← Quay lại trang sách

Chương 2 Bóng ma rùng rợn-

lg30 p. Đang ở hải phận quốc tế, chiếc U-99 vẫn chạy trên mặt biển.

Trong tàu, phòng chỉ huy chìm dưới ánh sáng màu đỏ. Hạm trưởng mở cổ áo cho khỏi nóng rồi dựa lưng vào ghế, cố chợp ngủ 5 phút. Hắn cần được thoải mái để điều khiển tiềm thủy đĩnh qua khu vực đầy mìn, và đổ bộ dọc bờ biển.

Hạm trưởng không biết người khách nằm trong ca-bin là ai, và tới Nam Việt làm gì, song lệnh công tác đã nói rõ rệt: toàn thể thủy thủ có bổn phận đưa y đến nơi, đến chốn, và được quyền thi hành mọi biện pháp bất thường - nếu cần – để bảo vệ bí mật.

5 phút trôi qua, hạm trưởng không tài nào ngủ được. Thở dài, hắn lục túi lấy viên thuốc nhức đầu. Mọi lần trước, hắn được mang ảnh vợ con theo, khi buồn có thể ngắm nghía. Lần nầy, hắn phải đi người không. Những âm thanh quen thuộc vẳng vào tai: tiếng rì rầm của động cơ, tiếng gót giày lê trên nền sắt, tiếng thủy thủ thì thầm, và sau cùng là tiếng sóng đập vào vỏ tàu. Mùi ma-dút, mùi khói, mùi ẩm ướt chẹn cổ họng hạm trưởng, hắn ho lên một tiếng.

Bỗng tiếng hô của sĩ quan phụ tá rền vang trong máy vi âm:

- Tất cả, vị trí chiến đấu.

Chuông báo động reng reng khắp tiềm thủy đĩnh. Hạm trưởng vụt đứng dậy, cầm ống nhòm đặt trên bàn, trèo cầu thang lên boong. Mặt biển động mạnh, trời vẫn tối om. Sĩ quan phụ tá quay lại:

- Thưa có tàu lạ bên trái.

Rồi ra lệnh cho phòng lái:

- Hướng đi zêrô. (1)

Nâng ống viễn kính hồng ngoai tuyến lên mặt, hạm trưởng quan sát giây lâu. Đoạn bỏ xuống, nói:

- Không sao. Tàu buôn.

Sĩ quan phụ tá báo cáo tiếp:

- Thưa, còn một hải lý nữa, vào hải phận Nam Việt.

Hạm trưởng khoát tay:

- Cho tàu lặn xuống.

Những thủy thủ có nhiệm vụ trên boong biến xuống dưới như làm trò quỷ thuật. Họ tuột xuống nhanh như chớp, mỗi người chỉ được 2 giây 2/10, đúng không sai một sao.

Động cơ chạy dầu cặn ngừng lại, nhường cho động cơ chạy điện. Cửa lên boong đã được đóng chặt. Viên kỹ sư cơ khí ra lệnh:

- Mở phòng nước 5. 4, 3, 2... (2)

Đèn đỏ báo hiệu an toàn được tự động mở ra hàng loạt. Phòng nước số 1 được mở sau cùng. 10 thước, 15 thước, con tàu từ từ chìm xuống. Hạm trưởng ngồi yên như pho tượng trong phòng chỉ huy, một giọt bồ hôi lăn trên vầng trán rộng.

Một lát sau, hạm trưởng ra lệnh:

- Cho tàu ngoi lên 20 thước.

20 thước là mức trung bình cho tàu ngầm dùng tiềm vọng kính. Quang cảnh trời nước phía trên hiện ra rõ rệt trước mắt hạm trưởng mặc dầu con tàu đang chạy dưới nước. Chân trời bắt đầu sáng. Sao mai nhấp nháy ở hướng đông. Mặt biển bàng bạc như có lân tinh. Gió mạnh và sóng dữ đã biến mất. Tất cả trở lại phẳng lặng.

Tiềm thủy đĩnh đã nhô lên khỏi mặt nước. Giây phút quan trọng nhất bắt đầu. Thủy thủ phải hành động thật nhanh để có thể lặn xuống ngay nếu bị lộ. Động cơ điện vẫn chạy hết tốc lực. Hơi ép đã tống nước trong phòng chứa ra ngoài.

Sĩ quan phụ tá cất tiếng:

- Báo cáo... một ca-nô nhỏ từ bên trái.

Hạm trưởng, giọng khô khan:

- Mật hiệu liên lạc.

Sĩ quan phụ trách chiếu đèn Aldis về phía chấm đen đang bập bềnh trên sóng. Nửa phút sau hiệu đèn từ ca-nô đáp lại. Hạm trưởng quay về, hướng một thủy thủ chờ sẵn:

- Mời ông khách lên ngay.

Hạm trưởng xoa tay vào nhau, vẻ mặt khoan khoái. Chấm đen to dần, to dần: thuyền máy của lão Thọ.

Điếu Lucky đã cháy sát môi mà Tôkarin không biết. Mãi khi da miệng bị bỏng, hắn mới giật mình tỉnh mộng, búng mẩu thuốc rơi tung tóe trên sàn tàu ngầm, rồi lấy chân dẫm tắt. Tôkarin không thèm bận tâm đến nội lệ khe khắt, mà hải quân nước nào cũng áp dụng: giữ vệ sinh tuyệt đối dưới tàu ngầm.

Con tàu hơi nghiêng sang bên. Lọt qua khe cửa chưa đóng chặt, Tôkarin nghe những tiếng ồn ào vọng tới. Ca bin của hắn ở cạnh phòng chỉ huy nên chỉ cần lắng tai là hắn nghe rõ những khẩu lệnh ngắn ngủi và chắc nịch của hạm trưởng.

Chiếc tiềm thủy đĩnh chở Tôkarin vào bờ biển Vũng Tàu được sơn màu xanh nhạt để lẫn lộn với nước biển. Trên thân tàu, người ta không đọc thấy dấu hiệu nào. Đó là một trong những chiếc tàu ngầm xì gà được Nga Xô chế tạo sau Đại chiến Thứ hai, và được dùng vào mục đích gián điệp. Bên trong, mọi vật đều được thu nhỏ lại. Bốn động cơ đi-ê-den chạy rất êm cốt cho máy át- đích của đối phương không thể nghe thấy, mặt khác động cơ đi-ê-den này được chế tạo theo một công thức riêng, khiến tàu khỏi cần nhô lên luôn để lấy khí trời.

Thủy thủ đều mặc thường phục, không đeo cấp hiệu, không tỏ rõ là hải quân nước nào. Từ mảnh giấy dùng để viết đến máy thu thanh toàn là đồ Mỹ. Các tàu ngầm thông thường có chừng 10 ống phóng ngư lôi, trong con tàu do thám này người ta chỉ thấy 2 để bắn ngưòi lên mặt nước, không phải bắn ngư lôi. Ngay dưới boong tàu, cạnh phòng vô tuyến điện, có cái ca bin nhỏ đêm ngày khóa kín, và niêm phong ở ngoài. Trừ viên hạm trưởng, không ai biết ca bin này chứa những gì.

Trước giờ khởi hành, việc đầu tiên của hạm trưởng là vào ca bin tí hon ấy, kiểm điểm lại một bộ máy kỳ lạ, lớn bằng hai va li đựng quần áo bên trên gắn một cái đồng hồ tròn, reo lên tiếng tíc tắc đều đặn. Đó là phòng chất nổ. Gặp trường hợp không thể thoát thân, hạm trưởng được lệnh ấn vào một cái nút đỏ trong phòng chỉ huy. Tùy theo ý muốn của hạm trưởng, con tàu sẽ nổ tung lên trong thời gian đã định. Các chuyên viên gián điệp Xô Viết đã tính toán cho con tàu tan thành mảnh vụn, khiến đối phương không thể tìm ra manh mối.

Tôkarin lẳng lặng mặc bộ quân phục đại úy Mỹ vào người. Bộ quần áo được may rất khéo, thoạt ngắm Tôkarin đố ai dám bảo hắn không phải là quân nhân Mỹ chinh cống.

Đoạn, hắn cúi nhìn đồng hồ. Hắn thường dùng đồng hồ Đông Đức mạ vàng. Giờ đây, người ta đã đeo vào cổ tay hắn một cái Rô lếch 3 kim, có cả lịch đề ngày. Chỉ còn 5 phút nữa.

5 phút nữa, tàu sẽ nổi lên ở điểm GF. 186.

5 phút chờ đợi này đối vởi Tôkarin lại dài như 5 giờ đồng hồ. Như cuốn phim thời sự chiếu chậm, những việc xảy ra tại trụ sở trung ương Mạc Tư Khoa từ từ diễu qua mắt hắn. Hắn nhớ lại rõ mồn một căn phòng rộng mênh mông như hành lang khách sạn, ở giữa kê cái bàn sắt lớn hình bầu đục, và giọng nói sang sảng như chuông của người chỉ huy lạ mặt.

Khác với văn phòng các Bộ, ở đây Tôkarin không thấy treo chân dung các lãnh tụ của Điện Cẩm Linh. Bốn bức tường sơn màu xám ảm đạm cũng không có một tấm lịch coi ngày tháng hoặc tấm bản đồ địa cầu thường lệ. Chủ nhân đã giản dị hóa đến triệt để. Bàn giấy lót kính dày 10 li cũng không để hồ sơ cao ngất. Tôkarin chỉ thấy vẻn vẹn một cái đựng tàn xì gà to tướng, và hai cái máy điện thoại. Và rất nhiều nút bấm, xanh, trắng, đỏ la liệt, Tôkarin không hiểu dùng làm gì, có lẽ để liên lạc với thuộc viên, hoặc có lẽ để điều hành bộ máy báo động.

Đang đi đi, lại lại, ngươi lạ cúi nhìn đồng hồ rồi nói:

- Đến giờ rồi, Anh sẽ ra thẳng trường bay Vờnukôvô.

Ngoan ngoãn, Tôkarin theo người lạ ra ngoài. Quái lạ: hành lang vắng ngắt như nhà bỏ hoang. Không tiếng giày bước trên thảm nhung. Không tiếng máy chữ rào rào từ cửa phòng hé mở vọng lại. Phòng nào cũng đóng kín mít, bên ngoài không gắn bảng đồng. Người gác thang máy cũng lủi đâu mất. Tôkarin cảm thấy nghẹt thở: không khí trong tòa nhà như đượm vẻ ma quỷ thần bí.

Thang máy tụt nhanh xuống hầm. Một chiếc xe chở hàng kín mít đậu sẵn dưới cửa thang máy. Tôkarin không thấy ánh sáng mặt trời nên không biết đây là đâu. Người lạ mở cửa xe, trèo vào. Cửa đóng lại. Tôkarin có cảm tưởng bị nhốt trong nhà tù bằng sắt kiên cố.

Tuy xe không có cửa sổ, Tôkarin vẫn dễ chịu vì khí hậu được điều hòa mát rợi. Người lạ hít một hơi xì-gà rồi hỏi:

- Anh đọc hồ sơ Kulêsôva (3) chưa?

Câu hỏi bất thần làm Tôkarin bàng hoàng. Trong một cuộc mạn đàm tại trường, các huấn luyện viên đã thuyết trình tỉ mỉ về Kulêsôva, cô gái người Nga có biệt tài đọc chữ và nhìn hình bằng đầu ngón tay. Bịt mắt lại, nàng đặt ngón tay lên báo, đọc không sai một dấu phết. Trương hợp Kulêsôva đang được giới bác học Xô Viết nghiên cứu.

Tôkarin vội đáp:

- Thưa rồi. Kulêsôva là một hiện tượng về thần giao cách cảm (4).

Người lạ gật gù:

- Từ lâu rồi, thần giao cách cảm được coi là một bộ môn khoa học, tuy khoa học chỉ mới am hiểu lõm bõm, như đứa trẻ vỡ lòng đọc tiểu thuyết triết học vậy. Năm 1918, Lênin thiết lập một viện nghiên cứu thần giao cách cảm tại thành phố Lêningờrát. Sit ta lin cũng xúc tiến công cuộc nghiên cứu. Trong khi ấy, Tây phương đã dành hàng ngàn triệu đô la để tìm ra chìa khóa bí mật, Thật vậy, thần giao cách cảm như cánh cửa sắt, phải có chìa khóa mới mở vào được.

Hiện nay, người ta sắp tìm ra chìa khóa sau những cuộc thí nghiệm thần giao cách cảm bằng tàu ngầm nguyên tử (5), Thần giao cách cảm, nghĩa là người này đọc được ý nghĩ người khác, hoặc người này liên lạc với người khác, dầu xa hàng vạn, hàng triệu cây số. Các nhà bác học giải thích rằng mỗi khi suy nghĩ óc người phát ra những luồng sóng điện cực nhỏ. Làm cách nào thu và phát những vi-ba này là thần giao cách cảm.

Cái được gọi là thế giới vô hình thật ra chỉ là một hình thức cao của thần giao cách cảm. Con người chết đi, luồng điện óc bay lang thang trong không gian, và trở thành ma. Thế giới này sẽ ra sao một khi hàng triệu triệu hồn ma từ thời tiền sử được qui tụ lại? Đạo binh vô hình này còn mạnh hơn hàng trăm trái siêu bom và hỏa tiễn khổng lồ xuyên lục địa nữa.

Vì vậy, trung ương tình báo Xô Viết đã tập trung nỗ lực vào công cuộc tìm hiểu thế giới vô hình. Trước khi anh lên đường, tôi cho anh đọc một bản báo cáo quan trọng của tiểu ban nghiên cứu hỗn hợp KGB-GRU.

Người lạ rút trong cặp ra một tờ giấy đánh máy gập tư, đưa cho Tôkarin, rồi nói:

- Đúng ra, phúc trình đặc biệt này dầy non một ngàn trang giấy. Đây chỉ là bản toát yếu. Tôi muốn anh không còn thắc mắc nào nữa trước khi rời Mạc Tư Khoa.

Trên góc trái tờ giấy chễm chệ một ngôi sao đỏ 5 cánh nhỏ xíu. Bên dưới là dòng chữ, cũng nhỏ xíu: Chỉ in ra 10 bản. Giọng đều đều, Tôkarin đọc nhẩm, và khắc ghi vào trí nhớ, không quên một chữ hoặc một dấu chấm:

“Tuân lệnh Ủy ban Trung ương Đảng và Hội đồng Chính phủ, một tiểu ban hỗn hợp KGB-GRU đã được thành lập dưới sự điều khiển của tướng Sêliganốp (6), để điều tra tường tận về những “sự kiện liên quan đến hiện tượng ma quỷ trong vòng nửa thế kỷ qua”.

Tiểu ban hỗn hợp đã tới kết quả sau đây:

1- Những vụ ma hữu danh, từ vụ đoàn kỵ mã cưỡi ngựa bạch ở Bê-tuyn đến bức hình ma chó, và hai bóng ma thủy thủ bơi theo tàu trên đường tới kênh đào Panama, đều là sự thật.

2- Trong vòng 10 năm nay, các giới khoa học từ Đông sang Tây đã gia tăng nghiên cứu và phát minh trong lãnh vực siêu hình, đặc biệt là thần giao cách cảm, khám phá vị lai, vân vân…

3- Các cơ quan điệp báo Tây phương, đặc biệt là Anh và Mỹ đã dành ngân khoản hết sức to tát cho việc áp dụng siêu hình học vào việc chiến thắng Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa. Riêng Trung ương Tình báo C. I. A. đã lập trong Viện Kỹ thuật học Massachusetts (MIT) một Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (7) với một số chương trình đào sâu vào thế giới siêu hình.

Tại tổng hành doanh C.I.A. ở Hoa Thịnh Đốn còn có một sở riêng phụ trách gián điệp và tình báo siêu hình. Tin tức được phối kiểm cho biết C.I.A. đang cố gắng đào luyện một số chuyên viên có khả năng đọc tư tưởng của người khác và đoán được vị lai…

Tại trung ương I.S. có một ban phụ trách Tiềm thức học. Ban này điều khiển các cuộc thí nghiệm bí mật về thần giao cách cảm và đoán mộng. Các nhà bác học Xô Viết được tiểu ban hỗn hợp tiếp xúc đều đồng thanh xác nhận là mộng mị có thể giúp loài người tiên đoán vị lai, và trở lại quá khứ không sai mảy may. Sở dĩ có mộng mị là do luồng điện vô hình chạm vào một bộ phận đặc biệt của tiềm thức. Hiện nay, tình báo Anh quốc đang tìm cách kiểm soát, hiện tượng siêu hình này.

Tiểu ban hỗn hợp xin trình sau đây một số dẫn chứng điển hình đã được các nhà bác học Xô Viết xác nhận là đúng sự thật.

a- nhìn thấy tương lai: đây không phải là tướng số theo thiên văn học, đẩu số, hoặc khoa bói toán Đông phương thần bí, mà là việc nhìn thấy những việc sẽ xảy ra trong giấc mộng. Một kỹ sư phục vụ trong quân đội Anh đã góp nhặt những kết quả do y thu lượm được sau nhiều năm nghiên cứu mộng mị trong một cuốn sách xuất bản năm 1927 (8). Trong tài liệu này, y thuật lại một kinh nghiệm bản thân quan trọng:

Năm 1902, y phục vụ trong một trung đoàn bộ binh đồn trú tại tỉnh Orange, thuộc nam bộ Phi châu. Một đêm kia, y nằm mơ thấy đảo Mác-ti-ních (9) bị tàn phá. Y bèn yêu cầu nhà cầm quyền Pháp tản cư dân chúng ra khỏi đảo này. Lời yêu cầu khẩn thiết của y không được xét tới. Nhiều ngày sau, núi Pơlê (10) trên đảo Mác-ti-ních đột nhiên phun lửa, hòn đảo bị tàn phá, mấy chục ngàn người thiệt mạng.

Vụ đắm tàu Titanic trong chuyến hành trình đầu tiên qua Đại Tây Dương đã mang lại một dẫn chứng khác: một hành khách (11) nằm mộng luôn hai đêm là tàu Titanic bị đắm nên trả vé không đi nữa. Và tai nạn đã xảy ra đúng như y thấy trong giấc mơ.

Năm 1885, một nhân viên khách sạn ở Anh quốc bị tòa kết tội tử hình về tội giết bà chủ (12). Tử tội nằm mơ là giây thòng lọng bị hỏng, y sẽ thoát chết. Sáng sớm, trước giờ thọ hình, y thuật lại giấc mơ cho giám ngục. Đúng như y nằm mơ, giây thòng lọng bị hỏng. Bộ trưởng Tư pháp bèn ân giảm tử tội còn chung thân khổ sai.

Nghiên cứu 3 dẫn chứng lịch sử trên đây, và hàng trăm dẫn chứng được kiểm nhận khác, tiểu ban hỗn hợp kết luận rằng chúng ta có thể áp dụng hiện tượng này vào tình báo, để đoán trước những biến cố lớn lao như đại chiến nguyên tử, ám sát nhân vật cao cấp, vân vân...

b- nhìn thấy quá khứ: nhờ phương pháp ghi âm, chụp hình và chép sử, chúng ta có thể nhìn thấy được quá khứ, song đối với quá khứ xa xăm thì chưa có phương pháp nào, ngoài khảo cổ học. Tiểu ban hỗn hợp xin đơn cử vụ công viên Vẹc-xay. Ngày 10-8-1901, hai người đàn bà đến thăm khu lâu đài Vẹc-xay ở Pháp. Đột nhiên, trước mắt họ, phong cảnh hiện tại mờ đi, nhường chỗ cho phong cảnh năm 1789, với đầy đủ cây cối, y phục, nhân vật đã có ở lâu đài này hồi xưa (13).

Các nhà bác học Xô Viết cho biết rằng hình ảnh của quá khứ được biến thành ánh sáng lơ lửng trong vũ trụ bao la, nếu phát minh được dụng cụ nào bắt lại những ánh sáng lang thang này, chúng ta có thể biết rõ được quá khứ như trong vô tuyến truyền hình.

4- Sau khi nghiên cứu các hiện tượng, và chương trình hoạt động của tình báo Tây phương, tiểu ban hỗn hợp trân trọng đề nghị thành lập một cơ quan riêng, phụ trách điệp báo siêu hình. Công việc này được xúc tiến càng sớm càng hay.”

Chờ Tôkarin đọc xong, người lạ vỗ vai hắn, giọng thân mật:

- Bây giờ, anh đã biết rõ. Tiếp theo báo cáo này GRU đã lập ra một Nha Điệp báo siêu hình. Anh là nhân viên đầu tiên của Nha xuất ngoại. Tôi hoàn toàn đặt hết tin lưởng vào anh. Thôi, đến phi trường rồi, chúc anh gặp nhiều may mắn.

Phi trường tối om. Tôkarin được đưa lên một chiếc phản lực cơ. Đến Hà Nội, Tôkarin chỉ được nghỉ xả hơi nửa giờ đồng hồ trước khi trèo lên xe hơi riêng ra Đồ Sơn xuống tàu ngầm.

Cùng đi ra Đồ Sơn với Tôkarin là một sĩ quan Hồng quân, trán hói, đeo kinh cận thị dày cộm, mặc thường phục. Dọc đường, người ấy ngồi yên như pho tượng, thỉnh thoảng lại vuốt những sợi râu lún phún trên cằm. Thái độ lạnh lùng của ngưòi ấy làm Tôkarin e sợ. Dựa lưng vào thành xe, Tôkarin hút hết điếu thuốc này sang điếu thuốc khác, có điều mới kéo được vài ba hơi thì ném qua cửa xe.

Người trán hói nghiêm sắc mặt:

- Trong vòng một giờ nữa, anh sẽ xuống tiềm thủy đĩnh. Tuân lệnh Trung ương, tôi báo cho anh biết những việc sẽ làm. Điều anh nên nhớ là màng lưới tình báo của ta ở phía nam vĩ tuyến 17 không có tính chất sâu rộng, kiên cố và hữu hiệu như được ghi trong một số phúc trình về trung ương. Nhân viên GRU ăn lương hàng tháng, hoặc ăn lương từng vụ ở đó rất ít. Mặt khác, họ lại ở trong tình trạng báo động thường trực, có thể bị lộ, bị bắt, bị giết không biết lúc nào.

Nguyên nhân không phải chúng ta tổ chức kém cỏi, mà chính vì đối phương hoạt động rất đắc lực. Cầm đầu cơ quan tình báo và phản giản ở Nam Việt là một ông già ốm yếu, tên là ông Hoàng. Ông Hoàng là lãnh tụ do thám nguy hiểm nhất đối với chúng ta. Nhất cử, nhất động xảy ra ở phía nam vĩ tuyến 17 đều lọt vào tai mắt của ông Hoàng. Vì vậy, Trung ương ra lệnh bảo vệ bí mật tuyệt đối công tác giao cho anh. Do tính chất bí mật tuyệt đối, anh không được phép tiếp xúc với nhân viên R.U. thường trực. Trừ phi, anh không còn lối thoát nào nữa.

Tôkarin mở rộng cặp mắt sáng quắc:

- Thưa, tôi phải hoạt động một mình ư?

Người hỏi trán gật đầu:

- Cũng gần như thế. Những công tác quan trọng, anh phải đích thân thực hiện. Nếu anh cần thuộc viên, anh sẽ tìm đến một số người mà tôi đã ghi sẵn tên, địa chỉ, tướng mạo và hồ sơ lý lịch trong tập giấy này. Đây, anh giữ lấy. Những kẻ này được ban Zapitki (14) ở Trung ương theo dõi từ nhiều năm nay, anh chỉ cần dọa nạt, mua chuộc bằng hứa hẹn, tung tiền ra là thu dụng được họ.

Theo chỉ thị, mỗi người chỉ được dùng cho một việc, và dùng xong là phải loại bỏ. Anh được toàn quyền định cách loại bỏ. Tiện nhất là thủ tiêu để giữ bí mật. Sở dĩ Trung ương cử anh phụ trách công tác này vì anh nổi tiếng là sĩ quan R.U có trái tim bằng sắt, không khi nào bị rung động vì tình cảm vụn vặt. Anh đã nghe rõ chưa?

- Thưa, nghe rõ rồi.

Xe hơi đã ra đến thương cảng. Dưới ánh sáng hoàng hôn lờ mờ, con tàu xì gà hiện ra, lặng lẽ và ảm đạm như bóng ma trên biển lạnh. Một cái bắt tay chặt chẽ. Một lời giới thiệu. Rồi cửa tàu ngầm đóng lại. Cuộc viễn du nguy hiểm bắt đầu.

5 phút trôi qua. Tôkarin đã chuẩn bị sẵn sàng. Một thủy thủ cao lớn bước vào, nghiêm mình chào:

- Đến rồi, Xin mời ông lên boong.

Chẳng nói, chẳng rằng, Tôkarin ra hiệu cho người thủy thủ xách va-li hành lý. Từ ca-bin của hắn lên boong, hắn không gặp ai. Thủy thủ đoàn được lệnh nhường lối cho thượng khách Tôkarin. Suốt thời gian ở dưới tàu, ngoại trừ hạm trưởng và một thủy thủ hầu hạ, không nhân viên nào được léo hánh tới.

Gió lạnh bên ngoài lọt vào, Tôkarin cảm thấy dễ chiu. Khí trời bên ngoài bao giờ cũng dễ chịu hơn ở trong tiềm thủy đĩnh chật chội, phải thở bằng hơi ép. Cái lạnh thơ thới của gió mặn mơn man da thịt Tôkarin. Hắn ưa cái lạnh ngọt ngào và thi vị này hơn những bông tuyết trắng xóa, ảm đạm trên phi trường Mạc Tư Khoa.

Bất giác, hắn nhớ lại chuỗi ngày thần tiên ở Hắc Hải. Đêm đêm, hắn lái ca-nô ra khơi với người đẹp uống rượu và hưởng lạc tha hồ. Thời gian dưỡng sức đã hết. Hắn lại lao đầu vào cuộc sống hiểm nghèo.

Tôkarin dựa lan can, hít một hơi dài. Con tàu ngầm xì-gà lướt nhẹ trên mặt biên phẳng lặng. Tiếng nước bị bơm ra ngoài phòng chứa hòa với tiếng sóng vỗ thành một âm thanh quen thuộc và vui nhộn.

Hạm trưởng đã choàng lên bộ thường phục trắng cái áo tơi mưa cao su màu đen. Mắt hạm trưởng vẫn dán vào cái ống nhòm cực mạnh có tác dụng xuyên thủng màn tối.

Viên sĩ quan phụ tá nhấp nháy đèn hiệu một lần nữa. Trời tối om, sương mù bao phủ, Tôkarin không nhìn thấy được gì.

Con thuyền máy của lão Thọ đang lớn dần, lớn dần. Viên hạm trưởng tiến lại gần Tôkarin:

- Ông còn thiéu món hành lý nào nữa không?

Tôkarin lắc đầu:

- Đủ rồi, cám ơn hạm trưởng. Tôi sẽ nhớ mãi chuyến đi lý thú này.

Hạm trưởng cười:

- Nhờ may mắn, chúng ta không gặp trở ngại. Từ đây vào bờ, chỉ con 700 thước. Ông xuống ca nô xong, tôi sẽ cho tàu lặn xuống. Ra đến hải phận quốc tế, tàu nổi lên, tôi sẽ đánh điện báo cáo về Đồ Sơn. Trân trọng chúc ông vạn sự như ý. Đúng hẹn, tôi chờ ông ở địa điểm định trước.

Qua bóng tối mờ mờ, Tôkarin nhận thấy một con thuyền máy, loại hắn thường lái trên biển Hắc Hải. Tiềm thủy đĩnh chạy chậm hẳn, dường như đứng lại. Ca nô cặp vào hông tàu. Những tia đèn liên lạc đua nhau hấp háy.

Hạm trưởng thân chinh ném một sợi giây ni-lông xuống biển cho người đứng trên thuyền máy bắt lấy để lái sát vào tàu ngầm. Đợi hạm trưởng buộc kỹ đầu giây vào lan can, Tôkarin mới móc vào đó một cái thang gấp bằng nhom. Hắn giơ tay lên chào hạm trưởng và toán thủy thủ mặc đồ đen, rồi thoăn thoắt trèo xuống. Nhìn hắn xuống thang, ai cũng tưởng hắn là diễn viên trò xiếc, vì cử chỉ của hắn nhanh nhẹn lạ thường.

Tôkarin buông tay, nhảy xuống sàn thuyền. Hắn đặt chân xuống rất nhẹ mà thuyền máy vẫn tròng trành như muốn đắm. Tôkarin lấy tấn cho khỏi loạng choạng, trong khi ấy lão Thọ từ từ bẻ lái ra khỏi nơi tàu ngầm đậu. Lão có cử chỉ khoan thai như người điều khiển du thuyền trên mặt hồ êm ả.

Tôkarin thầm khen nghệ thuật đi biển của người chủ thuyền. Hắn đoán già chủ thuyền là cựu sĩ quan hàng hải, vì lái ca-nô lại gần tiềm thủy đĩnh là việc rất khó khăn. Chỉ yếu tay hoặc kém kinh nghiệm là bị sóng xô vào thân tàu bằng thép dầy, con thuyền mảnh khảnh sẽ vỡ nát, hoặc ít ra cũng hư hại nặng nề.

Tôkarin cảm thấy bâng khuâng khi con tàu xì-gà thân mật rẽ sóng phăng phăng chìm xuống, mặt biển mênh mông vội vàng khép lại. Giữa cảnh nước trời bàng, bạc, chiếc U-99 lùi lũi biến dạng như con ma khổng lồ. Thật vậy, con người của thế kỷ trước được thấy tàu ngầm sẽ tưởng là ma… Đối với con người của thế kỷ 20, tàu ngầm chỉ là một phát minh khoa học, như hàng trăm, hàng ngàn phát minh thường khác... Đột nhiên, giọng nói đanh thép của người chỉ huy R.U. sang sảng bên tai Tôkarin:

- Thiếu tá Tôkarin, trên đời không có cái gì là mê tín, dị đoan cả. Mê tín, dị đoan là một hình thức của khoa học, khoa học siêu hình. Chúng ta tưởng là mê tín, dị đoan vì chúng ta còn dốt. Từ nhiều năm nay, chúng ta ngụp lặn trong sự mê muội trong khi tình báo Tây phương tập trung nỗ lực vào gián điệp siêu hình. Chúng ta phải tìm cách theo kịp. Nếu không, chỉ 10, 15 năm nữa, Tây phương kiểm soát được các lực lượng bí mật trong vũ trụ, chúng ta sẽ bị loại trừ ra khỏi bản đồ trái đất...

Con thuyền lại tròng trành dưới một đợt sóng cao bằng tòa nhà 4 tầng, Tôkarin vịn lấy mạn thuyền trong khi lão Thọ xoạc chân trên sàn, trông oai vệ như thiên thần. Tôkarin nói:

- Chào anh bạn. Từ đây đến điểm 15 còn bao nhiêu hải lý?

Lão Thọ đáp lớn:

- 30 dặm.

15 và 30 là mật hiệu liên lạc. Trao hiệu mật xong, Tôkarin định phá lên cười. Làm nghề gián điệp, nhiều khi người ta trở nên lố bịch. Nếu không là nhân viên R.U. làm cách nào biết được điểm GF-186 giữa biển rộng mênh mông mà đem thuyền đến đón.

Manh áo hở ngực của lão Thọ bay phần phật trước gió. Làn chớp xẹt lên sáng quắc. Dưới làn chớp, Tôkarin nhìn rõ nét mặt và tia mắt của chủ thuyền. Tôkarin không dám cười nữa. Tuy nhiên, hắn vẫn giữ thái độ điềm tĩnh:

- Hân hạnh được gặp anh. Tên tôi làTôkarm.

Giọng lão Thọ ồm ồm:

- Tôi là Thọ. Tôi có nhiệm vụ chở anh vào bờ biển.

- Còn xa không?

- Chỉ độ một giờ là tới. Đó là gặp gió ngược. Thuận gió chỉ nhiều lắm là 20 phút.

Tôkarin nhìn cây kim lân tinh của đồng hồ Rôlếch:

- Đồng hồ anh mấy giờ rồi?

Lão Thọ lái vòng sang trái để tránh một đợt sóng lớn:

- 3 giờ 50 phút.

- Cám ơn anh. Anh chậm hơn tôi nửa giây. Thuận gió hay ngược gió?

- Gió thổi ngang. Bực mình lắm, ca-nô cứ chạy về phía bắc.

Tuy nhiên, tôi ráng sức đưa anh vào bờ trước 5 giờ sáng. 4 giờ đã hết giới nghiêm.

- Lúc này, họ gặp mình thì nguy.

- Khỏi lo. Hạm đội chỉ canh phòng ngoài hải phận quốc tế. Vào lọt đến đây là an toàn rồi. Đêm nay, trời lạnh như cắt ruột, không ai dám mò ra bãi biển đâu. Vả lại, tôi đã được phép đi trong giờ giới nghiêm.

- Giấy thật hay giả?

Lão Thọ cười:

- Dĩ nhiên là giả. Giả nhưng không kém gì thật. Vô phúc cho ai gặp anh và tôi. Vì nếu cần, tôi sẵn sàng giết người.

«Nếu cần, tôi sẵn sàng giết người», câu nói vô tình của lão Thọ làm Tôkarin rờn rợn. Nếu cần, Tôkarin cũng sẵn sàng giết người. Cặp mắt quắc sáng, hắn quan sát lão Thọ từ đầu xuống chân. Toàn thân lão như được làm bằng sắt. Trên cổ, ngực, lưng, người ta không tìm ra một li mỡ thừa. Bắp thịt thon, dài, nổi lên cuồn cuộn. Thoạt nhìn, Tôkarin biết lão Thọ là người có sức khoẻ phi thường.

Trong chỉ thị, trung ương R.U. không nói rõ lão Thọ giỏi võ đến đâu. Nhưng cảch điều khiển thuyền máy chậm chạp mà nhanh nhẹn, nặng nề mà nhẹ nhàng của lão chứng tỏ lão là võ sĩ cừ khôi.

Gió lạnh thổi vù vù. Lão Thọ nói:

- Anh rét không? Tôi có chai rượu mạc-ten mới khui.

Mạc-ten là một trong các thứ rượu Tây phương Tôkarin được uống và quen mùi vị trong trường gián điệp Kuchinô. Hắn thèm rượu lạ thường, có lẽ vì hắn vừa đặt chân đến một xứ lạ, giữa những nguy hiểm chết người. Song hắn không dám uống. Hắn bắt đầu gờm lão Thọ. Hắn phải lo công việc trước. Giọng đều đều, hắn hỏi:

- Có xe hơi cho tôi không?

Lão Thọ đáp cộc lốc:

- Có.

- Ở đâu?

- Trên bờ. Tôi chỉ đưa anh đển bãi cát, rồi anh lên bộ một mình. Xe tôi mang cho anh là chiếc díp sơn màu xám nhạt của Mỹ, đeo bảng số công đoàn ngoại giao.

- Số mấy?

- Thong thả. Anh nóng nảy quá.

- Tôi cần biết đầy đủ chi tiết. Anh có bổn phận tường trình lại với tôi.

- Đồng ý. Nhưng việc nào lúc ấy.

Đổi giọng thân mật, lão Thọ hỏi:

- À, anh có mang cái gì theo cho tôi không?

Tôkarin gật đầu:

- Có. Toàn bạc mới cho anh.

- Xin anh giao cho tôi.

- Chưa được. Việc nào, lúc ấy.

Tôkarin vừa nhắc lại một câu nói của lão Thọ. Vỏ quít dày, móng tay nhọn, thái độ của Tôkarin làm lão Thọ vùng phá lên cười.

Tôkarin nhăn mặt:

- Tôi không ưa nhân viên dưới quyền có thái độ ngạo mạn.

Lão Thọ hứ một tiếng rồi đáp:

- Tôi là nhân viên của Tổ chức, không phải của riêng anh.

- Tổ chức là tôi. Tổ chức cử tôi đến. Anh có bổn phận tuân lệnh tôi.

- Anh lầm rồi. Theo chỉ thị, tôi ra đón anh ngoài khơi và chở vào, kiếm sẵn xe hơi cho anh. Chỉ thị không dặn tôi phải khúm núm với anh. Lão Thọ này dọc ngang hàng chục năm chưa quỳ lạy ai cả. Xin anh hiểu cho.

Tôkarin nín lặng.

Hai người nín lặng hồi lâu. Trên mặt biển chỉ có tiếng gió rít và sóng vỗ. Thuận gió, con thuyền máy chạy thật nhanh về phía Bãi Sau. Rặng núi Vũng Tàu đã hiện ra sừng sững trước mặt. Dầu nhắm cả hai mắt, lão Thọ cũng vẫn không thể nào lạc đường. Qua màn khuya lờ mờ, hắn cảm thấy hàng cây phi lao cao vút đương thì thầm trên bãi cát rộng. Thành phố Vũng Tàu còn yên giấc ngủ say.

Đột nhiên, lão Thọ tê hẳn một bên vai, cảm giác bại xuội kỳ quặc này lão thường có mỗi khi sợ hãi vô căn cớ. Thật vậy, lão bỗng sợ hãi một cách khác thường, mặc dầu không hiểu tại sao mà sợ hãi. Trong đời lang bạt, ít khi lão sợ hãi, nhưng đến khi sợ hãi thì tay chân tê liệt, mặt tái mét, ngón tay run lẫy bẩy, tóc gáy dựng ngược.

Lão Thọ sợ hãi có lẽ vì vừa đọc thấy ý nghĩ của Tôkarin trong luồng mắt tóe lửa. Ánh chớp xẹt lên, lão nhận ra khuôn mặt khôi ngô nhưng lạnh lùng của người đàn ông lạ.

Bầu trời yên tĩnh được một lát lại nổi gió như cũ. Một đợt sóng lớn húc vào mạn thuyền máy. Lão Thọ giảm bớt tốc độ. Bờ biển hiện ra lớn dần. Dãy nhà lớn, nhìn ra biển, dựng lên sừng sững như vách núi. Cách một trăm thước, về bên hữu, nổi bật những hình thù đen sì, vuông vắn như cái hộp. Đó là các quán ăn ở Bãi Sau.

Lão Thọ cất tiếng:

- Đến rồi. Mời anh ngồi xuống. Và đội cái nón lá lên đầu. Sĩ quan cố vấn Mỹ không bao giờ ra biển lúc 4, 5 giờ sáng.

Lão Thọ tắt máy. Còn trớn, con thuyền lướt nhẹ vào bờ. Rồi dừng lại quay một vòng trên mặt nước sủi bọt, Tôkarin hỏi:

- Tôi xuống được chưa?

Lão Thọ nhìn quanh quất:

- Thong thả. Anh đề tôi dạo một vòng xem sao.

Bờ biển vắng tanh. Trận bão rét lạnh đã nhốt dân chúng Vũng Tàu trong nhà. Lão Thọ đưa tay ra hiệu. Tôkarin lại hỏi:

- Anh lên bộ với tôi không?

- Không. Tôi phải lái thuyền tới nơi khác, kẻo ở đây ngtrờị ta nghi.

- Thôi, tôi xin chào anh. Đâу, tiền thưởng của anh đây. Theo lời anh yêu cầu, tôi mang toàn đô la Mỹ, loại giấy bạc năm đồng.

Vừa nói, Tôkarin vừa ấn vào tay lão Thọ một cái gói dày cộm. Hắn nói tiếp:

- Anh đếm lại đi.

Không cần Tôkarin nhắc lại lần thứ hai, lão Thọ ghé răng cắn đứt sợi giây gài buộc ngoài, đoạn mở tung cái gói ra. Lão ngồi xây lưng lại phía bờ biển, lấy áo tơi mưa che bốn bên cho ánh đèn bấm khỏi lọt ra ngoài, rồi thoăn thoắt đếm tiền. Những tờ mỹ kim dày và kêu ròn tan gây cho lão một không khí ấm áp khoái cảm. Với đống tiền kếch sù này, lão sẽ giàu to. Lão sẽ lên chuyến xe đò sớm nhất để về Sàigòn. Mặc dầu lão giữ chức trú sứ R.U.. ở Cấp, lão vẫn không được R.U. tin cậy. Người ta dùng lão vì thấy lão là thủy thủ có tài, và là nhân viên dọ thám quyền biến, gan góc. Lão làm cho R.U. chẳng phải vì lý do chính trị, mà vì đồng tiền, vì không còn việc làm nào khác hợp khả năng.

Lão Thọ nuôi dự định rút lui từ lâu. Lão nhẫn tâm hạ sát Trần Độ là vì thế. Kế hoạch của lão rất giản dị: sau khi từ giã Tôkarin, lão sẽ lái thuyền vào cái hang đá bí mật chỉ mình lão biết, cách Núi Nhỏ một quãng, lão sẽ tháo gỡ động cơ ném xuống biển. Xong xuôi, lão về nhà, thu xếp hành trang đón xe đi Sài Gòn, Tại đó, lão sẽ đổi tên, lập lại cuộc đời mới.

Lão Thọ mỉm nụ cười kiêu ngạo. Tôkarin không thể ngờ hắn rắp tâm phản bội. Nói cho đúng, lão Thọ không phản bội. Lão chỉ bỏ nghề mà thôi. Lão bỏ nghề vì có linh tính sớm muộn, người ta sẽ thộp được lão, lôi ra tòa án quân sự. Nước nào cũng vậy, làm gián điệp cho ngoại bang đều bị trừng trị rất nặng. Nhất là làm gián diệp cho kẻ thù. Riêng tội gián điệp đã đủ mất mạng, phương chi còn tội giết người, tội kết bè vượt ngục Côn đảo nữa…

Ra trước vành móng ngựa, lão sẽ hết dường chối cãi. Quan tòa sẽ nhìn thẳng vào mặt lão, giọng lạnh lùng: tử hình. Tử hình! Bị vào phòng hơi ngạt, hoặc lên ghế điện, còn đỡ sợ phần nào, vì tử tù bước chân sang thế giới bèn kia một cách êm ái, chẳng cảm thấy đau đớn. Đằng này người ta lại mang lão ra pháp trường...

Một buổi sáng thê lương, sương mù bao phủ cảnh vật, tử tù được đưa lên xe bít bùng tới bãi rộng giữa vòng tròn binh sĩ cầm súng cắm lưỡi lê sáng quắc. Con dao máy hình tam giác sắc như nước sẽ rơi phập vào cái gáy được cạo trắng hếu, đầu lâu lăn long lóc vào cái sọt đựng gần đầy mạt cưa... Đầu lâu ấy, cái gáy ấy là của lão Thọ...

Lão Thọ còn ham sống lắm. Từ nhiều tháng nay, lão phải trốn chui, trốn nhủi, đội lốt một bác chài ngu dốt, không biết gì hết, ngoài việc cơm ngày hai bữa xuềnh xoàng, và lái thuyền ra khơi đánh cá. Thật ra lão Thọ là con người của Sài Gòn ban đêm, rượu sâm banh dầm đá lạnh uống thay nước lã, đốt tờ một trăm đô la để tìm cái tích kê của vũ nữ trong tiệm nhảy tối mờ mờ - giống như công tử Bạc Liêu ngày nọ - và khi cần, rút súng bắn tình địch như găng tơ màn ảnh… Lâu

lắm, lão Thọ chưa được về Sài gòn. Lâu lắm, chưa được nâng ly huýt-ky và bóc hộp xì-gà Ha van thượng hạng. Lâu lắm, chưa được nhảy một bài xi-lô dìu dịu với một cô gái có cái eo thon nhỏ và cái miệng thơm ngát. Lâu lắm, chưa được đặt tay lên nút điện một căn phòng khách sạn gắn máy điều hòa khí hậu, nệm cao su mút, mền ni-lông Hoa Kỳ, cạo râu bằng dao điện Phi -líp, khoác áo ngủ bằng hàng Bút-sắc chính hiệu của Pháp...

Lão Thọ se sẽ rùng mình. Tôkarin hỏi:

- Anh lạnh ư?

LãoThọ chột dạ:

- Không.

- Xe hơi của tôi, anh đậu ở đâu?

- Cách đậy hai trăm thước. Anh lên bờ, đi được năm chục thước, rồi rẽ sang trái. Đi một trăm thước nữa, quẹo vào con đường nhỏ bên phải. Xe díp này, tôi đậu dưới một lùm cây to. Chìa khóa công-tắc cất dưới đệm lót chân. Bình xăng đã được đổ đầy. Anh cứ thẳng đường là về đến Sàigòn

- Cám ơn anh, tôi đã biết đường rồi.

Lão Thọ cất gói tiền vào túi:

- Anh còn hỏi tôi điều gì nữa không?

Tôkarin nhếch mép:

- À có, tên thật của anh là gì nhỉ?

- Làm nghề này, khỏng nên biết tên thật của nhau thì tiện hơn. Người ta thường gọi tội là lão Thọ. Xin anh cũng cứ kêu tôi là Thọ cho tiện.

- Anh đa nghi quá. Tên thật của tôi là Tôkarin. Seéc-ghê-vích Tôkarin. Đấy anh xem, tôi có cần giấu anh đâu.

Lời nói của Tôkarin như thùng nước lạnh đội lên đầu lão Thọ. Không phải vì ngẫu nhiên mà Tôkarin cho lão biết tên thật. Như vậy, có nghĩa là...

Lão sực nhớ đến Trần Độ. Giờ này, hắn đang tắm mát dưới đáy biển, giữa đống trai sò ngơ ngác, và bầy cá lăn tăn. Lão giết Trần Độ để giữ bí mật. Và để khỏi trả tiền. Dầu sao Trần Độ cũng đòi một số tiền ít ỏi. Còn lão...

Tôkarin phải trả cho lão bằng đô la Mỹ. Trên thế giới, khắp hang cùng ngõ hẻm, ở đâu người ta cũng tiêu đô la. Xìa một nắm đô la ra là mua được chiếc xe hơi bóng loáng, hoặc hàng trăm người đàn bà... Tôkarin có thể giết lão để cướp lại tiền. Tôkarin lại có thể giết lão để bảo vệ bí mật. Dầu sao, lão đã biết nhiều quá.

Trong khoảnh khắc, lão cảm thấy dại. Biết vậy, lão bắn cho Tôkarin một phát, ngay sau khi tàu ngầm lặn xuống. Giờ đây, đối phương đã tới bờ, có thể chống trả mãnh liệt. Tôkarin có thân hình chắc nịch, cử chỉ nhanh nhẹn, chắc không phải là tay võ nghệ tầm thường. Ngoài ra, hắn còn khẩu súng to tướng cất trong bao da nữa. Chậm rồi... lão Thọ phải ra tay ngay. Thừa cơ Tôkarin ngoảnh ra nơi khác, lão Thọ đặt tay vào thắt lưng. Lão bắn rất khá, phát đầu có thể hạ thủ đối phương.

Song lão không thê ngờ rằng Tôkarin đã đề phòng cẩn mật. Thiếu tá R.U., thủ khoa trường điệp báo Kuchinô, điệp viên lừng lẫy ở Đông Âu, Tôkarin đã quen với thủ đoạn giết người trong chớp mắt. Hắn giả vờ nhìn ra biển, để dò la phản ứng lão Thọ. Và hắn đã đoán đúng. Lão Thọ rút súng ra để giết hắn.

Tiếng cười của viên thiếu tá Xô Viết vang lên. Thiết tưởng tiếng cười của ngưu đầu mã diện dưới âm ty cũng chỉ ghê rợn và gớm ghiếc đến thế là cùng:

- Hà, hà, mày định hạ thủ tao!

Lão Thọ chộp lấy khẩu súng thân mật. Lão không biết rằng Tôkarin hơn lão một trời, một vực về võ thuật, cũng như về tài tác xạ. Tôkarin đưa nhẹ bàn tay ra là đoạt được súng của đối phương. Bàn tay cầm súng của lão Thọ bị bẻ gãy kêu rắc một tiếng khô khan. Tuy đau thấu óc, lão Thọ không kêu van. Lão nghiến răng quạt tay trái vào mặt Tôkarin.

Vẫn cười như đùa cợt, Tôkarin nghiêng mình tránh. Miếng đòn trượt ra ngoài. Cánh tay bắng thép nguội của Tôkarin hoành lên, chém xuống như lưỡi dao phay chẻ củi.

Bị đánh trúng yết hầu, lão Thọ lảo đảo rồi nằm gục xuống sàn ca nô bập bềnh trên cát ướt. Tôkarin cúi xuống: mặt nạn nhân đã xám ngoẹt, hơi thở không còn nữa. Danh bất hư truyền, Tôkarin vừa giết người - một người lực lưỡng, am tường nhu đạo – bằng phát atémi tầm thường. Nếu hắn đánh mạnh hơn, cuống họng lão Thọ đã nát bấy.

Biết nạn nhân đã chết, Tôkarin хốс lên vai, nhảy xuống bãi cát, rồi đi thoăn thoắt lên bờ. Trông thái độ khoan thai của Tôkarin, người ta cho hắn là người quen thuộc với bãi biển Vũng Tàu. Thật ra, hắn mới tới đây lần đầu. Sở dĩ hắn quen thuộc vì đã học thuộc lòng trên nhiều bản đồ ở Mạc Tư Khoa.

Tôkarin nghiêng vai, ném thân thể nóng hổi của lão Thọ xuống. Lát nữa, hắn sẽ đào đất chôn lão Thọ ở một nơi vắng vẻ, xa thành phố. Tôkarin có cách giấu kín tử thi, nhà chức trách không thể nào tìm ra. Trừ phi công an thả chó bẹt-giê được huấn luyện riêng... Nhưng khi ấy Tôkarin đã nghênh ngang ngồi uống vốt ka ở Mạc Tư Khoa...

Lão Thọ bị giết vì R.U muốn tiết kiệm một số tiền lớn. Lão đòi nhiều quá, đòi tới mức mà R. U. phải bịt miệng lại. Tuy nhiên, nếu chỉ vì vấn đề tiền mà thôi có lẽ lão Thọ chưa chết. Lão Thọ đòi ngần ấy, chứ đòi nhiều hơn thế Tôkarin vẫn trả nổi. Trong thời Đại chiến Thứ hai, Đức quốc xã đã mua của điệp viên Cicéron, bồi phòng của ông đại sứ Anh, 5000 bảng Anh một tấm hình nhỏ mà không tiếc tiền, vì lẽ giản dị đó là tiền giả. Và gói đô la mà Tôkarin trao cho lão Thọ đêm nay cũng là tiền giả (15).

R.U. hạ thủ lão Thọ là để bảo vệ bí mật. Tôkarin được lệnh thi hành một công tác cực kỳ quan trọng, cần được giữ kín một cách tuyệt đối.

Nhanh nhẹn, Tôkarin trở lại thuyền máy. Lục soát một hồi, hắn tìm ra những vật mà hắn có bổn phận phải làm phi tang. Trong đó có cái điện đài nhỏ xíu lão Thọ vẫn dùng để liên lạc với tàu ngàm R. U.

Tôkarin bỏ các đồ lặt vặt vào trong áo tơi mưa của Lão Thọ rồi gói chặt lại. Đoạn hắn vặn công tắc, cho động cơ nổ ròn. Hắn kéo thẳng tay, gài số cho thuyền chạy. Trên bàn đạp ga xăng, hắn đặt một viên đá lớn. Rồi hắn xả thắng tay. Con thuyền máy chạy vụt ra khơi...

Đến khi hết xăng, ca-nô sẽ lởn vởn ngoài khơi, và chỉ cần một cơn gió lớn là nó lật úp. Giả sử ai tìm ra thì cũng tưởng chủ thuyền chết đuối.

Chờ cho thuyền máy khuất vào màn sương, Tôkarin mới quay lại chỗ ném xác lão Thọ.

Ngạc nhiên xiết bao, lão Thọ đã biến đâu mất.

Tôkarin chết lặng một phút đồng hồ trên nền cát ướt: Nếu lão Thọ còn sống, trốn thoát, thì công việc của hắn sẽ hỏng bét. Miếng đòn của hắn đánh vào cổ lão Thọ khá mạnh, dầu tỉnh dậy nạn nhân cũng khó lết được xa.

Nghĩ thế Tôkarin đảo mắt nhìn tử phía. Bầu trời vẫn phủ kín sương muối, bốn bề vắng ngắt và tối om. Tiếng sóng vỗ ì ầm tạo cho cảnh gần sáng ở Bãi Sau một vẻ hoang liêu rùng rợn.

Tôkarin định bấm đèn lên tìm thì phía sau nổi lên một tiếng quát. Tiếng quát không to lắm nhưng Tôkarin có cảm giác là nhĩ tai hắn bị rung lên:

- Đứng yên một chỗ, Tôkarin.

Tôkarin chỉ mất tinh thần trong vòng một vài giây đồng hồ. Nhờ được huấn luyện chu đáo và có nhiều kinh nghiệm công tác, hắn đã lấy lại bình tĩnh rất nhanh.

Tiếng quát của lão Thọ vẫn rền lên:

- Tôkarin? Không được cử động. Hễ cử động, buộc lòng tôi phải hạ thủ.

Câu nói vô tình của lão Thọ khiến Tôkarin mừng thầm. Hắn biết rõ là đối phương không định giết hắn. Hắn bèn dò hỏi:

- Vì lẽ gì bỗng dưng anh phản bội?

Tiếng nói của lão Thọ sắc như dao cạo:

- Đó là lỗi tại anh. Tại anh muốn thủ tiêu tôi.

Tòkarin cười ngọt ngào:

- Anh lầm rồi. Nếu tôi chủ trương hại anh tại sao tôi đặt anh nằm tử tế trên bãi cát. Bản tâm tôi là chờ anh tỉnh dậy. Hồi nãy, chúng mình hiểu lầm nhau nên sinh ra cớ chuyện.

Lão Thọ đã hoi siêu lòng. Lão đứng sau lưng Tôkarin, trên tay vắt vẻo con dao mỏng dính. Lão còn phân vân thi Tòkarin đã nói tiếp:

- Nào chúng mình bắt tay nhau để xử hòa đi nào! Tôi xin thề là không bao giờ có ý nghĩ xấu về anh. Trước khi tôi lên đường, thượng cấp đã dặn tôi nhiều về thành tích của anh. Xong vụ này, anh sẽ được đưa về một trung tâm dưỡng sức ở Liên Xô. Anh sẽ được đặc biệt ưu đãi.

Vừa nói, Tôkarin vừa quay mặt lại. Hai người chỉ đứng cách nhau ba thước. Trong tầm xa này lưỡi dao của lão Thọ có thể ném trúng điếu thuốc lá, dụi tắt cái đầu đang cháy dở.

Một cuộc xung đột tư tưởng diễn ra trong óc lão Thọ. Lão chỉ nghiêng người và giơ tay lên là lưỡi dao bay vào giữa tim Tôkarin. Tuy nhiên giết cá nhân Tôkarin thì dễ, đơn thương độc mã chống lại R U. là điều vưọt qua khả năng của lão. Tốt hơn là làm lành với Tôkarin.

Tồkarin đã tiến sát người lão Thọ.

Lão Thọ chìa tay ra:

- Thật đáng tiếc! Tôi thành thật xin lỗi anh.

Tôkarin mỉm cười nắm bàn tay của lão Thọ. Nhưng không phải để tỏ tình thân thiện, mà để sử dụng một thế võ tuyệt hiểm về nhu đạo. Lão Thọ bị Tôkarin kéo giật về đằng trước. Bị tấn công bất thần, lão Thọ ngã chúi như khúc gỗ bị đốn ngã. Sống bàn tay của Tôkarin giáng xuống.

Phát atémi rơi đúng vào sau gáy. Với miếng atémi này lão Thọ khỏe bằng voi cũng không chịu nổi. Lão rống lên một tiếng thảm thiết rồi gục mặt xuống cát không ngồi dậy nữa.

Nhún vai, Tôkarin lặng lẽ đi về thành phố.

Hắn tìm chiếc xe «díp» không lâu. Quả như lão Thọ nói, đó là một chiếc xe đeo bảng số ngoại giao đoàn. Tôkarin đặt cái va li nhỏ đựng quần áo và tài liệu trên băng sau. Hắn nhắp thử ga xăng, rồi ấn chìa khóa vào đề ma rơ. Động cợ xe “díp” nổ lên, nghe thật tròn trịa.

Tôkarin thử hộp số, rồi lái trở lại con đường xuống biển. Số một sang số hai êm như ru, không vướng víu như xe hơi hắn thường lái ở Nga Xô.

Thị trấn Vũng Tàu vẫn vắng tanh. Ánh đèn ngoài đường như thức đêm buồn ngủ đã chìm vào màn tối, một màn tôi dày đặc trước khi rạng đông vùng dậy. Tôkarin đậu xe trong bóng tối, kbiêng xốc lão Thọ bỏ lên phía sau, rồi phóng về Sài gòn.

Một lát sau, Tôkarin chạy qua cây xăng cuối cùng của thị trấn. Như ai nói nhỏ vào tai, hắn sực nhớ những điều học tập trong trường Kuchinô. Cách đây không lâu, trong một phút đãng tri, hắn suýt bại lộ ở Luân Đôn. Xe hơi bên Anh quốc chạy bên trái, Tôkarin quên chạy bên phải. Thắng không tốt thì hắn đã cán chết người, và... bại lộ. Sau chuyến công tác này, hắn thề quyết không đãng trí nữa.

Giảng sư về Nam Việt trong trường Kuchinô - một người Á đông, có cái bụng đầy mỡ và đôi chân vòng kiềng - dặn Tôkarin bằng giọng nói chậm rải và nghiêm trọng:

- Ở Liên Xô, muốn mua xăng phải xin phiếu của Cục Tiếp tế. Còn ở Sàigòn, cũng như ở các thị trấn Tây phương khác, anh cần bao nhiêu xăng cũng có. Anh chỉ cần lái vào, đưa chìa khóa cho người đổ xăng, rồi ngồi chờ trả tiền. Lệ thường, họ sẽ đổ nước vào bình điện, vào thùng nước, và bơm hơi vào bánh. Và trước khi đi, anh nên cho một ít tiền lẻ. Anh nhớ chưa?

Đáng tiếc là Trung ương không thể cử ai đón tiếp anh được ở Sàigòn. Vì công tác này, anh phải hoàn thành một mình, về chỗ ở, anh không sợ. Sàigòn có rất nhiều lữ quản và phòng trọ. Thấy anh là đại úy Mỹ, người ta sẽ không ngờ vực. Vả lại, điều cần thiết là anh trả tiền hậu hĩ. Sau hai ngày tập luyện, anh đã nhận diện được các loại bạc giấy Nam Việt. Trước khi trả tiền, anh hãy nhìn kỹ một lần nữa, vì anh là người ngoại quốc mới đến. Anh là người Mỹ, trước khi trả tiền, anh phải búng ngón tay vào tờ giấy cho kêu một tiếng lớn.

Ngừng một phút, giảng sư nói tiếp:

- Tới khách sạn, anh mặc cho bồi mang đồ lên phòng. Không như ở các nước xã hội chủ nghĩa, khách phải khệ nệ khiêng một mình. Đi dọc đường, nếu bị trẻ con chặn lại thì đừng ngại. Trẻ con ở Sàigòn không được huấn luyện như ở nước ta đâu. Phần nhiều, chúng chặn người ngoại quốc đế đánh giày, hoặc bán báo. Trong trường hợp này, anh phải đứng lại, kê chân lên cái hộp gỗ của trẻ đánh giày, hoặc rút tiền mua báo. Còn một chi tiết quan trọng nữa: người Mỹ mê kẹo cao su. Anh phải nhai kẹo cao su luôn miệng. Thế thôi...

Xe «díp» chạy qua những cánh đồng rộng mênh mông. Tôkarin dừng lại đi bộ vào trong. 10 phút sau, hắn đã chôn xong lão Thọ. Hắn phủi tay, mở công tắc, ấn lút ga, phóng như tên bắn trên con đường nhựa thẳng tắp. Trời bắt đầu hừng sáng. Cái bóp phơi dày cộm của hắn cọ vào ghế. Bên trong, người ta đã để sẵn cho hắn một món tiền kếch sù, và một xấp giấy tờ do cơ quan cố vấn quân sự Mỹ cấp.

Trong túi, Tôkarin còn một cái gói nhỏ bằng nửa gói thuốc. Bên trong là ba hột kim cương lấp lánh. Mỗi hột đúng sáu ca-ra. Thiếu tiền, hắn có thể tới đường Tự Do bán.

Đường Tự do! Tôkarin đã làm quen với con đường lớn nhất Sàigòn này trên những bưu thiếp nhiều màu rực rỡ. Người ta cho hắn biết rằng những cái gì quý phái nhất và tráng lệ nhất đều diễu qua đường Tự do, nhất là buổi chiều thứ Bảy. Tôkarin vũ phu với đàn bà, song lại thích đàn bà. Dầu sao hắn cũng là con người. Và là người đàn ông chưa vợ. Tòkarin khao khát gặp những người đàn bà mặc áo dài, bó chặt thân thể, kín đáo mà hở lộ, mảnh mai mà nảy nở. Dư luận thường khen đàn bà Sài gòn đẹp. Đẹp như bài thơ tình của nhũng thi sĩ Trung Hoa cổ xưa.

Tôkarin thè lưỡi liếm mép. Đột nhiên, hắn cảm thấy khát nước. Một cơn gió mát rạng đông từ cánh đồng xanh rờn chạy tít đến chân trời thổi qua cửa xe, mơn man da thịt và làm hất mớ tóc bồng của Tôkarin. Trông hắn, nhiều người lầm với diễn viên màn ảnh. Nhiều người còn lầm Tôkarin là gã ăn chơi đàng điếm, búng nhẹ là ngã. Hắn lẩm bẩm:

- Hừ, búng nhẹ là ngã!

Trong một tiệm nhảy ở Tây Bá Linh, một gã to lớn đã dại đột buông lời khỉnh rẻ hắn như vậy. Song Tôkarin đưa mặt ra, lãnh hai trái đấm kinh khủng mà không suy xuyển. Ngược lại, Tôkarin chỉ vuốt nhẹ một cái là khối thịt khổng lồ trên một tạ đã bổ chửng, làm bàn ghế đổ nát.

Sức mạnh không quật nổi Tôkarin, nhưng có lần đàn bà làm hắn thất điên bát đảo. Hắn mê một cô gái làm nghề chiêu đãi ở Mạc Tư Khoa. Nàng không thèm để ý đến cặp mắt đa tình và thân hình cường tráng của hắn. Có lẽ vì thất tình nên hắn gia nhập ngành do thám, và từ đấy hắn trở nên tàn nhẫn, nhất là với phụ nữ.

Một hòi còi ré lên làm Tôkarin tỉnh mộng.

Giật mình, Tôkarin hãm bớt tốc độ. Tiếng còi vẫn rúc liên hồi. Trống ngực Tôkarin đập mạnh, tuy hắn là điệp viên nổi tiếng bình tĩnh. Theo chỉ thị, hắn có thể lái thẳng từ Cấp về Sàigòn. Phải chăng đối phương đã biết? Tôkarin bàng hoàng nhớ đến lão Thọ. Có lẽ oan hồn của lão đã hiện về.

Một chiến xa sơn đen chùi chũi bò ra giữa đường. Con đường phía trước rất hẹp, hai bên là ruộng đầy nước, Tòkarin không còn cách nào hơn ngừng lại. Vả lại, hắn không có lý do bỏ chạy. Hắn chỉ bực mình vì trung ương R.U. đã sai lầm. Hoạt dộng ở ngoại quốc, người điệp viên đặt cuộc đời của mình vào kế hoạch của Trung ương. Đi sai một nước cờ, tính lầm một chi tiết là chết.

Bị thắng gấp, xe díp nghiến ken két. Trời đã sáng rõ. Ở chân trời, nổi lên một đảm mây hồng phơn phớt. Tuy nhiên, sương mù còn dầy đặc. Những tảng sương trắng xóa nổi bồng bềnh trên mặt ruộng, và bay từ từ trên đường nhựa, tạo cho cảnh vật một sắc thái độc đáo và lạ lùng.

Tôkarin chưa kịp xuống xe thì từ ngôi nhà nhỏ bên đường chạy vụt ra một quân nhân tay cầm súng mảy. Nhận ra sổ ngoại giao đoàn, người này đứng lại, đeo tiểu liên lên vai, rồi tiến tới trước mặt Tôkarin.

- Chào đại úy. Đại úy đi đâu vào giờ này?

Tôkarin bắt đầu hoàn hồn. Đeo súng vào vai, người lính đã coi hắn là bạn, là đại úy Mỹ thực thụ. Hẳn bèn đáp, bằng tiếng Mỹ trơn tru và đúng giọng học trong trường điệp báo Kuchinô:

- Về Sài gòn.

Người lính lắc đầu:

- Không được đâu. Xin đại úy chờ ở đày một lát rồi hãy đi. Phía trước có cuộc hành quân.

Người lính không hiểu tiếng Anh nhiều nên khi Tôkarin liến thoắug đáp lại, chie nhe răng cười. Tôkarin rồ máy, toan phóng đi, thì người lính xua tay. Tuy người lính vẫn giữ thái độ nhã nhặn, hầu như thân thiện, Tôkarin lại chột dạ. May thay một thiếu úy trẻ tuổi từ trong đồn canh bước ra. Viên thiếu úy này nói tiếng Anh khả lưu loát:

- Đại úy về Sài gòn về việc riêng hay công? Sở dĩ tôi tò mò vì cuộc hành quân lục soát cách đây 5 cây số chưa chấm dứt, mọi xe cộ đều bị chặn lại. Tôi sợ đạn lạc, gây nguy hiểm cho đại úy.

Tôkarin mỉm cười:

- Không hề gì. Dầu nguy hiểm, tôi cũng phải đi.

Nói đoạn, Tôkarin rút chứng minh thư ra. Trên tấm thẻ lát-tích, chức vụ của Tôkarin đã được ghi rõ: sĩ quan tình báo thuộc bộ tư lệnh cố vấn. Viên thiếu úy hỏi thêm:

- Đại úy đi công vụ?

Tôkarin nhún vai đáp:

- Vâng. Bộ tư lệnh gọi tôi về gấp. Lẽ ra, tôi đáp máy bay, nhưng không kịp.

- Tại sao đại úy không mang tài xế?

Câu hỏi bất ngờ làm Tôkarin choáng váng. Viên thiếu úy, chỉ huy đồn canh, đã có một trí nhận xét tinh tế. Quân nhân trung cấp ít khi lái xe một mình trên đường dài trên một trăm cây số. Phương chi lại đi công tác. Một lần nữa, Trung ương R. U. đã sơ hở: đúng lý lão Thọ phải giả làm tài xế, rồi dọc đường thủ tiêu cũng chưa muộn.

Tuy nhiên, Tôkarin không đổi sắc diện. Trong trận chiến tranh lạnh ở Âu châu, nhất là ở thành phố Bá Linh, nhiều nhân viên do thám đã mất mạng một cách oan uổng và thảm thương, vì tái mặt, tỏ vẻ sợ sệt trước một câu hỏi đột ngột. Tôkarin bèn đáp lại bằng nụ cười tươi tắn, nụ cười đã lôi cuốn hàng trăm đàn bà trong đời:

- Ô, tài xế uống rượu say mèm, chưa dậy. Vả lại, tôi thích lái xe một mình để hưởng khí trời mát mẻ, và nhìn ngắm phong cảnh dọc đường. Tôi mới qua đây, chưa có dịp về thăm vùng quê. Đường về Sài Gòn rất an ninh, theo tôi chẳng cỏ điều gì đáng ngại.

- Tôi hoàn toàn đồng ý với đại úy. Tuy nhiên, tôi không muốn đại úy gặp trục trặc dọc đường. Dầu tôi để đại úy đi, lát nữa sẽ có người khác giữ lại. Là quân nhân, tôi có bổn phận thi hành lệnh trên. Nếu đại úy cần về gấp, tôi sẽ điện thoại ngay cho bộ tư lệnh. Đại úy thuộc phòng nào ở Sài Gòn?

Bồ hôi lấm tấm trên cổ Tôkarin. Hắn bèn tìm kế thối lui:

- Phòng 2, như thiếu úy đã biết. Nhưng thôi, giờ này văn phòng chưa làm việc.

Viên thiếu úy đon đả:

- Không sao. Tôi sẽ liên lạc với ban thường trực. Xin lỗi, quân số của đại úy bao nhiêu?

Như cái máy, Tôkarin móc chứng minh thư ra lần nữa. Dĩ nhiên, đó là chứng minh thư giả. Quân số của hắn cũng giả. Ban thường trực ở Sài gòn sẽ phăng ra trong vòng 5 phút. Song hắn không thể từ chối. Hắn chỉ còn một hy vọng mỏng manh: hạ sát viên thiếu úy.

Tôkarin xuống xe, chậm rải theo viên thiếu úy vào đồn gác. Trong đồn, cả thảy có 3 người. 3 người đối với Tôkarin chỉ là trò đùa. N?