bực tức, trí óc càng thêm rối loạn. Tôi đi lang thang khắp thành phố giữa đêm khuya, và không còn ngần ngại gì nữa, tôi rẽ ra phố Bờ sông đến nhà Kađitsa.
Sự việc cứ thế mà tiếp diễn. Tôi cuống cuồng lên như người rơi vào giữa hai luồng đạn. Ban ngày đi làm, ngồi sau tay lái, rồi đêm đêm lại lập tức đến với Kađitsa. Ở bên Kađitsa tôi thấy thoải mái, yên tâm hơn. Tôi như đang trốn tránh chính mình, trốn mọi người và trốn lẽ phải. Tôi cảm thấy như chỉ có Kađitsa mới hiểu tôi và yêu tôi. Về đến nhà là tôi lại cố bỏ đi cho mau. Axen, Axen yêu quý của tôi! Giá Axen biết được rằng chính lòng tin cậy, chính tâm hồn trong trắng của nàng đã xua đuổi tôi đi! Tôi không lòng nào lừa dối, biết rằng mình không xứng đáng với Axen, không đáng hưởng những gì nàng đã làm cho tôi. Mấy lần tôi về đến nhà say bí tỉ. Thế mà Axen cũng không hề có lấy một lời trách móc. Cho đến nay tôi vẫn không sao hiểu được: đó là vì thương hại, vì nhu nhược, hay trái lại, vì kiên nghị và tin tưởng ở con người? Phải, tất nhiên là Axen đã chờ đợi, đã tin tưởng rằng tôi sẽ tự chủ, sẽ chế ngự được mình và trở thành con người như trước. Nhưng giá Axen cứ chửi mắng, bắt tôi phải thực thà nói hết sự thật ra còn hơn. Có lẽ nếu Axen biết tôi không phải chỉ bị những nỗi buồn phiền trong công tác giày vò mà thôi, thì nàng đã bắt tôi phải nói rõ ngọn ngành. Axen đã không hình dung được những gì đã xảy ra với tôi trong những ngày ấy. Còn tôi thì cứ thương hại nàng, lần lữa gác mãi chuyện này sang hôm sau, đến bận khác, thế rồi chẳng kịp làm được điều tôi có bổn phận phải làm vì Axen, vì tình yêu của chúng tôi, vì gia đình chúng tôi...
Lần cuối cùng Axen gặp tôi nàng vui mừng, phấn chấn. Má nàng ửng hồng, mắt nàng sáng long lanh. Mặc dù tôi còn mặc áo ngoài và đi ủng, Axen cũng cứ lôi thẳng tôi vào phòng trong.
- Xem kìa, anh Ilyax! Xamát đứng được rồi!
- Thế à! Nó đâu?
- Dưới gầm bàn kia kìa!
- Nó đang bò dưới đất đấy chứ.
- Rồi anh xem! Nào con, đứng lên cho ba xem! Nào, đi, đi Xamát!
Xamát hình như cũng hiểu được là mọi người đang muốn nó làm gì. Nó vui vẻ bò ra khỏi gầm bàn, vịn vào thành giường, khó nhọc đứng lên. Nó đứng một lúc, mỉm cười gan dạ, loạng choạng trên đôi chân mềm mại, bé tí, rồi ngã bổ chửng xuống nền nhà, môi vẫn nở nụ cười gan dạ như cũ. Tôi nhảy tới, bế xốc nó lên xiết chặt vào người và hít lấy hít để mùi sữa thơm thơm trên da thịt nó. Cái mùi mới thân thuộc làm sao, thân thuộc như Axen vậy.
- Anh làm con chết ngạt mất, Ilyax, cẩn thận chứ! - Axen bế lấy thằng bé. - Sao, anh bảo thế nào? Anh cởi áo ngoài ra đi. Nó sắp lớn đến nơi rồi, bấy giờ thì mẹ nó cũng sẽ đi làm việc. Mọi việc sẽ ổn thỏa, tất cả sẽ tốt đẹp. Đúng thế phải không nào, con nhỉ? Còn anh thì cứ... - Axen nhìn tôi, đôi mắt buồn buồn và tư lự. Tôi ngồi xuống ghế. Tôi hiểu rằng vợ tôi đã dồn tất cả những điều muốn nói, tất cả những gì tích tụ lại trong lòng suốt những ngày vừa qua vào mấy lời ngắn ngủi ấy. Đó vừa là lời cầu mong, vừa là lời trách móc, vừa là niềm hy vọng. Giờ đây tôi phải lập tức kể cho vợ tôi nghe hết mọi sự hoặc là bỏ đi ngay. Thôi, thà đi còn hơn. Axen đang vui sướng lắm, nàng không hề hay biết gì cả. Tôi rời ghế đứng dậy.
- Anh đi đây.
- Anh đi đâu bây giờ? - Axen giật mình. - Hôm nay mà anh cũng không ở nhà ư? Không thì cũng uống nước đi đã chứ.
- Không được. Anh phải đi, - tôi lẩm bẩm. - Mình cũng biết đấy, công việc bây giờ như thế...
Không, không phải công việc đã thúc bách tôi ra khỏi nhà. Mãi đến sáng mai tôi mới phải lên đường.
Leo lên buồng lái, tôi gieo mình rơi phịch xuống đệm và rên lên vì đau khổ, loay hoay mãi không cắm được chìa khóa vào ổ mở điện. Sau đó tôi đánh xe ra đường và phóng đi cho đến khi khuất hẳn những ánh đèn trên các cửa sổ. Đến chỗ hẽm núi ngay bên kia cầu, tôi lái sang vệ đường, đánh xe vào giữa những bụi rậm và tắt đèn pha đi. Tôi quyết định ngủ lại đây. Tôi rút thuốc lá ra. Trong hộp diêm chỉ còn lại mỗi một que. Nó bùng lên trong khoảng khắc rồi vụt tắt. Tôi lẳng cả hộp diêm lẫn thuốc lá ra cửa sổ, kéo chiếc áo ngoài trùm đầu và co chân lên nằm còng queo trên ghế.
Mặt trăng rầu rĩ treo trên những triền núi tối tăm lạnh lẽo. Gió trong hẽm núi buồn bã rít lên từng hồi, lay động cánh cửa buồng lái khép hờ khiến nó kêu cót két. Chưa bao giờ tôi cảm thấy thấm thía cảnh trơ trọi một mình, xa cách mọi người, xa cách gia đình và bè bạn ở trạm xe đến thế. Không thể tiếp tục sống thế này được nữa. Tôi tự hứa: hễ về đến trạm tôi sẽ gặp Kađitsa ngay, xin cô tha thứ cho tôi và quên đi hết những gì đã có giữa hai người. Như vậy ngay thật và phải lẽ hơn.
Nhưng cuộc sống đã xoay vần cách khác. Tôi không ngờ, không hề nghĩ rằng sự thể lại xảy ra như thế. Sáng hôm sau nữa tôi mới quay về trạm chuyển tải. Không có ai ở nhà, cửa để ngỏ. Thoạt tiên tôi tưởng Axen vừa chạy đi xách nước hay lấy củi ở đâu đấy. Tôi nhìn quanh. Trong phòng đồ đạc ngổn ngang. Chiếc bếp lò đen sì nguội ngắt tỏa ra một mùi lạnh lẽo hoang vắng. Tôi bước lại chiếc giường con của Xamát: chiếc giường trống không.
- Axen! - tôi hoảng hốt thì thầm. - Axen! - bốn bức tường thì thầm đáp lại.
Tôi cắm đầu lao ra cửa.
- Axen!
Không một ai thưa. Tôi chạy sang các nhà bên cạnh, đến cột bơm xăng: chẳng ai hiểu đầu đuôi ra sao cả. Họ nói hôm qua vợ tôi đi đâu cả ngày, gửi thằng bé ở nhà người quen, mãi đến đêm mới về. “Bỏ đi rồi, biết chuyện rồi!” - tôi giật thót người lên vì điều phỏng đoán khủng khiếp ấy.
Có lẽ chưa bao giờ tôi phải lao xe đi trên triền núi Thiên Sơn như cái ngày oan nghiệt ấy. Tôi luôn luôn tưởng chừng như sắp đuổi kịp Axen ở sau chỗ ngoặt phía trước, hay trong hẽm núi xa xa kia, hoặc ở nơi nào đó dọc đường. Như một con chim ưng, tôi phóng theo các xe đi trước, hãm lại, chạy ngang hàng, đưa mắt nhìn vào buồng lái, thùng xe rồi lại dận hết ga vọt lên trước, giữa những tiếng chửi rủa của các tay lái xe ném theo sau. Tôi cứ lao đi như thế ba tiếng đồng hồ liền không nghỉ, mãi cho đến khi nước trong két sôi lên sùng sục mới thôi. Tôi nhảy ra khỏi buồng lái, vốc tuyết ném lên két nước và rót thêm nước vào. Két nước bốc hơi nghi ngút, chiếc xe thở ra như một con ngựa vừa rong ruổi đường xa. Tôi vừa định ngồi vào lái thì bỗng trông thấy chiếc xe của Alibêk đang kéo rơ-moóc. Tôi mừng quá. Tuy tôi với anh ta lâu nay không chuyện trò và chào hỏi gì nhau, nhưng nếu có Axen ở đằng ấy thì thế nào anh ta cũng nói. Tôi chạy ra giữa đường giơ tay lên:
- Đỗ lại, đỗ lại, Alibêk! Dừng lại!
Người lái kép đang ngồi sau vô-lăng đưa mắt hỏi Alibêk. Anh hầm hầm quay mặt đi. Chiếc xe chạy vụt qua. Tôi cứ đứng trên đường, mình đầy bụi tuyết, tay vẫn giơ cao. Mãi hồi lâu tôi mới bỏ tay xuống lau mặt. Biết làm thế nào được, có vay thì có trả. Nhưng tôi chẳng còn bụng dạ nào mà bực tức nữa. Như vậy nghĩa là Axen không đến đấy. Thế lại càng nguy hơn. Vậy thì Axen đã về làng, ngoài ra chẳng còn đi đâu được nữa. Axen làm thế nào bước qua được ngưỡng cửa nhà bố mẹ, nàng đã nói được những gì? Và gia đình đã nhìn nhận sự trở về nhục nhã của nàng ra sao? Về một mình, tay bế con thơ!
Phải về làng ngay mới được.
Tôi hối hả dỡ hàng rồi để xe ngoài đường, chạy vào phòng điều vận nộp giấy tờ. Trong phòng thường trực, tôi vấp phải Giantai, chà, nụ cười khẩy của hắn mới trâng tráo, khả ố làm sao!
Kađitsa nhìn tôi một cách lạ lùng khi tôi thò đầu vào cửa ghi-sê ở phòng điều vận và ném giấy tờ lên bàn.
Có điều gì lo lắng, ân hận thoáng hiện trong mắt cô.
- Nhận đi, mau lên! - tôi nói.
- Có việc gì thế?
- Axen không có nhà. Bỏ đi rồi!
- Anh nói gì thế? - Kađitsa tái mặt đi, đứng nhổm dậy từ sau bàn giấy và cắn môi, thốt ra: - Tha lỗi cho em, Ilyax! Chính em đã... đã...
- Thế nào, em cái gì? Nói cho có đầu có đuôi, kể hết ra xem nào! - tôi lao vào trong cửa.
- Chính em cũng không biết mọi sự đã xảy ra thế nào. Em nói thật đấy, Ilyax ạ. Hôm qua bác thường trực đến gõ vào cửa sổ bảo có cô nào muốn gặp em. Em nhận ngay ra Axen. Chị ấy lặng lẽ nhìn em rồi hỏi: “Có thật thế không?”. Còn em, em bỗng không còn biết gì nữa, buột ra: “Phải, có như thế. Tất cả đều có thật. Anh ấy ở với tôi đấy!” Chị ấy vụt lùi ra xa cửa sổ. Em thì ngã gục xuống bàn khóc nức lên, nhắc đi nhắc lại như một con ngốc: “Anh ấy là của tôi! Của tôi!” Em không gặp lại chị ấy nữa... Tha lỗi cho em!
- Khoan đã, sao Axen biết được?
- Đó là tại Giantai. Chính tại hắn, hắn vẫn thường dọa em. Chả nhẽ anh lại còn không biết rõ cái thằng khốn nạn ấy nữa! Anh đi đi, Ilyax, về với Axen, tìm chị ấy đi. Em sẽ không quấy rầy hai người nữa, em sẽ bỏ đi nơi khác...
Chiếc xe đưa tôi đi trên cánh thảo nguyên đang giữa mùa đông. Mặt đất tê cóng lại, một màu xám ngắt. Gió uốn quăn nhưng bụi cây lòa xòa trên các đống tuyết như bờm ngựa, lôi từ dưới các con mương lên những chiếc hoa cù gai* vô gia cư và lùa chúng đi. Xa xa, những bức tường đất dãi dầu mưa gió và các khu vườn trơ trụi trong làng vẽ thành những vệt đen xẫm.
Vào khoảng chập tối, tôi về đến làng. Tôi dừng xe bên cái sân quen thuộc, vội vàng châm thuốc lá hút lấy hút để, hòng xoa dịu nỗi lo âu, đoạn dập tắt đầu mẩu rồi bấm còi. Nhưng Axen chẳng thấy đâu, chỉ thấy mẹ nàng khoác chiếc áo bông lên vai bước ra. Tôi bước ra bậc xe khẽ nói:
- Chào mẹ!
- A, ra mày còn dám vác mặt đến đây? - bà đáp, vẻ dữ tợn. - Và sau những việc như thế mà mày còn dám gọi tao là mẹ nữa ư? Cút đi, cút ngay cho rảnh mắt! Quân đầu đường xó chợ! Mày đã quyến rũ con tao, bây giờ lại còn đến đây! Đồ mặt dày mày dạn! Mày đã làm hại cả đời chúng tao...
Bà cụ không để cho tôi kịp mở miệng ra nữa. Bà cụ không ngớt mồm chửi bới, mắng nhiếc tôi hết sức nhục nhã. Nghe tiếng bà cụ, người lớn trẻ con từ các sân nhà bên cạnh bắt đầu chạy sang.
- Xéo đi ngay, không thì tao gọi làng nước đến bây giờ! Mày thật đáng nguyền rủa! Đừng để tao nhìn thấy mặt mày lần nào nữa! - người đàn bà đang cơn giận dữ xông đến gần tôi, ném chiếc áo bông xuống đất.
Tôi không còn cách gì khác là ngồi vào tay lái. Phải đi thôi, một khi Axen cũng không còn muốn nhìn mặt tôi nữa. Sỏi đá và gậy gộc ném tới tấp vào xe. Đó là lũ trẻ con tiễn tôi ra khỏi làng...
Đêm hôm ấy tôi đi lang thang mãi trên bờ hồ Ixức-kun. Mặt hồ tràn ngập ánh trăng, đang nổi sóng cuồn cuộn. Ôi Ixức-kun! Từ ngàn xưa nước hồ vẫn ấm áp, nhưng đêm ấy hồ đã trở nên giá buốt lạnh lùng. Tôi ngồi trên đáy một con thuyền lật sấp. Từng đợt sóng hung hăng tràn lên bãi cát, xô vào cổ giày ủng và rút đi với một tiếng thở dài nặng trĩu...
...Có ai bước đến bên cạnh, nhẹ nhàng đặt tay lên vai tôi: đó là Kađitsa.
*Mấy ngày sau chúng tôi ra đi về Frunze, xin được vào một đội đi thăm dò những cánh đồng cỏ có thể khai khẩn để chăn nuôi súc vật ở thảo nguyên Anarkhai. Tôi làm lái xe còn Kađitsa làm công nhân. Thế là đã bắt đầu một cuộc sống mới.
Chúng tôi đã cùng đội thăm dò đi sâu mãi vào trong lòng thảo nguyên Anarkhai, đến tận vùng ven hồ Bankhas. Đã đoạn tuyệt với dĩ vãng thì phải đoạn tuyệt đến cùng.
Thời gian đầu tôi lao vào công tác để dập tắt nỗi buồn. Mà việc ở đấy thì không phải là ít. Chúng tôi đã lăn bánh ngang dọc khắp vùng Anarkhai mênh mông hơn ba năm, khoan giếng, mở đường, đặt trạm. Tóm lại, bây giờ nơi đây không còn là miền Anarkhai hoang dại khi xưa, nơi giữa ban ngày cũng có thể lạc lối và lang thang cả tháng giời trên vùng thảo nguyên mọc đầy ngải đắng, ngổn ngang những gò, đụn. Bây giờ nơi đây đã là một vùng chăn nuôi súc vật có nhiều trung tâm văn hóa và những ngôi nhà đầy đủ tiện nghi... Người ta đang gieo lúa mì và dự trữ cả cỏ khô nữa. Công việc trên Anarkhai đến nay cũng vẫn còn ùn ra, nhất là đối với dân lái xe chúng tôi. Nhưng tôi đã quay về. Không phải vì tại ở các vùng đất vẫn còn hoang vắng quá ư gian khổ, chuyện đó chỉ là tạm thời thôi. Tôi với Kađitsa không hề sợ khó khăn và phải nói rằng chúng tôi sống với nhau cũng không đến nỗi tồi tệ, biết trọng nể nhau. Nhưng trọng nể là một chuyện, mà tình yêu lại là chuyện khác. Dù cho một người có yêu, nhưng người kia không yêu lại thì theo tôi đó chưa phải là một cuộc sống thật sự. Không biết có phải con người vốn dĩ như thế, hay do bản chất tôi như vậy, nhưng tôi cứ luôn luôn thấy thiếu một cái gì. Và dù công tác, tình bạn, lòng tốt hay sự chăm sóc của một người đàn bà yêu mình, cũng đều không đền bù lại được sự thiếu thốn ấy. Đã từ lâu tôi vẫn âm thầm ân hận rằng mình bỏ đi quá hấp tấp, không thử cố gắng lần nữa để lấy lại được Axen. Và trong nửa năm trời sau cùng tôi đã thực sự thấy nhớ vợ nhớ con. Đêm đêm tôi không ngủ. Tôi mường tượng thấy Xamát đang mỉm cười, đứng không vững trên đôi chân nhỏ xíu còn yếu ớt, mùi sữa thơm tho trên người nó dường như đã thấm vào tôi suốt đời. Tôi chỉ muốn về với những ngọn Thiên Sơn thân thuộc, với hồ nước Ixức-kun xanh biếc của tôi, với dải thảo nguyên dưới chân núi, nơi tôi đã gặp được mối tình đầu và cũng là mối tình cuối cùng của tôi. Kađitsa biết thế, nhưng không hề trách móc gì tôi. Cuối cùng chúng tôi đã hiểu ra rằng không thể cùng sống chung được nữa.
Mùa xuân năm ấy đã về rất sớm trên vùng Anarkhai. Tuyết tan nhanh chóng để lộ ra những ngọn đồi xanh rờn, bắt đầu đâm chồi nảy lộc. Thảo nguyên đang sống lại, hút lấy hơi ấm và khí ẩm. Đêm đêm không khí trở nên trong suốt, bầu trời vằng vặc những vì sao.
Hai chúng tôi nằm trong chiếc lều bên cạnh tháp khoan, trằn trọc mãi không ngủ được. Bỗng trong cảnh tĩnh mịch của thảo nguyên không biết từ nơi nào có tiếng còi xe lửa xa xôi vẳng lại. Khó lòng nói rõ làm sao tiếng còi lại vẳng đến tận đây được. Từ đây ra đến đường xe lửa phải mất nửa ngày đi xe trên thảo nguyên. Hay là tôi mường tượng ngỡ chừng nghe thấy thì không biết. Chỉ biết là tim tôi bỗng bồi hồi xao xuyến và giục giã lên đường. Tôi nói:
- Tôi sẽ đi, Kađitsa ạ.
- Phải đấy, anh Ilyax. Chúng mình đành phải chia tay, - cô đáp.
Thế rồi chúng tôi chia tay nhau. Kađitsa lên vùng Bắc Cadắcxtan, nơi đang khai hoang.
Tôi rất mong cho Kađitsa được hạnh phúc. Tôi muốn tin rằng cuối cùng cô sẽ gặp được con người đang đi tìm cô mà không biết. Cô đã chẳng được may mắn với người chồng trước, cuộc sống với tôi cũng lại không thành. Giá tôi chưa từng biết thế nào là một tình yêu thực sự, thế nào là yêu và được yêu thì tôi đã ở lại với Kađitsa rồi. Quả tình đó là một điều khó lòng giải thích nổi.
Tôi đánh xe cho Kađitsa ra ga xép, đưa cô lên xe lửa. Tôi chạy theo bên toa xe cho đến khi xe chạy nhanh quá phải tụt lại sau. “Lên đường may mắn nhé, Kađitsa, có nhớ lại thì đừng nghĩ tệ cho tôi nhé!..” - tôi thì thầm lần cuối cùng.
Đàn sếu bay trên miền Anarkhai về phương nam, còn tôi lên đường về miền bắc, về Thiên Sơn...