- 6 -
Ngoài cửa sổ, vầng trăng trôi bềnh bồng, khi hiện khi ẩn trong những đám mây đen đang kéo tới.
Sáng sớm khi Axen và Baitêmir ra sân sửa soạn nấu nướng thì tôi cũng dậy. Đã đến lúc phải đi rồi. Tôi rón rén bước đến cạnh giường Xamát, hôn thằng bé và vội vàng ra khỏi buồng.
Ngoài sân, Axen đang đun nước trong một cái nồi lớn bắc trên mấy hòn đá. Baitêmir đang bổ củi. Tôi cùng anh ta đi ra chỗ xe đỗ. Chúng tôi vừa lặng lẽ bước đi vừa hút thuốc.
Thì ra hôm qua xe đã đâm phải những cây cọc trồng bên lề đường. Có hai chiếc bị bật lên cùng với cả bệ bê tông. Chiếc xe bị vỡ một đèn pha, cánh chắn bùn và pa-rơ-sốc bị oằn, một bánh xe bị nghẽn trục không quay được. Chúng tôi lấy xà-beng và búa gõ tạm lại. Sau đó bắt đầu một công việc vất vả khá lâu. Máy bị đóng băng lại, câm tịt. Chúng tôi đốt một bó sợi gai để sưởi hộp biên, rồi cùng chung sức quay ma-ni-ven. Vai hai người chạm sát vào nhau, bốn bàn tay cùng nóng lên trên một chiếc tay quay, chúng tôi thở vào mặt nhau, cùng làm một việc và có lẽ cũng đang cùng chung một ý nghĩ.
Máy xe mãi vẫn không chịu nổ. Chúng tôi bắt đầu thở hổn hển. Lúc này Axen đã đem hai thùng nước nóng đến. Nàng lặng lẽ đặt xuống trước mặt tôi rồi đứng sang một bên. Tôi rót nước vào két rồi cùng Baitêmir quay lần nữa, lần nữa. Cuối cùng máy bắt đầu chạy. Tôi ngồi vào buồng lái. Máy chạy không đều, nổ phành phạch. Baitêmir cầm búa chui đầu vào hòm máy kiểm tra lại các bu-gi. Giữa lúc đó Xamát thở hổn hển chạy đến, mình mặc chiếc áo choàng phanh khuy ra. Nó chạy quanh chiếc xe: thằng bé đang muốn đi ô-tô. Axen túm lấy con không cho chạy đi nữa và đứng cạnh buồng lái. Nàng nhìn tôi đầy vẻ trách móc, cái nhìn đau đớn và xót thương đến nỗi giây phút ấy tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì miễn sao chuộc được lỗi, lấy lại được nàng và đứa con. Tôi chồm ra ngoài cửa xe để ngỏ, cúi xuống phía nàng.
- Axen! Bế con ngồi lên đây! Anh sẽ đưa đi như trước, đi mãi mãi! Ngồi lên đây! - Tôi van xin nàng trong tiếng máy nổ xình xịch.
Axen không nói gì, lặng lẽ đưa cặp mắt nhòa lệ nhìn đi nơi khác, lắc đầu từ chối.
- Đi đi, mẹ! - Xamát kéo tay nàng, - Ta đi ô tô nào!
Nàng bước đi không hề ngoái lại, đầu cúi gầm. Xamát vẫn vùng vằng không muốn về.
- Xong rồi! - Baitêmir gọi to, đóng nắp hòm máy lại và đưa đồ nghề vào buồng lái cho tôi.
Tôi đánh xe đi. Cầm bánh lái trong tay, lại đường trường và đồi núi, chiếc xe hơi cứ đưa tôi đi, chẳng hề hay biết gì...
Thế là tôi đã tìm thấy lại Axen và con tôi trên đoạn đèo, thế là chúng tôi đã lại gặp nhau, rồi lại chia tay. Suốt dọc đường tới biên giới, rồi suốt dọc đường về tôi cứ suy nghĩ mãi mà không tìm được cách gì nữa. Tôi mệt lử vì những ý nghĩ không có lối thoát... Bây giờ lại phải bỏ đi thôi, đi cho thật xa, đi đâu cũng được, không thể ở lại đây được nữa.
Tôi đã quyết định dứt khoát như vậy, và trên đường về tôi vẫn giữ những ý nghĩ ấy. Lúc đi qua trạm coi đường tôi trông thấy Xamát. Thằng bé đang chơi bên cạnh đường với một đứa con trai và một con bé lớn hơn nó chút ít. Chúng chơi tas-cargon: lấy đá làm chuồng và sân thả súc vật. Có khi trước kia tôi vẫn trông thấy chúng chơi cạnh đường... Hóa ra hầu như ngày nào tôi cũng đi qua ngay trước mặt con mà không hề ngờ tới. Tôi dừng xe lại.
- Xamát! - tôi gọi. Tôi muốn trông mặt thằng bé một tí. Lũ trẻ chạy ùa tới.
- Chú ơi, chú đến chở chúng cháu đấy à? - Xamát chạy đến gần.
- Ừ, chú chở một tí tẹo thôi! - tôi nói.
Bốn trẻ theo nhau trèo cả lên buồng lái một lượt.
- Chú ấy quen với nhà mình đấy! - Xamát khoe với hai đứa bạn.
Tôi chỉ chở chúng đi một đoạn ngắn, nhưng lòng thấy vui sướng biết chừng nào, có lẽ còn vui hơn cả mấy đứa trẻ. Sau đó tôi cho chúng xuống.
- Bây giờ chạy về nhà đi! - Ba đứa trẻ toan chạy đi, tôi giữ con lại:
- Khoan đã, Xamát, chú bảo cái này! - tôi bế nó lên, nhấc bổng ngang đầu, nhìn vào mặt thằng bé, đoạn ôm ghì vào ngực, hôn nó và thả xuống đất.
- Thế kiếm đâu, chú có mang đến không? - Xamát bỗng nhớ ra.
- Chà, thế là quên mất con ạ, lần sau ta sẽ mang đến! - tôi hẹn.
- Lần sau thì chú không quên chứ? Chúng cháu sẽ vẫn chơi ở chỗ ấy đấy.
- Được rồi, bây giờ chạy mau lên!
Về trạm xe tôi vào xưởng mộc đẽo ba thanh kiếm làm đồ chơi và đem đi theo.
Bọn trẻ chờ tôi thật. Tôi lại chở chúng đi một quãng.
Thế là tôi bắt đầu làm bạn với con và bạn bè nó. Chúng rất chóng quen tôi. Từ xa chúng đã ùa nhau chạy ra đường:
- Ô tô, ô tô của chúng mình kia rồi!
Tôi như sống lại, trở thành con người. Tôi đi chở hàng mà tâm hồn xán lạn hẳn lên: tôi mang theo một cảm xúc thật tốt đẹp. Tôi biết rằng con tôi đang đợi tôi ở bên đường. Tôi sẽ được ngồi bên cạnh con trong buồng lái, dù chỉ vài phút. Giờ đây tôi chỉ còn lo nghĩ làm cách nào đến với con cho kịp. Tôi trù tính thời giờ để đi qua đèo ban ngày. Bấy giờ đang lúc trời xuân ấm áp, bọn trẻ thường xuyên chơi ngoài ngõ nên tôi gặp chúng bên đường luôn. Tôi sung sướng đến nỗi tưởng chừng như mình chỉ vì mục đích ấy mà làm việc. Nhưng đôi khi tim tôi vẫn như lặng đi vì phấp phỏng lo sợ. Có thể ở trạm coi đường họ biết là tôi hay cho bọn trẻ đi xe, cũng có khi không biết, nhưng họ có thể cấm thằng bé gặp tôi, không cho nó ra chơi ngoài đường. Tôi rất lo ngại, thầm van xin Axen và Baitêmir đừng làm điều đó, đừng lấy nốt của tôi dù chỉ là những lần gặp gỡ ngắn ngủi ấy. Nhưng rồi một ngày kia việc ấy đã xảy ra...
Sắp tới ngày mồng một tháng Năm. Tôi quyết định cho con một món quà nhân ngày lễ. Tôi mua chiếc ô tô chạy bằng dây cót, một chiếc xe tải bé tí. Ngày hôm ấy tôi có việc giữ lại ở trạm xe hơi, đánh xe ra muộn nên rất vội. Có lẽ vì vậy mà tôi linh cảm thấy điều gì chẳng lành, cứ hốt hoảng lo âu vô cớ. Chạy đến gần khu coi đường, tôi lấy gói quà ra để bên cạnh, hình dung xem Xamát sẽ mừng rỡ thế nào. Đồ chơi thì nó vẫn có những thứ thích hơn, nhưng đây là món quà đặc biệt - món quà của người lái xe quen biết trên đường cho một chú bé đang mơ ước trở thành lái xe. Song lần này không thấy Xamát ở vệ đường. Trong đám trẻ chạy đến không có nó. Tôi rời buồng lái bước xuống.
- Thế Xamát đâu?
- Ở nhà, nó bị ốm, - thằng bé đáp.
- Ốm à?
- Không, nó chẳng ốm đâu! - đứa con gái ra vẻ hiểu biết giảng giải. - Mẹ nó không cho ra đấy!
- Sao thế?
- Cháu không biết. Mẹ nó bảo không được ra.
Tôi sa sầm mặt xuống: thế là hết.
- Này đem lại cho nó, - tôi đã đưa cho thằng bé gói quà, nhưng lại thay đổi ý kiến. - Hay thôi, không cần. - Tôi cầm lại, rầu rĩ bước về xe.
- Sao chú ấy không chở chúng mình nhỉ, - thằng bé hỏi chị nó.
- Chú ấy bị ốm, - đứa con gái cau mặt đáp.
Đúng, con bé đã đoán đúng. Tình trạng tôi còn trầm trọng hơn bất cứ bệnh nào. Suốt dọc đường tôi cứ ngẫm nghĩ xem vì sao Axen lại có thể tàn nhẫn với tôi đến mức ấy. Chả nhẽ trong lòng nàng không còn giữ lấy một chút gì, dù chỉ là lòng thương hại, dù cho tôi có tệ đến đâu chăng nữa. Không, tôi không thể tin được... Axen không phải con người như thế. Ở đây chắc là có chuyện gì khác. Nhưng chuyện gì? Tôi làm sao mà biết được... Tôi cố làm cho mình tin rằng con tôi quả có hơi ốm thật. Vì sao tôi lại không thể tin lời thằng bé kia! Tôi quả quyết như thế và bỗng hình dung thấy con tôi đang vật vã trong cơn sốt, đang mê sảng... Nhỡ cần phải giúp đỡ gì, cần đi mua thuốc hay chở đi nhà thương thì sao? Ở đây là giữa đoạn đường đèo chứ có phải một đại lộ nào ở thành phố đâu! Bứt rứt không sao chịu được nữa, tôi vội vã quay lại, cũng chưa hình dung ra được mình có thể làm gì. Sẽ đối xử ra sao, tôi chỉ biết một điều: sao cho chóng trông thấy mặt con. Chóng lên... Tôi tin rằng tôi sẽ gặp nó, lòng tôi mách bảo tôi như vậy. Nhưng dầu xăng trong bầu lại hết như thể trêu ngươi, đành dừng lại cột bơm xăng ở trạm chuyển tải...
Anh bạn đồng hành Ilyax im lặng. Anh lấy bàn tay xoa khuôn mặt nóng bừng, buông một tiếng thở dài nặng trĩu, nâng cửa sổ lên đến hết cỡ và lại châm thuốc hút, không biết lần này là lần thứ mấy nữa.
Đã quá nửa đêm từ lâu. Ngoài chúng tôi ra, trên xe lửa chắc mọi người đều ngủ cả. Bánh xe gõ mạnh trên đường sắt bài ca đường trường vô tận của nó. Ngoài cửa sổ, bóng đêm mùa hè đang tan dần, ánh đèn của các ga xép vút qua loang loáng. Đầu tầu giật giọng rúc còi lên.
- Ấy chính lúc bấy giờ agai đến hỏi tôi, agai ạ, và tôi đã từ chối. Bây giờ chắc agai đã rõ là vì sao? - anh bạn đồng hành nhếch mép cười tư lự. - Agai ở lại chỗ cột xăng rồi sau đó đuổi kịp tôi trên chiếc “Pôbêđa”. Tôi có trông thấy... Phải, tôi đánh xe đi, lòng hồi hộp lạ lùng. Linh tính tôi báo quả không sai. Xamát đang chờ bên cạnh đường. Vừa trông thấy chiếc xe nó đã chạy ra đón:
- Chú! Chú lái xe!..
Thằng con tôi vẫn khỏe mạnh! Chao ôi, tôi mừng rỡ không biết chứa đâu cho hết.
Tôi đỗ xe lại, nhảy ra khỏi buồng lái, chạy lại đón con.
- Sao cháu bị ốm à?
- Không, mẹ cháu không cho ra. Mẹ bảo cháu không được đi xe của chú nữa, nhưng cháu khóc mãi, - Xamát phàn nàn.
- Thế sao bây giờ cháu lại ra đây được?
- Bố cháu bảo là người ta đã muốn chở trẻ con đi chơi thì cứ để cho người ta chở.
- Ra thế đấy!
- Cháu lại bảo cháu sẽ làm lái xe...
- Cháu sẽ lái, mà còn lái rất cừ ấy chứ! Cháu có biết chú mang cho cháu cái gì không? - Tôi lấy chiếc xe trẻ con chơi ra. Cháu xem chiếc xe vận tải vặn dây cót này, chính là thứ thích hợp nhất cho các chú lái xe tí hon!
Thằng bé mỉm cười, mặt tươi rói lên.
- Cháu sẽ còn được đi mãi, đi mãi với chú, chú nhé? - nó nhìn tôi với cặp mắt cầu xin.
- Đúng rồi, đi mãi chứ! - tôi nói cho nó tin. - Nếu cháu thích, chú sẽ chở cháu ra dự ngày mồng một tháng Năm ở thành phố, chúng mình sẽ treo nhiều cờ lên xe, xong chú lại đưa cháu về.
Bây giờ thì khó lòng mà giải thích được vì sao tôi lại nói như thế, tôi nào có quyền gì, và nhất là không hiểu sao tôi lại bỗng tin chắc mình sẽ làm như vậy. Thế cũng chưa đủ, tôi còn đi xa hơn nữa:
- Mà nếu cháu thích thì cứ ở hẳn với chú! - tôi nói với thằng con, hết sức nghiêm trang, - chúng mình sẽ ở trong buồng lái, chú sẽ chở cháu đi theo khắp nơi và không bao giờ rời bỏ cháu. Cháu có thích không?
- Có! - Xamát bằng lòng ngay. - Chúng mình sẽ sống trên ô tô! Ta đi đi chứ, đi ngay bây giờ nào!
Có nhiều lúc người lớn cũng hóa ra như trẻ con. Chúng tôi ngồi vào buồng lái. Tôi ngập ngừng mở điện, dận đề-ma-rơ. Xamát thì vui thích bám lấy tôi nũng nịu, nhảy cẫng lên trên ghế. Chiếc xe chạy đi. Xamát lại càng thích, nó cười, nói với tôi những gì gì, tay chỉ vào bánh lái, vào các nút bấm ở trên bảng máy. Tôi đang làm gì thế này? Tôi từ từ hãm xe, song Xamát không chịu cho tôi dừng lại.
- Nhanh nữa đi chú, chạy nhanh lên nữa đi! - nó nói.
Tôi làm sao từ chối được đôi mắt ngây thơ vui sướng ấy? Tôi dận thêm ga. Vừa phóng đi được một quãng thì trông thấy chiếc máy san đất đang lăn xình xịch ở phía trước. Chiếc máy quay lại, đi thẳng về phía chúng tôi. Baitêmir đứng ở cuối vạt đất phía sau chiếc máy. Anh ta đang lấy xẻng xúc nhựa đường ở chỗ ngoặt. Tôi sững sờ cả người. Muốn đỗ xe lại, nhưng đã muộn rồi: tôi đã chở thằng bé đi xa quá. Tôi cúi đầu xuống và điên cuồng dận ga. Baitêmir không để ý gì cả. Anh ta đang cắm cúi làm việc: ở đấy phút nào chẳng có bao nhiêu xe qua lại. Nhưng Xamát đã nhìn thấy anh ta.
- A bố kia kia! Chú ơi, cho cả bố cháu đi nữa nhé? Đỗ lại để cháu gọi bố cháu!
Tôi lặng thinh. Dừng lại bây giờ thì không được, tôi sẽ ăn nói thế nào? Xamát bỗng ngoái nhìn phía sau, hoảng hốt kêu lên và bắt đầu khóc:
- Cháu muốn đến với bố cháu! Đỗ lại cho cháu đến với bố! Đỗ lại, cháu không thích nữa! Mẹ ơi!..
Tôi phanh lại, lái xe vào sau một tảng đá ở một chỗ rẽ. Tôi vội quay sang dỗ dành thằng bé:
- Đừng khóc, Xamát, đừng khóc nào! Chú sẽ chở cháu quay lại ngay bây giờ. Nhưng cháu đừng khóc nữa!
Nhưng thằng bé sợ quá không còn muốn biết gì nữa.
- Không, cháu không thích! Cháu lại chỗ bố cháu cơ! Mở cửa ra! - nó đập tay vào cửa xe. - Mở ra để cháu chạy đến với bố cháu! Mở ra!
Sự thể như thế có khổ không.
- Nhưng cháu đừng khóc mới được! - tôi van xin nó. - Chú mở cửa ngay bây giờ đây, nhưng phải nín đi chứ! Chú sẽ dẫn cháu đến với bố. Thôi, xuống đi, ta đi nào!
Xamát nhảy xuống đất và vừa khóc vừa chạy ngược về phía sau. Tôi giữ nó lại:
- Khoan đã! Cháu lau nước mắt đi. Cháu đừng khóc. Chú xin cháu, bé ngoan của chú, đừng khóc nữa! Thế còn cái ô-tô của cháu thì sao? Xem đây này! - Tôi với lấy cái đồ chơi, tay run run lên dây cót. - Xem nó chạy đến chỗ cháu đây này, bắt lấy! - Chiếc ô-tô con chạy trên đường, đâm phải hòn đá và đổ chổng kềnh xuống một cái hố bên đường.
- Cháu không thích! - Xamát lại càng gào to và chạy khỏi chỗ tôi đứng không hề ngoái lại.
Một cái gì nóng ran trào lên nghẹn ngào trong cổ tôi. Tôi cắm đầu đuổi theo thằng bé:
- Khoan đã, cháu đừng khóc nữa, Xamát! Khoan đã, chú với cháu là... cháu có biết không... - nhưng tôi không nói hết câu được.
Xamát cắm đầu chạy một mạch rồi khuất vào sau chỗ ngoặt. Tôi chạy đến vách núi, dừng lại và nhìn theo thằng bé.
Tôi trông thấy Xamát chạy đến gần chỗ Baitêmir đang làm việc trên đường và bổ nhào lại với bố. Baitêmir ngồi xuống ôm lấy nó, ghì chặt vào lòng. Thằng bé cũng ôm choàng cổ bố, sợ sệt nhìn lại phía tôi.
Sau đó Baitêmir dắt tay nó đứng dậy vác xẻng lên vai, và hai người bước đi trên đường - một lớn một bé.
Tôi đứng đấy hồi lâu, người tựa vào vách đá, rồi quay lại. Tôi dừng chân bên chiếc ô tô trẻ con chơi. Nó nằm chổng bốn bánh lên trời. Nước mắt chảy giàn giụa trên mặt tôi. “Thế là hết!” - tôi nói với chiếc xe lớn của mình, tay vuốt trên nắp máy. Hơi nóng trong máy tỏa sang người tôi. Bây giờ ngay cả trong chiếc xe này cũng có một cái gì thân thuộc: nó đã chứng kiến buổi gặp con lần cuối cùng...
*
Ilyax đứng dậy đi ra hành lang.
- Tôi ra ngoài thở một lúc cho thoáng, - anh ta đứng ở cửa nói.
Tôi ngồi lại trong buồng toa. Bầu trời sắp rạng đông đung đưa ngoài cửa sổ thành một dải trăng trắng. Những cột dây thép mờ mờ vút qua. Đã có thể tắt đèn được rồi.
Tôi nằm trên giá ngủ và nghĩ xem có nên kể cho Ilyax nghe những chuyện tôi đã rõ mà anh ta còn chưa biết không? Nhưng mãi anh ta vẫn không quay vào. Thế là tôi cũng không kể lại được gì cho anh ta biết hết.
*
Tôi đã có dịp làm quen với anh trạm trưởng cầu đường Baitêmir vào lúc Ilyax đã biết rằng Axen cùng đứa con trai sống ở trên đèo.
Người ta đang sửa soạn đón đoàn đại biểu cán bộ cầu đường xứ Kirghizia sắp lên Pamir. Nhân dịp đó có một tờ báo của nước Cộng hòa Tatgikixtan giao cho tôi viết một bài về các cán bộ cầu đường.
Trong số những đoàn viên có Baitêmir Kulôv, một trong những cán bộ cầu đường xuất sắc nhất.
Tôi đi lên Độ Long để tìm gặp Baitêmir.
Chúng tôi gặp nhau một cách bất ngờ và lúc đầu rất thuận lợi cho tôi. Đến một nơi trên đoạn đường đèo, chiếc ô-tô-buýt của chúng tôi bị một công nhân cầm cờ đỏ ngăn lại. Thì ra vừa có chỗ núi lở và bây giờ họ đang dọn đường. Tôi bước xuống xe đi lại chỗ núi lở. Quãng này đã được nẹp rất chắc. Chiếc máy ủi đang đùn đất xuống bờ dốc. Ở những chỗ máy không quay đầu được công nhân đang dùng xẻng và đầm san đất. Một người mặc áo tơi vải bạt đi ủng cao-su bước cạnh chiếc xe ủi và ra hiệu cho người lái:
- Sang trái tí nữa! Lái vào lần nữa! Chạy qua chỗ nẹp kia! Thế! Thôi! Lùi lại...
Đường sửa đã gần xong, chỗ qua lại đã dọn sạch. Các tay lái xe từ hai phía bóp còi tới tấp, chửi ầm lên đòi mở đường, nhưng người khoác áo tơi vẫn không để ý đến, vẫn bình tĩnh chỉ huy. Anh ta cứ bắt chiếc máy ủi chạy đi chạy lại mãi qua chỗ đường ấy, nén chặt chỗ đất đóng nẹp xuống. “Đây đích thị là Baitêmir rồi. Thật là người biết làm chủ công việc!” tôi quyết đoán như vậy. Và tôi đã không nhầm, đúng là Baitêmir Kulôv. Cuối cùng đường đã mở, xe từ hai ngả chạy qua.
- Sao anh lại đứng đây, ô-tô-buýt chạy mất rồi còn gì? - Baitêmir bảo tôi:
- Tôi đến gặp đồng chí đây!
Baitêmir không tỏ vẻ ngạc nhiên. Anh ta bắt tay tôi, vẻ giản dị và chững chạc:
- Có khách đến thăm tôi rất mừng.
- Tôi có việc cần hỏi đồng chí, Bakê ạ - tôi nói, xưng hô với anh ta bằng tên gọi thân mật. - Đồng chí có biết là các cán bộ cầu đường Kirghizia ta sắp đi thăm Tatgikixtan không?
- Tôi có nghe nói.
- Ấy thế cho nên tôi muốn được nói chuyện với đồng chí ít nhiều trước khi đồng chí lên đường đi Pamir.
Trong khi tôi nói rõ mục đích cuộc tới thăm, Baitêmir mỗi lúc một sa sầm mặt xuống, tư lự mân mê hàng ria mép cứng màu nâu sẫm.
- Đồng chí đến đây là rất hay, - anh ta nói, - nhưng tôi sẽ không lên Pamir, và cũng chẳng cần phải viết về tôi.
- Vì sao vậy? Đồng chí bận việc, hay ở nhà làm sao?
- Công việc là con đường này, đồng chí cũng thấy đấy. Còn ở nhà? - anh ta nín bặt, lấy thuốc lá ra. - Ở nhà thì... tất nhiên cũng có công chuyện như mọi người, tôi có gia đình... Song tôi sẽ không lên Pamir.
Tôi bèn bắt đầu thuyết phục Baitêmir, giảng giải cho anh thấy rõ cần có một cán bộ cầu đường như anh trong thành phần đoàn đại biểu như thế nào. Baitêmir đứng nghe hầu như chỉ vì giữ xã giao và rốt cục tôi đã không thuyết phục được anh ta.
Tôi rất bực, và trước hết là bực với mình. Cái linh tính nghề nghiệp đã phản bội tôi, tôi đã tìm đến con người này không đúng cách. Tôi chỉ còn có việc ra về tay không, không hoàn thành được nhiệm vụ của tòa soạn giao cho.
- Làm thế nào được, thôi xin lỗi Bakê, tôi đi về. Chắc sắp có chiếc xe nào qua đường bây giờ...
Baitêmir chăm chú nhìn tôi bằng đôi mắt điềm đạm thông minh, mỉm cười sau hàng ria:
- Người Kirghizia ra ở thành phố quên mất phong tục rồi. Tôi còn có nhà, có gia đình, có mâm cơm thết khách và chốn ngủ. Anh đã đến đây với tôi thì mai anh mới có thể ở nhà tôi ra đi, chứ không thể bỏ đi giữa đường được. Thôi ta đi, tôi đưa anh về chỗ nhà tôi và cháu. Anh đừng giận, tôi còn phải đi xem xét một lượt trước khi trời tối. Tôi sẽ quay về ngay. Công việc như thế đấy...
- Khoan đã, Bakê ạ, - tôi đề nghị. - Tôi cũng cùng đi xem đường với đồng chí.
Baitêmir hóm hỉnh nheo đôi mắt, ngắm nghía bộ y phục tỉnh thành của tôi.
- Chỉ sợ anh không tiện cùng đi với tôi. Hai đầu đường cũng xa, lại lắm dốc.
- Không sao!
Và hai người cùng đi. Chúng tôi dừng lại bên mỗi chiếc cầu, mỗi chỗ ngoặt, cạnh mỗi vực sâu và những ghềnh đá cheo leo. Dĩ nhiên là chúng tôi cùng trò chuyện. Cho đến nay tôi vẫn không sao đoán ra tôi đã tranh thủ được lòng tin và cảm tình của Baitêmir từ lúc nào, bắt đầu từ câu nói nào anh ta đã kể cho tôi nghe hết chuyện đời anh và chuyện gia đình anh.