← Quay lại trang sách

Chương 18 HẠNH KIỂM TỐT-TỰ CHỦ TRONG LÚC TƯ TƯỞNG

Ðức Thầy kể sáu điểm về hạnh kiểm đặc biệt, bắt buộc phải có là:

Tự chủ trong lúc tư tưởng.

II. Tự chủ trong lúc hành động.

III. Khoan dung.

IV. An phận.

V. Ði thẳng đến mục đích cũng có thể dịch là tư tưởng cố định [55].

VI. Lòng tin cậy.

(Tôi biết vài điểm trên đây thường được dịch khác, chẳng hạn như những danh từ về các đức tánh cần thiết, nhưng tôi luôn luôn dùng những danh từ của Ðức Thầy đã dùng khi giảng giải cho tôi).

A. B. Theo lời Alcyone, vài danh từ đã được Ðức Thầy dịch có hơi khác với những danh từ mà chúng ta đã quen dùng. Ðối với ba đức tánh đầu, chúng được dịch gần giống như những danh từ mà tôi đã dùng trong nhiều năm qua. Ba đức tánh sau cùng dịch có hơi khác, dù nghĩa chính của chúng vẫn là một. Tôi luôn luôn dịch đức tánh thứ ba của các điểm thuộc về Hạnh Kiểm Tốt là "Khoan dung", như Ðức Thầy dịch ở đây, nhưng tôi biết nhiều người không đồng ý về sự chọn lựa danh từ này. Danh từ do tiếng Phạn là Ouparati, nguyên nghĩa của nó là "Ngừng lại", "Ðình chỉ" (chúng tôi nghĩ rằng danh từ ngừng lại liên hệ đến những tình cảm như tinh thần chỉ trích và sự bất mãn. Vậy trạng thái tích cực của đức tánh này là sự khoan dung).

Tôi luôn gọi điểm thứ tư là "Sự chịu đựng" hay Titiksha. Thật ra, ý nghĩa An phận vẫn không thay đổi, vì chịu đựng ắt phải kèm theo sự An phận. Trong trường hợp này, Ðức Thầy vui vẻ một cách đặc biệt - nếu tôi dám mạo muội dùng chữ này - Ngài phiên dịch bằng cách làm nổi bật đặc tánh ấy. Mỗi người lấy nó làm đề tài tham thiền thì rất tốt. Kế đó là đức tánh "Ði thẳng đến mục đích". Chính do chữ Phạn là Samadhana mà tôi dịch là "Thăng bằng". Ở đây ý nghĩa cũng giống như nhau vì người mà đường hướng không thay đổi, cố định thì thăng bằng và ngược lại người được thăng bằng thì đường hướng không thay đổi. Sau cùng, đến chữ Shraddha mà tôi luôn luôn gọi là "Ðức tin". Ở đây Shraddha được dịch là "Lòng tin cậy", nhưng một lần nữa ý nghĩa ở đây vẫn in như nhau, vì tôi luôn luôn định nghĩa Ðức tin là Lòng tin tưởng sâu xa ở Thượng Ðế bên trong chúng ta [56] và ở nơi Ðức Thầy. Ðiều tốt hơn hết là ghi nhận những điểm dị biệt và những điểm tương đồng, chúng giúp chúng ta hiểu rõ ý nghĩa.

I. Tự chủ trong tư tưởng: Ðức tánh cần thiết, được mệnh danh là đoạn tuyệt, chỉ cho chúng ta biết rằng phải làm chủ Cái Vía. Tuy nhiên cũng phải làm chủ Cái Trí nữa. Ðiều này có nghĩa là chế phục tánh khí làm sao cho không thể giận hờn hay nóng nảy. Cũng phải chế phục Cái Trí thế nào cho tư tưởng luôn luôn được yên lặng và thanh tỉnh; và nhờ Cái Trí trấn áp bộ thần kinh cho nó ít căng thẳng được bao nhiêu tốt bấy nhiêu.

C. W. L. Trấn an bộ thần kinh quả là một trong những điều khó khăn đối với chúng ta, vì chúng ta đang cố gắng thực hiện một kinh nghiệm mới lạ tức là hối thúc sự tiến hóa của mình (do đó chúng ta cần tinh lọc những thể thấp và làm cho chúng trở nên càng ngày càng nhạy cảm), trong lúc phải lo cuộc sinh sống giữa thế tục. Vấn đề này càng khó khăn thì cuộc chiến thắng của chúng ta càng vinh quang. Khi chế phục được chúng rồi thì chứng tỏ rằng nhờ ý chí chúng ta đã tiến bộ hơn vị tu sĩ hay vị ẩn sĩ.

Ðôi khi người ta trừ được tánh nóng nảy, nhưng sự kiểm soát trọn vẹn các thể thấp còn khó khăn. Có thể còn có lúc bực tức, nổi nóng, trong khi thực sự tánh nết nóng nảy khi xưa đã hoàn toàn biến mất. Như thế ít nguy hại hơn là còn tánh nóng nảy mà che đậy nó, nhưng chúng ta cũng phải trừ tuyệt tánh đó đặng những người ở chung quanh chúng ta đừng lầm lạc. Nếu bạn có Thần Nhãn bạn nhìn vào Thể Vía của một người đi đường nào đó, bạn sẽ thấy nó là một khối quay cuồng. Thay vì có những đường vạch rõ rệt, những màu sắc phân minh vận chuyển điều hòa, thì bạn lại thấy hiện trên mặt năm mươi hoặc sáu mươi lòng chảo nhỏ, hay là những xoáy ốc quay cuồng mãnh liệt đến đỗi mỗi sự xoáy nhanh ấy tạo thành một cái gút cứng ngắt giống như một mục cóc. Bạn hãy quan sát những mục cóc này, tất cả đều sinh ra bởi hàng loạt những cử chỉ nóng nảy, những sự lo lắng nhỏ mọn, những tình cảm như hờn mát, ganh ghét, đố kỵ, cũng có thể là sự hận thù đã nổi dậy trong người này, trong vòng bốn mươi tám giờ qua. Những trốt xoáy lớn hơn và lưu lại lâu dài hơn, nếu y cứ lập lại nhiều lần cùng trong một tư tưởng như thế đối với một người khác.

Ngày nào con người còn ở trong tình trạng này thì ngày đó y không thể nào suy tư một cách sáng suốt và chính xác như y có thể làm được. Nếu y muốn suy nghĩ hay viết về một đề tài nào đó thì những luồng trốt xoáy này nhuộm màu và làm biến đổi lối nhìn của y, dù y có quên đi những cảm xúc đã làm nảy sinh ra chúng. Người ta quên cơn xúc động của sự bất mãn, không biết rằng hiệu quả của nó vẫn tồn tại và thường thường những luồng trốt xoáy này vẫn không thay đổi.

Các nhà có Thần Nhãn hay có Thiên Nhãn nhận biết những thành kiến, những tiên kiến một cách rõ ràng. Chất Trí Tuệ phải di chuyển mau lẹ, chẳng phải trên mặt nhưng trong vài vùng hay khu vực. Nói một cách tổng quát, chất khí có khuynh hướng tự sắp xếp theo mật độ của nó. Chất khí thô kệch di chuyển trong một mức độ nào đó khắp châu thân, nó có khuynh hướng qui tụ ở phần dưới hình bầu dục. Do đó những người bị chi phối bởi những tư tưởng, những tình cảm ích kỷ, thì hình bầu dục ấy giống như quả trứng được thăng bằng theo đầu lớn của nó. Ðối với những người thật sự vị tha hoặc tiến hóa trên phương diện Huyền Bí Học, thì hình bầu dục giống như quả trứng đứng sửng trên đầu nhỏ. Thể trí có bốn khu vực hay bốn vùng riêng biệt chấp chứa những loại tư tưởng khác nhau.

lực - nói theo nghĩa từng chữ thì như thế - chứng bệnh của Thể Trí đến ghép vào điểm này. Những thiên kiến của y làm sự phán đoán của y không thể tránh khỏi sai lạc cho đến khi nào y bắt đầu tự chữa trị cho mình lành mạnh bằng cách kiểm soát và thanh lọc Cái Trí có phương pháp. Chỉ tới chừng đó, y mới có thể nhận thức đúng, nghĩa là thấy mọi vật như Ðức Thượng Ðế đã thấy, đã hiểu biết toàn thể hệ thống của Ngài một cách chính xác như nó đang hiện hữu.

Những thành kiến không cần phải nghịch hẳn với người hay vật, mà thường lắm khi chúng lại trợ giúp cho người và vật nữa. Dù ở trong trường hợp này thành kiến cũng là một chân lý bị biến đổi, mà sự sai dị ấy cũng hiện ra trong hào quang. Một trong những trường hợp thường xảy ra là một bà mẹ không hề tin rằng từ tạo thiên lập địa đến giờ không có một hài nhi nào phi thường như con bà. Một thí dụ khác: một nghệ sĩ không thể thấy cái gì tốt đẹp trong bất cứ trường Mỹ thuật nào khác hơn trường Mỹ thuật của y.

Tất cả những điều này, xét về phương diện tâm linh giống như một vết thương hở miệng, xuyên qua đó sức mạnh ý chí con người thoát ra ngoài không ngừng. Ðó là trường hợp của một người bực trung. Nếu y tánh tình buồn bực, thì dĩ nhiên tình trạng còn tệ hơn nữa, con người chỉ là một vết thương. Y không còn sức lực nữa, tất cả đã bị tiêu hao. Nếu chúng ta muốn giữ thần lực để dùng vào việc hữu ích - và phải như vậy nếu muốn trở thành nhà Huyền Bí Học - thì công việc đầu tiên của chúng ta là diệt trừ tất cả những nguyên nhân gây ra những hao tổn này. Muốn dập tắt một đám cháy phải cần một vòi nước. Nước phải được phun ra dưới một áp lực mạnh mẽ và vòi hoặc ống nước phải không có một lỗ trống nào. Ðối với chúng ta điều này tiêu biểu sự yên tĩnh và kỷ luật về tư tưởng.

Người bực trung dường như có chút ít hoặc không có sức mạnh của ý chí. Dưới áp lực của những sự khó khăn, y chán nản, rên siết và than vãn thay vì phải dùng ý chí để giải quyết chúng. Có hai lý do để giải thích sự nhu nhược này. Mức độ sức mạnh trong mỗi người tùy thuộc ở cách hiểu biết Chơn Ngã của y, và tùy thuộc ở sự phát triển của y do cái Ngã Duy Nhất, tức là Ðức Thượng Ðế ở trong y. Theo nguyên tắc, sức lực của chúng ta đều bằng nhau, nhưng sở dĩ con người khác nhau là do sự phát triển của tinh thần trong mỗi người. Nơi người thường có rất ít năng lực, mà y còn phung phí cái y đã có nữa.

Ða số những người trong chúng ta muốn có ý thức rõ rệt hơn về sự hiện diện của Ðức Thầy và về việc đem từ cõi cao xuống óc xác thịt nhiều thứ ảnh hưởng tốt lành khác. Những ảnh hưởng này phải xuống bằng cách mượn những thể khác nhau và sự phản chiếu của chúng xuyên qua từ thể này đến thể kia. Bạn hãy nhìn mặt nước hồ hay mặt nước sông phản chiếu hình ảnh một bụi cây. Nếu mặt nước tuyệt đối yên lặng, bức tranh thật hết sức đẹp. Mỗi lá cây đều được trông thấy rõ ràng. Nhưng một gợn sóng nhỏ cũng đủ xáo trộn trọn cả hình ảnh, hoặc một cơn gió bão thổi đến, thì toàn thể hình ảnh ấy phải biến mất. Ðiều này thật đúng đối với những gì đã xảy ra trong Thể Vía và Thể Trí. Phải bắt chúng nó yên lặng và bất động, nếu chúng ta muốn cho chúng nó truyền đạt những ảnh hưởng thật sự và quí báu từ cõi cao đưa xuống. Người ta luôn luôn hỏi rằng: "Tại sao chúng ta không nhớ lại những hành động của chúng ta trong giấc ngủ"? Và đây là lý do của sự kiện ấy: Vì những thể thấp chưa được yên tịnh cho lắm. Thỉnh thoảng, chúng trở nên khá yên tịnh để truyền đến cái óc xác thịt một điều gì, tuy nhiên trong trường hợp này, thường thường cũng bị biến dạng một ít, vì các thể trung gian không hoàn toàn trong sáng. Sự kiện này cũng giống như khi ta nhìn một vật xuyên qua một ve chai thay vì nhìn qua một tấm kiếng, những kích thước, những khuôn khổ của vật ấy sẽ bị biến đổi.

Khi được yên tịnh, chúng ta có thể làm việc mặc dù có những sự xáo trộn và buồn phiền, nhưng hiển nhiên muốn duy trì sự yên lặng của các thể thấp trong những trường hợp đó, chúng ta luôn luôn phải cố gắng. Sự cố gắng khó nhọc đến đỗi vài người không thể chịu nổi, nhưng họ phải dần dần thu hoạch sức mạnh cần thiết ấy.

Nhờ giữ kỷ luật đối với chính mình, nhà Huyền Bí Học tập làm việc một lượt trong hai cõi. Nói một cách khác trong khi làm việc tại cõi Trần, nhà Huyền Bí Học có thể xuất hồn ra. Trong lúc đang viết hay nói, ông có thể ở trong Cái Vía làm những việc khác. Chẳng hạn tôi nghe nói rằng trong khi tôi diễn thuyết có nhiều thính giả thấy những người ở Trung Giới đứng trên bệ đến gần tôi và nói chuyện với tôi. Những quan sát viên ấy không lầm. Thường thường những người khuất mặt này đến gần như thế để hỏi một vấn đề gì rồi chờ câu trả lời hoặc nhờ giúp đỡ một việc gì, trong khi cuộc diễn thuyết vẫn tiếp tục. Ðó là một thí dụ tạm thời tầm thường, nhưng có nhiều công việc quan trọng hơn, nhà Huyền Bí Học phải sử dụng Tâm Thức mình một cách phức tạp để hoàn tất.

Trong mức độ nào đó, lắm khi sự định trí song hành vẫn được thực hiện trong đời sống hằng ngày. Nhiều bà có thể vừa đan vừa nói chuyện vì công việc đan ấy đối với họ trở thành tự động. Tôi thường đến một trong những ngân hàng lớn ở Luân Ðôn. Nơi đây tôi thấy nhiều nhân viên có thói quen vừa cộng những hàng số dài, vừa ca nho nhỏ đặng làm vui tai các đồng nghiệp của họ. Tôi nhìn nhận tôi không thể làm như thế được, nhưng tôi đã thấy họ đã làm nhiều lần.

A. B. Trong đoạn giải về Ðoạn Tuyệt, Ðức Thầy đã nói về sự kiểm soát Thể Vía và dục vọng dưới mọi hình thức. Trong đoạn đề cập đến sự Phân Biện, Ngài cũng nói nhiều về chân lý bao hàm về sự thanh lọc Thể Trí. Rồi Ngài nói qua sự kiểm soát tư tưởng và những xúc động. Một sự xúc động là sự kết hợp giữa tư tưởng và dục vọng. Nói một cách khác những mối xúc động là sự ham muốn pha lẫn tư tưởng. Khi Ðức Thầy đề cập đến sự kiểm soát tánh khí của chúng ta, thì Ngài nói về sự xúc động, vì sự nóng nảy và những tình cảm tương tợ khác đều phát sinh một phần do Thể Vía và một phần do Thể Trí. Người chí nguyện làm nhà Huyền Bí Học không được để cho tánh khí hăng hái lôi cuốn mình, vì ngày nào chưa chủ trị được nó để chế ngự những cảm xúc náo loạn, thì ngày đó y không thể thấy được một cách sáng sủa hoặc rõ ràng. Những làn rung động của sự cảm xúc làm nổi dậy trong chất khí thuần túy của Thể Trí một cách kích thích tương ứng, do đó tất cả những tư tưởng của kẻ chí nguyện bị xáo trộn và biến thể, nên y không thể thấy một cách chính xác.

Ðức Thầy nói rằng chính tư tưởng phải yên lặng và trầm tĩnh. Ðó là điều cần thiết, vì chỉ trong các điều kiện này những ảnh hưởng trên cõi cao mới có thể tuôn xuống Hạ Trí. Chính vì thế nên trong quyển Thế giới huyền bí (Le Monde occulte) Ông Sinnett đã kể lại trong một bức thư cũng là của Ðức Thầy này nói với ông rằng nếu ông muốn viết cho hữu ích, thì ông phải giữ Cái Trí cho tĩnh lặng. Bây giờ những tư tưởng trên cõi cao sẽ phản chiếu xuống như núi non phản chiếu trên mặt hồ yên lặng.

Thật là chí lý, nếu bạn muốn viết một bức thư về một đề tài quan trọng, như Thông Thiên Học chẳng hạn, hoặc viết một bài báo, bạn nên ngồi yên tĩnh tâm trong vài phút trước khi khởi công. Như thế không phải là phí mất thì giờ, vì khi bạn bắt đầu viết, bạn sẽ thấy tư tưởng tuôn ra một cách thanh thản mà không cần cố gắng, và bạn không cần phải dừng lại để hỏi xem bạn sẽ tiếp tục nói điều gì. Sở dĩ có sự kiện này vì Thượng Trí đã phản chiếu xuống tấm gương của Hạ Trí. Phương pháp thực hành này đặc biệt quan trọng đối với những người còn chưa thể xóa bỏ được những ảnh hưởng ngoại giới.

Người ta có thể dùng sự xáo trộn gây ra bởi hoàn cảnh bên ngoài để thực hành sự định trí. Lúc tôi còn bé, tôi phải học bài trong một căn phòng mà nơi đó nhiều đứa trẻ đang thụ lãnh một môn học khác. Tình trạng này dần dần tạo cho tôi một khả năng làm những công việc riêng của tôi, trong khi mọi hoạt động khác đang diễn tiến chung quanh tôi. Do đó, ngày nay tôi có thể làm việc mà không bị những gì xảy ra ở một bên cạnh tôi quấy rầy tôi, dù trong những điều kiện đó, tôi cũng không thể làm những bài toán một cách dễ dàng. Tôi luôn luôn nhớ ơn bà thầy dạy học tôi là cô Marryat. Sự thực tập tạo ra năng lực, và năng lực có thể dùng trong nhiều đường lối khác. Chẳng hạn tôi nhận thấy rằng tôi có thể dùng năng lực này khi tôi ở ngoài xác thân lúc tôi viết về một trong những tiền kiếp của Alcyone.

Trong nếp sống của những gia đình Ấn Ðộ, năng lực này phát triển một cách hoàn toàn tự nhiên, vì người Ấn Ðộ có thói quen làm nhiều việc khác nhau trong cùng một căn phòng, không kể những đứa trẻ chạy khắp nơi và nhiều chuyện lặt vặt khác. Ở trường làng cũng như ở tại nhà, nhiều trẻ con học trong cùng một giờ những bài học khác nhau. Tất cả đều đọc lớn, mỗi em đều chăm chú vào bài của mình, dưới sự chăm nom chung của một ông thầy sẵn sàng sửa lại tức khắc những lỗi của chúng. Tôi tưởng rằng đây không phải là một lối dạy học lý tưởng đối với một môn học nào, nhưng trẻ con tập định trí, điều này sẽ rất hữu ích cho chúng về sau này.

Nếu bạn đạt được khả năng đó thì càng tốt. Vậy, nếu bạn bị bắt buộc phải sống trong hoàn cảnh ồn ào, bạn chớ phàn nàn, mà lợi dụng hoàn cảnh ấy. Ðó là lối làm việc của sinh viên Huyền Bí Học. Tôi nhấn mạnh đặc điểm này, vì chính nhờ những phương tiện đặc biệt như thế mà người ta trở thành nhà Huyền Bí Học. Công việc được hoàn thành trong những hoàn cảnh khó khăn là cơ hội giúp cho chúng ta tiến bộ. Ðó là một trong những lý do khiến cho vài người trong chúng ta đã tiến triển, còn những kẻ khác thì kém hơn. Riêng tôi, tôi luôn luôn cố gắng thích nghi với hoàn cảnh, chớ không phàn nàn. Bằng cách đó chúng ta sẽ không bỏ lỡ một cơ hội nào để tiến hóa.

Ðiểm sau chót này khó đạt được, vì khi con cố gắng chuẩn bị để bước vào Ðường Ðạo, thì con không thể nào ngăn cản thân con không cho nó nhạy cảm hơn trước, vì lẽ đó mà một tiếng hay một sự đụng chạm đều làm cho những dây thần kinh của con bị chấn động một cách dễ dàng, và dù bị chạm phớt nhẹ, chúng cũng nhức nhối vô cùng, nhưng con phải cố gắng hết sức con.

A. B. Ðức Thầy nói khó mà chủ trị được những dây thần kinh. Vì lẽ xác thân là thể ít chịu tuân theo sự hành động của tư tưởng. Bạn có thể hành động một cách dễ dàng đối với Thể Vía và Thể Trí, vì chúng được cấu tạo bằng chất khí thanh bai nên có thể thích ứng nhiều với tư tưởng. Nhưng vật chất Hồng Trần nặng nề hơn, nên ít ứng đối hơn và khó chủ trị hơn. Tuy nhiên, chúng ta phải đạt được mục đích.

Người đệ tử phải nhạy cảm, đồng thời phải có một xác thân và bộ dây thần kinh hoàn toàn tuân theo kỷ luật. Một khi sự nhạy cảm càng tăng, thì nỗi khó nhọc càng lớn. Nhiều tiếng động đối với người thường không có gì đáng kể, nhưng đối với người nhạy cảm lại là một sự hành hạ. Có vài chứng bệnh làm phát triển sự nhạy cảm quá độ của bộ thần kinh, nên trong nhiều trường hợp có tiếng chó sủa cũng có thể gây ra những sự động kinh [57]. Thí dụ này đủ chứng tỏ rằng bộ thần kinh cảm xúc lẹ làng là chừng nào!

Những dây thần kinh của sinh viên Huyền Bí Học thì không bệnh hoạn. Nếu chúng đau yếu, thì y không bị bắt buộc phải luyện tập. Nhưng y giống như một sợi dây căng thẳng, vừa đụng đến thì nó rung động liền. Những dây thần kinh của y trở nên nhạy cảm đến cực độ, nên muốn ngăn cản sự nóng nảy, y phải dùng đến sức mạnh vĩ đại của ý chí. Ở trong tình trạng đó, sự căng thẳng thể xác có thể lớn lao đến nỗi trong vài trường hợp, như trường hợp của Bà Blavatsky, đôi khi tốt hơn nên để cho xác thịt hành động tự do, hầu ngăn chặn trước một sự đổ vỡ hoàn toàn. Bà phải giữ xác thân để hoàn thành nhiệm vụ được giao phó, nên bà không để cho sự căng thẳng đi đến chỗ gãy đổ. Nhưng đó là trường hợp ngoại lệ. Người chí nguyện nhất định nghe theo lời giáo huấn của Ðức Thầy, phải làm những điều Ngài dạy ở đây và phấn đấu hết sức mình để chế phục bộ thần kinh của y. Thường thường y không đạt được ý muốn, nhưng điều đó không quan hệ lắm. Những lời cuối cùng của Ðức Thầy về việc ấy như sau: "Con phải cố gắng hết sức con". Ngài không đòi hỏi nhiều hơn: vậy bạn không nên để cho sự thất bại khiến cho bạn ngã lòng, mà hãy tiếp tục làm hết sức mình.

Tình trạng rối loạn như thế đôi khi phát sinh từ một lý do bên trong của chúng ta, bởi quá cẩn thận và ý thức mà do đó những sinh viên hết sức nhiệt thành cũng có thể vấp ngã. Có hai khuynh hướng phát hiện trong những sinh viên: khuynh hướng thứ nhất là lôi thôi, chểnh mảng; khuynh hướng thứ nhì là hành hạ mình. Trong trường hợp thứ nhì, tâm thức có thể đi đến một tình trạng giống như trạng thái những dây thần kinh căng thẳng quá độ. Do đó những sinh viên ưu tú đã cho là quan trọng những sa ngã nhỏ nhặt. Bạn đừng quá nhấn mạnh những điều ấy đến đỗi chúng trở thành những tội ác lớn lao. Bạn hãy đi theo con đường trung dung giữa hai cực đoan đó. Trước khi sự việc xảy ra bạn không thể quá thận trọng, nhưng sau đó, rất dễ mà tự làm cho mình khổ sở. Ðừng nhấn mạnh những lỗi lầm hay những thất bại của bạn. Bạn chỉ nên xem xét chúng để nhận thấy nguyên do, rồi cố gắng nữa. Khi hành động như thế, những khuynh hướng khiến cho bạn nóng giận sẽ tiêu tan. Còn nghĩ đến chúng, chỉ tăng cường sức mạnh cho chúng thôi.

C. W. L. Xác thân là một thể mà ý chí ít ảnh hưởng được nhiều. Người ta thường nói: "Có thể sai khiến thể xác hoạt động và chủ trị luôn tình cảm, nhưng điều khiển tư tưởng là điều thật khó khăn hơn nhiều". Không có gì khó khăn hơn, đó chính là điều mà mọi người tin như thế. Trên vài phương diện, thật đúng vậy, vì chất khí làm ra Cái Trí ( Chất Trí Tuệ ) thanh bai và linh động hơn; có những sự vận chuyển, có nhiều sáng kiến phải kiểm soát. Một mặt khác, Thể Trí gần với Chơn Nhơn hơn; Chơn Nhơn có nhiều sức mạnh để giữ lấy và sử dụng chất Trí Tuệ, điều đó hơn việc có sức mạnh để sử dụng nó tại cõi vật chất này; mà vật chất Hồng Trần cũng ít nhạy cảm hơn. Những người tưởng rằng công việc ấy dễ hơn vì họ quen kiểm soát xác thân, chớ không quen chủ trị Cái Trí.

Người ta thường nghe nói rằng chúng ta có thể chế ngự sự đau khổ xác thân, mà không thể không biết sự đau khổ của Trí Tuệ. Nhưng sự thật thì trái ngược lại! Sự đau đớn về Trí Tuệ hay thuộc về tình cảm sẽ ngưng hẳn, nếu người ta cương quyết xua đuổi nó ra xa, nhưng thật khó quên một sự đau đớn mãnh liệt của thể xác, mặc dù người ta có thể làm dịu bớt nhiều bằng cách không tưởng nhớ tới nó nữa. Nhà Khoa học Thiên Chúa Giáo đã đạt được điều đó bằng cách phủ nhận sự đau đớn. Y chỉ để cho xác thân chịu đau thôi. Cách này tương đối không được hay lắm.

Chúng ta phải tập chế ngự Cái Trí bằng cách loại ra khỏi nó những sự đau đớn của xác thân, vì là đệ tử Chơn Sư, chúng ta phải làm cho mình trở nên hết sức nhạy cảm. Do đó, những vị đệ tử lấy làm khó chịu khi ngồi gần một người uống rượu, hút thuốc, ăn thịt. Thật là một sự khổ hình khi phải đi trong thành phố qua một con đường thương mãi với cả ngàn tiếng động chát tai, ghê rợn. Tất cả những tiếng động đó xuyên qua thể xác và làm cho ta rùng mình, nhưng nếu nghĩ đến nó thì càng tệ hơn nữa. Còn không chú ý thì ít biết hơn. Vị đệ tử cố gắng đạt đến những cảnh giới cao siêu thì phải tập loại ra khỏi thể trí những cảm giác khó chịu này, mà không thêm cho chúng nó một tư tưởng nào có thể tăng cường sức mạnh của chúng.

Những ai có tập tham thiền sẽ nhận thấy mình nhạy cảm hơn những người không luyện tập. Vì lẽ đó đôi khi xác thân không ngớt bị căng thẳng một cách đặc biệt. Người ta thường nói rằng Bà Blavatsky vẫn nổi nóng. Dĩ nhiên điều này có một lý do rất giản dị: chắc chắn vì tình trạng đáng thương hại của thể xác bà. Tôi tin chắc xác thân bà không ngớt đau nhức. Bà đã lớn tuổi, xác thân bà suy nhược, mỏi mòn, nhưng chỉ có nó mới thích hợp với công việc đặc biệt mà bà có bổn phận phải hoàn thành, vì vậy bà phải duy trì nó chớ không thể vứt bỏ như nhiều người trong chúng ta. Tuy nhiên, một hôm dịp may đưa đến cho bà bỏ xác. Nhưng bà nói: "Không! Tôi sẽ giữ nó cho đến khi nào tôi hoàn thành bộ Giáo Lý Bí Truyền", đó là công việc của bà lúc ấy. Vì lẽ đó, thân xác của bà ở trong tình trạng căng thẳng khủng khiếp và đôi khi bà dịu bớt một phần nào sự đau đớn bằng cách để thể xác tự do muốn làm chi thì làm. Thật ra, nhiều người không hiểu cái chi về việc đó; nhưng chúng tôi sống gần bà, chúng tôi cho những cơn giận dũi như thế không mấy quan trọng. Chúng tôi có ghi nhớ nhiều trường hợp dị thường. chẳng hạn, trong lúc bà thốt ra những lời nói dường như biểu lộ một cơn giận dữ, vì một chuyện vụn vặt nào đó, khiến cho những người mới đến với bà, không hiểu chi cả, phải rút lui, chúng tôi nhận thấy rằng trong khi bị kích thích đó, nếu có ai hỏi bà một câu Triết lý, thì tất cả đều tiêu tan, như thể một sợi dây bị cái kéo cắt đứt; cơn thịnh nộ của bà sẽ biến mất tức khắc và bà bắt đầu trả lời câu hỏi ấy. Một người thường trong cơn phẩn nộ không thể làm như vậy được. Nhiều người bỏ Bà Blavatsky, vì không hiểu bà, nhưng tôi biết chắc chắn rằng đôi khi bà buộc lòng phải chiều theo xác thân, nếu không thì nó sẽ tan vỡ.

Cái trí yên tịnh cũng bao hàm sự can đảm, như thế mới đương đầu với những sự thử thách và những nỗi khó khăn trên Ðường Ðạo mà không chút chi sợ sệt.

A. B. Tánh can đảm là một đức tánh mà những bản kinh Ấn Ðộ đều cho là cực kỳ quan trọng: nguồn cội của nó là sự thừa nhận Chơn Ngã vẫn là một. Người ta hỏi: "Ðối với những người đã thấy được Chơn Ngã thì còn sợ gì nữa, còn gì là ảo ảnh nữa"? Và cũng đáng ghi nhớ câu sau này: "Người Bà-la-môn rất can đảm". Trong quyển sách nhan đề Trước Thềm Thánh Ðiện (Vers le Temple) của tôi, tôi khuyên các sinh viên tham thiền về đức tánh lý tưởng, theo bản kê các đức tánh của Ðức Krishna đã kể ra ở đầu chương thứ mười sáu của Kinh Gita. Ðức tánh đầu tiên là Abhayam, nghĩa là Vô úy hay Can đảm.

Tánh can đảm phát sinh ra từ sự tin chắc rằng bạn là Chơn Ngã thiêng liêng ẩn tàng bên trong, chớ không phải là những thể bao bọc bên ngoài, chúng chỉ là thành phần của bạn có thể bị tổn thương. Sở dĩ quyền năng của người này khác với người kia vì chúng tùy thuộc vào trình độ của sức mạnh mà Chơn Ngã nội tại đã đạt được. Trên nguyên tắc, chúng ta đều có sức mạnh ngang nhau, nhưng sự tiến hóa phát triển theo nhiều thời kỳ phức tạp. Trong khi đạt đến sự tin chắc rằng bạn vốn thiêng liêng, bạn biết sự yếu đuối hay sức mạnh của bạn đều tùy thuộc vào sự phát triển Chơn Ngã ở nơi bạn. Vậy khi bạn kinh sợ, thì chỗ nương tựa của bạn là việc nhớ đến uy lực bên trong. Sự nhận thức rằng bạn là Chơn Ngã, là một trong những ý niệm mà sự tham thiền phải mang đến cho bạn. Những ai tham thiền buổi sáng nên đồng thời cố gắng thực hiện việc tìm hiểu Chơn Ngã. Như thế trọn ngày nhờ sự cố gắng đó họ sẽ dự bị được một phần tinh lực. Ðiều này giúp họ đạt được dễ dàng tánh can đảm cần thiết để tiến bước trên Ðường Ðạo. Nơi đó người ta gặp nhiều khó khăn, bắt buộc phải có sức mạnh của Linh Hồn và sức chịu đựng nếu muốn đương đầu với chúng nó và chiến thắng chúng nó. Những đặc tính này là những hình thái của tánh can đảm. Trên Ðường Ðạo sự vật mang một hình dáng mới, chúng cũng cần đến tánh can đảm. Muốn đạt được đức tánh này, tôi biết một phương thức duy nhất là hiểu biết Chơn Ngã.

C. W. L. Tất cả những hệ thống huấn luyện Huyền Bí Học đều nhấn mạnh về sự cần thiết của tánh can đảm. Khi bước vào Ðường Ðạo, con người phải sẵn sàng chịu đựng những lời phán đoán sai lầm, những điều vu khống, những sự ngộ nhận. Những người kiếm thế vượt cao hơn những kẻ đồng loại của mình luôn luôn phải hiểu những sự thử thách đó. Phải có một sức mạnh tinh thần mới chịu đựng nổi những điều ấy, giữ vững lập trường và làm điều gì mình cho là phải, dù cho những người chung quanh có tưởng, nói hoặc làm gì cũng được. Nó rất cần thiết đặng thực hành những lời dạy trong quyển sách này, phải thêm vào đó tâm hồn cao thượng và sự cương quyết mạnh mẽ. Riêng sự can đảm thuộc về hành động cũng cần thiết. Trên Ðường Ðạo có nhiều sự nguy hiểm và những sự khó khăn. Chẳng phải là tượng trưng mà chúng không phải chỉ có ở những cảnh giới cao siêu mà thôi đâu. Trên bước tiến của chúng ta, chúng ta phải chịu nhiều thử thách về sự can đảm và sự kiên trì. Chúng ta nên chuẩn bị về điều ấy. Kẻ nhát gan không thể tiến bộ trên Ðường Ðạo. Nơi đây chẳng phải cần đức hạnh thôi, mà cần phải có sức mạnh của tính khí không thể lay chuyển trước cảnh ngộ bất ngờ hay khủng khiếp.

Tôi biết bên Anh có một Hội Huyền Bí Học đã cố gắng trong nhiều tuần lễ, hiệu triệu vài nhân vật bên Trung giới [58] bằng cách đọc nhiều thứ thần chú. Rốt cuộc người ta đạt được kết quả là một sự hiện hình, nhưng không ai muốn ở lại khá lâu để xem hình ấy là ai. Cũng giống như thế, có nhiều người tìm cách đạt được kết quả trên những cảnh giới cao siêu, nhưng khi vừa thành công thì lại hoảng sợ. Một người lần đầu tiên xuất Vía mà tỉnh táo như lúc thức đây, có thể hơi cảm thấy lo sợ và tự hỏi: mình có thể trở về nhập xác được hay không? Y phải biết rõ rằng cái này cũng không quan hệ hơn cái kia. Y đã quen thuộc trong nhiều giới hạn, và khi chúng mất đi thình lình, rất có thể y cảm thấy mình bị mất chân đứng vững chải. Trên bước tiến, chúng ta thấy đức tánh can đảm, lòng dũng cảm chân thật và cương quyết là điều tối cần thiết. Phải đương đầu với tất cả những thế lực, chẳng phải là một trò chơi trẻ con.

Khi hiểu biết, khi nhớ rằng chúng ta là một với Thượng Ðế, chúng ta sẽ không sợ sệt chi cả. Nhưng đôi khi trước cảnh ngộ nguy biến thình lình, người ta quên đi và lại lùi bước. Không một ảnh hưởng tạm thời nào có thể kích động, hoặc làm tổn hại được chút nào Chơn Ngã nội tại. Vậy nếu chúng ta có thể tin chắc rằng, chúng ta là Chơn Ngã, chớ không phải là những thể bên ngoài, chúng ta sẽ không còn sợ hãi nữa. Nếu người ta còn cảm thấy sợ sệt một điều gì, thì phải tìm đến cái mãnh lực gia hộ bên trong, chớ không phải cầu cứu với sự trợ giúp bên ngoài. Về phương diện này, giáo lý Cơ Ðốc tầm thường đã gây ra những hiệu quả đáng tiếc. Họ bảo tín đồ phải luôn luôn nương cậy vào sự cầu nguyện. Và cầu nguyện có nghĩa là sự van xin, mà sự nài xin không thể áp dụng - nhưng người ta thường làm - cho trạng thái của sự khát vọng tối cao. Danh từ "cầu nguyện" do chữ La Tinh precari có nghĩa là xin, yêu cầu, không hơn không kém. Nếu chúng ta tin rằng Thượng Ðế là Ðấng Toàn Thiện, chúng ta hãy theo lời khuyên của Ðức Phật: " Con chớ nên than, chớ nên khóc, chớ cầu xin, mà hãy mở mắt ra nhìn. Ánh sáng bao phủ con, nếu con chỉ chịu giở tấm băng bịt mắt ra xem. Quang cảnh thật là kỳ diệu, xinh đẹp và cao cả hơn tất cả những gì mà con người có thể tưởng tượng hoặc xin xỏ bằng sự cầu nguyện; và nó sẽ không bao giờ chấm dứt. Không bao giờ".

Tôi biết nhiều người có thói quen cầu cứu với Ðức Thầy trợ giúp, khi họ gặp những khó khăn. Chúng ta có thể chắc rằng tư tưởng Ðức Thầy luôn luôn gần chúng ta. Và chắc chắn rằng chúng ta có thể đến gần Ngài, nhưng tại sao chúng ta lại làm rộn Ngài vì một việc mà chúng ta có thể làm lấy. Lẽ tự nhiên, chúng ta có thể cầu cứu Ngài, nhưng thật ra, nếu chúng ta có khả năng kêu gọi đến Ðức Thượng Ðế bên trong ta và nhận được sự giúp đỡ nhiều hơn, như thế chúng ta sẽ gần Ðức Thầy hơn là khi chúng ta thốt lời kêu cứu với Ngài một cách yếu ớt. Ðành rằng chúng ta có quyền cầu xin Ngài giúp đỡ, nhưng chúng ta biết rằng Ngài bận làm việc không ngừng cho nhân loại, sao chúng ta lại nghĩ đến việc kêu gọi Ngài, trong khi chúng ta còn một phương tiện nào đó có thể tự làm một mình được? Chúng ta chớ nên dùng phương thức đó, vì nó biểu lộ một sự thiếu đức tin. Không những không tin tưởng ở chính mình, mà chúng ta còn không tin tưởng ở uy lực thiêng liêng nữa.

Sự tham thiền cũng phải chuẩn bị để chúng ta đối phó với những cảnh ngộ bất ngờ và giúp chúng ta khỏi bị rối loạn. Những người đã hiểu được định luật bên trong phải giữ điềm tĩnh và can đảm, dù có việc gì xảy ra, vì chúng ta biết rằng giữ một thái độ như thế là điều kiện cần thiết của một sự tiến bộ thật sự. Sự đụng chạm, đảo lộn do một sự đụng chạm dữ dội vì xúc động sinh ra sẽ lưu lại trên các thể nhạy cảm của người đệ tử những dấu vết lâu dài.

Ðức tánh ấy cũng bao hàm tánh kiên quyết, nó giúp con chịu đựng dễ dàng những nỗi phiền muộn hằng ngày và tránh được các sự lo âu không ngớt về những chuyện nhỏ nhặt, chúng đã làm mất một phần lớn thì giờ của nhiều người.

A. B. Tánh kiên quyết là đức tánh cần thiết kế đó mà Ðức Thầy đã đề cập đến. Người đệ tử cần phải có đức tánh này mới khỏi bị lôi cuốn theo chiều gió. Chịu lệ thuộc vào những sự vật bên ngoài là nguyên nhân của mọi sự ưu phiền không ngớt. Người không đủ sức điều khiển những công việc riêng của mình được, thì không thể tận tụy cho công việc chính chắn nào cả. Cái điều làm cho con người hao mòn, chẳng phải là sự làm việc, mà là những mối bận tâm, và sự lập đi lập lại một dọc tư tưởng đau buồn. Người sợ sệt, rụt rè khó tránh được thói quen ấy, dưới hình thức này hay hình thức khác.

Trong vài trường hợp Cái Trí có khuynh hướng bày ra một tấn kịch có lớp lang, rồi nó sống trong tấn kịch của nó đã tạo ra. Ðiều đó thường xảy đến cho tôi. Tôi đề cập đến sự kiện này cũng như nhiều kinh nghiệm bản thân khác, vì tôi nghĩ rằng làm như thế lời nói của tôi sẽ sống động và hữu ích hơn là chỉ trình bày một cách trừu tượng. Ða số những người chí nguyện có lẽ đã để cho Cái Trí tạo nên những tấn kịch như thế, vì chúng ta đều có bản tính tương tợ nhau. Tôi thường tưởng tượng rằng trong lời nói và việc làm tôi đã làm phật lòng một người bạn thân của tôi, rồi tôi nghĩ ra cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi, từ lúc mở câu chuyện đến lúc cuối cùng. Vậy mà khi chúng tôi gặp nhau thật sự, không có điều chi xảy ra như tôi đã tiên đoán, vì những câu khơi mào của bạn tôi luôn luôn khác xa với điều mà tôi đã giả tưởng. Ðôi khi, như thế người ta đã gợi lên một cảnh tượng buồn thảm, rồi tưởng tượng sẽ phải hành động như thế nào trong những trường hợp cảm động giả tạo đó. Cuối cùng người ta đi đến trạng thái của Cái Trí bị khốn khổ, mà họ phải mất bao nhiêu tình cảm và xúc động. Trong tất cả mấy điều đó, không có cái chi xảy ra, và có lẽ không bao giờ xảy ra. Ðây chỉ là một sự phung phí năng lực mà thôi và không có cái chi khác.

Bày ra tấn kịch như thế chỉ tạo ra những sự ưu phiền vô ích. Ðó là làm suy nhược bản chất của trí tuệ và cảm xúc. Chỉ có phương thức duy nhất để diệt trừ thói quen này là bạn hãy tự đặt mình ra ngoài bối cảnh và ghi nhận xem bạn có một ảnh hưởng nào đến tư tưởng đầu tiên trong cả loạt không. Nếu có, bạn hãy làm chủ nó, bằng không, thì nghĩ đến chuyện chưa xảy ra chẳng ích gì và rốt cuộc, có lẽ nó chẳng bao giờ đến. Ðể cho Cái Trí mải miết tập trung tư tưởng vào những chuyện có thể xảy ra trong tương lai là việc làm vô ích. Cũng như suy nghĩ lẩn quẩn về những chuyện đã qua rồi cũng là điều bất lợi. Bởi vì bạn không thể thay đổi được quá khứ chút nào, thì lẽ tự nhiên buồn phiền về việc đã qua chẳng ích lợi gì cả.

Nhiều người cương trực đã đầu độc đời sống của mình, vì cứ luôn luôn nghĩ đến việc đã qua rồi và thầm nói: "Nếu tôi đã làm hoặc tôi không làm điều này hay điều khác, thì tôi chẳng bao giờ phiền muộn như vậy". Dù chúng ta nhìn nhận sự thật đúng như thế nào đi nữa, chuyện cũng đã qua rồi, không một tư tưởng nào sửa đổi được dĩ vãng. Vì mảng lo những chuyện đã xảy ra hoặc sắp xảy ra thình lình trong tương lai mà chúng ta bị mất ngủ ban đêm, lo lắng suốt ngày. Cái Trí hoạt động theo cách đó chẳng khác một cái máy thả hết tốc lực hay quả tim lồng lên một cách dữ dội, khi sức chịu đựng bình thường của nó bị giảm đi, thì điều đó làm tổn hại cho cái máy và trái tim nhiều hơn là làm việc. Bạn nên biết rằng Cái Trí sôi động như thế là vô ích và còn tai hại nữa. Bạn nên đưa nó vào nề nếp và tốt hơn nên tập dùng tinh lực của bạn vào công việc hữu ích. Hành động như trên là việc dại dột mà hầu hết mọi người đều thường mắc phải, nhưng người chí nguyện làm đệ tử phải hết sức tránh sai lầm đó.

C. W. L. Trong tất cả những sự khó khăn của Trí Tuệ, chỉ có những sự ưu sầu là hại hơn hết. Chúng chận đứng sự tiến bộ thực sự. Khi chúng ám ảnh bạn rồi thì chúng làm cho Cái Trí của bạn không thể tham thiền được. Người thì ưu tư về dĩ vãng, kẻ lại lo lắng cho tương lai. Khi vừa thoát khỏi mối lo này, thì mối lo khác lại đến thay thế. Do đó họ không bao giờ được an tịnh, cho nên đối với họ không có một hy vọng nào có thể đạt được chút ít hiệu quả trong việc tham thiền.

Có một phương thức tuyệt diệu là dùng tư tưởng hướng về Ðức Thầy thay thế cho ưu tư, nhưng muốn thực hiện điều này cần có một năng lực khá phi thường. Thình lình bắt buộc Cái Vía hay Cái Trí luôn sôi động trở nên yên lặng thì chẳng khác nào trong cơn giông tố sóng bủa ba đào mà thử dùng tấm ván đè bẹp chúng nó xuống. Thường thường, phương pháp có hiệu quả nhất là đứng dậy và kiếm một việc làm như giẫy cỏ hay đi dạo bằng xe đạp. Sự an tĩnh thường hằng không thể phát sinh ra trước khi các thể thấp đạt được sự rung động điều hòa chung. Lúc bấy giờ, những sự luyện tập khác mới có cơ may thành công được.

Thường thường người ta hay lo lắng về những tật xấu của mình. Thỉnh thoảng mỗi người đều nhận thấy những lỗi và những sự yếu đuối của mình. Tốt hơn là đừng làm điều đó. Mà còn hy vọng gì nữa? Nếu chúng ta không lỗi lầm và không yếu đuối, thì tất cả chúng ta đều thành Chơn Tiên hết rồi. Lãnh đạm trước những khuyết điểm này và cho rằng chúng không quan trọng mấy, dĩ nhiên là đáng trách, nhưng bận tâm về chúng một cách vô ích thì cũng đáng trách vậy. Trong khi bị xâu xé bởi những sự lo âu, Cái Trí xoay tròn, cuống cuồng một cách vô ích. Nếu bạn đã đi trên tàu thủy, lúc thời tiết xấu, bạn có thể nhớ lại đôi khi chân vịt vượt lên khỏi mặt nước và quay cuồng. Ðó là về cơ giới học, sự thả hết tốc lực này gây tổn hại cho máy móc hơn là sự làm việc có điều độ và lâu dài. Sự kiện này cũng giống như ở vấn đề lo âu vậy.

Trong Hội Thông Thiên Học chúng ta có xảy ra những cuộc khủng hoảng định kỳ. Tôi đã chứng kiến một số việc ấy rồi. Tôi nhớ rất rõ ràng sự tác động do Coulomb gây ra năm 1884. Nhiều nhà Thông Thiên Học đã băn khoăn và bối rối đến tột độ, đôi khi đi đến chỗ mất hẳn đức tin đối với Thông Thiên Học, vì họ cho rằng Bà Blavatsky đã lường gạt họ. Thật ra sự giả định này không liên hệ đến vấn đề đó. Ðức tin đối với Thông Thiên Học của chúng ta không hề căn cứ trên những lời tuyên bố của Bà Blavatsky, cũng như một nhân vật nào khác, mà phải căn cứ trên sự kiện. Thông Thiên Học này là một hệ thống hoàn hảo và làm cho thỏa mãn, đã được đem hiến cho chúng ta, và nó vẫn là chân lý, dù cho Bà Blavatsky đã phạm phải sự gian trá - nhưng trong trường hợp này hẳn nhiên là không có rồi. Một tín ngưỡng đặt nền tảng trên sự tôn kính cá nhân thì ít khi vững chắc, nhưng nếu niềm tin của chúng ta có căn bản là những nguyên tắc mà chúng ta có thể hiểu thì nó sẽ không thể lay chuyển được, dù cho vị lãnh đạo được chúng ta tín nhiệm lại mất đi.

Ðức Thầy dạy con người phải xem những việc bên ngoài xảy đến cho mình như buồn phiền, khốn khổ, bệnh tật, mất mát, không có chi là quan trọng cả. Phải xem chúng nó chẳng ra gì và đừng để chúng nó làm cho con rối trí. Chúng nó là kết quả của những hành vi quá khứ, khi chúng nó đến, con phải vui lòng chịu đựng. Con hãy nhớ rằng mọi sự khổ não trên thế gian đều tạm thời và bổn phận của con là phải luôn luôn vui vẻ và thanh tịnh. Những việc đó thuộc về mấy kiếp trước của con, chứ không phải kiếp này. Con không thể thay đổi gì được. Vậy thì bận tâm vì nó là vô ích.

A. B. Ở đây Ðức Thầy dạy rằng phải tránh những sự ưu phiền, một lý do mà tôi e cho nhiều độc giả không biết đến. Ngài nói rằng cái chi đến từ bên ngoài chẳng quan hệ gì. Những gì xảy đến cho chúng ta như thế thì hoàn toàn vượt khỏi ảnh hưởng của chúng ta, vì thuở xưa chúng ta đã tạo ra chúng. Chúng là Nhân Quả của chúng ta.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta không thể làm gì được cả. Trái lại, chúng ta có thể làm nhiều lắm. Chúng ta có thể đón nhận những biến sự một cách êm đẹp và như thế chúng ta biến đổi hiệu quả của chúng ta rất nhiều. Ấy cũng như chúng ta đổi một quả đấùm trực tiếp, khá mãnh liệt để quật ngã chúng ta, thành một đòn phớt nhẹ, so với cái trước thì rất yếu. Vấn đề chỉ là thay đổi góc độ theo đó chúng ta chịu quả đấm. Nếu mỗi sự phiền não đến, bạn thầm nói: "Ðó là một món nợ phải trả; thanh toán được nó thật hay lắm". Bây giờ sự ưu phiền sẽ không còn đè nặng bạn nữa. Một người biết cách sống vẫn an phận và sung sướng giữa những nỗi khó khăn. Kẻ khác thiếu hiểu biết điều đó có thể bị đè nặng bởi những ưu tư, mà một phần lớn vốn là sự tưởng tượng.

Khi bạn bị đau ở thể xác, bạn có thể nhận thấy ở chính bạn, sự lo âu và đau đớn mà bạn cảm biết do Cái Trí sinh ra đến mức độ nào. Khi bạn tự tách ra khỏi tất cả, bạn sẽ thấy sự đau đớn bớt đi nhiều. Bạn có thể nhận thức sự thật này bằng một cách khác, khi quan sát thú vật. Một con thú bị gãy cẳng, kéo lết cái chân bị thương vẫn điềm nhiên ăn cỏ. Con người không làm được điều đó, nhưng một con ngựa có thể làm được. Những nhà Sinh Lý Học cho chúng ta biết rằng con ngựa có bộ phận thần kinh mảnh mai hơn bộ thần kinh của con người. Vậy nó nhạy cảm đối với sự đau đớn hơn con người. Bạn hãy hiểu tôi và đừng cho tôi nói rằng thú vật không biết đau đớn, hoặc đau đớn của chúng không quan trọng. Sự thật hoàn toàn trái hẳn với điều đó. Chỉ tại con người tăng cường sự đau đớn của mình và kéo dài nó ra bằng cách cứ chú ý đến nó.

Nếu tập trấn an những hiệu quả do sự đau đớn tạo ra ở Cái Vía, bạn sẽ biết cách làm giảm đi một phần lớn sự đau đớn đó. Những người tự cho mình là Khoa học gia Công Giáo đã làm dịu được nỗi đau đớn rất nhiều bằng cách xóa bỏ sự hoạt động Cái Trí, nó thường xen vào làm gia tăng sự đau khổ. Tôi có kinh nghiệm về điều đó. Khi tôi phải diễn thuyết mà bị đau nhói ở thân xác, tôi đạt đến chỗ không cảm thấy đau đớn nữa trong thời gian tôi đang nói. Tại sao thế? Chỉ vì Cái Trí của tôi hoàn toàn tập trung vào bài diễn văn của tôi. Nếu bạn có thể hoàn toàn không chú ý xác thân, như khi bạn diễn thuyết, thì tất cả sự đau đớn thể xác của bạn mất đi một phần lớn. Khi hoàn toàn làm chủ Thể Trí, người ta mới có thể đạt đến mức độ nào đó và để cho những cảm giác ngoại giới chỉ có ảnh hưởng đến cái thể ở ngoài. Ðó là điều thường xảy ra do ảnh hưởng của một sự kích thích khá mạnh. Trên chiến trường, người chiến sĩ không cảm biết mình bị thương trước khi trận chiến đã tàn và sự yên lặng đã trở lại. Và chắc chắn vài nhà Tử Ðạo đã không nhận biết những ngọn lửa đang phừng cháy vây quanh họ, nhờ sự xuất thần trong đau khổ vì Chúa của họ. Cũng giống như thế, nếu một đứa trẻ lâm nạn, bà mẹ nó vì quên hết mọi sự đau đớn có thể xảy đến cho bà, bà xông tới cứu nó và giúp đỡ nó.

Người ta có thể không nhờ sự kích thích trên, cũng đạt được sự tự chủ như thế. Rồi người ta có thể Vô hiệu hóa (làm mất công hiệu) một phần lớn mọi đau khổ về tình cảm cũng như tâm trí. Tôi không muốn nói rằng điều này dễ làm, nhưng nó có thể thực hành được. Riêng cá nhân tôi, tôi cho rằng không đáng phí nhiều tinh lực hoặc phải đặc biệt cố gắng để đạt đến một kết quả không có gì đáng kể như việc làm cho một sự đau đớn nhỏ mọn của thể xác tiêu đi. Thay vì dùng Cái Trí phục vụ xác thân, như người ta thường làm, tốt hơn là đổi chiều hướng nó, và bắt nó làm việc hữu ích hơn. Nếu bạn có thái độ đúng đắn đối với đời sống, bạn sẽ thấy rằng những sự vật bên ngoài đó ít quan trọng hơn và bạn chỉ cho chúng ảnh hưởng đến bề ngoài của bạn thôi. Ðiều đó nhất định phải như thế. Cái giá trị của chúng ở chỗ bạn dùng năng lực để khắc phục được chúng. Xem xét chúng cách ấy bạn sẽ thấy tinh thần được an tịnh rất nhiều.

Mọi điều xấu đều có tính cách tạm thời. Nếu bạn nhìn cuộc tuần hoàn rộng lớn hơn đời sống của bạn và bạn xem xét quá khứ của bạn, không phải trong từng chi tiết, vì những chi tiết đều vô ích, nhưng trong chiều hướng chung của nó, thì bạn sẽ nhận thấy sự thật trên đây. Khi người ta nhớ lại được đã biết bao nhiêu lần mình phải chịu buồn phiền, rối ren - như nào người thân chết mất, nào bệnh tật, nào tổn thất, nào đau khổ đủ loại - thì sẽ thấy những nỗi khổ của mình giảm bớt và chúng gần như mất đi ý nghĩa thật sự của chúng một cách tương đối. Thử làm như thế rất cần thiết vì hiện tại ràng buộc chúng ta với nỗi lo âu vụn vặt, làm cho chúng ta không thấy được những sự hiểu biết sâu xa nhứt. Khi hiểu được quá khứ xa xăm của bạn, bạn trở nên dũng mãnh hơn và lúc ấy khi nghịch cảnh đến với bạn, bạn sẽ nghĩ rằng: "Tại sao tôi hốt hoảng vì chuyện này? Rồi nó cũng sẽ qua!"

Tôi cảm thấy rằng chắc chắn tôi sẽ không sống nổi, nếu tôi không xua đuổi được ưu phiền và chịu đựng những sự khó khăn của hoàn cảnh. Những nỗi buồn phiền đủ thứ dồn dập đến mỗi ngày, và nếu tôi để cho chúng chi phối, tôi sẽ không thể nào sống được tới tám ngày. Trong thời gian đã qua, tôi có tham dự nhiều cuộc vận động giống như việc tôi đang lo hiện giờ. Tôi nhận thấy rằng chúng luôn luôn mang theo sự xáo trộn. Tốt hơn đừng tiên liệu những sự khổ não, nhưng phải đương đầu với chúng, khi chúng đến, xong rồi dẹp chúng sang một bên và quên hết.

Ðức Thầy nói: "Con có bổn phận phải luôn luôn vui vẻ và thanh tịnh". Một ngày kia chúng ta được Ngài cảnh giác chớ khá bỏ cặn sắt trong lò luyện kim [59] của vị đệ tử. Ðiều xấu, điều nguy hại đó lên cao độ ở một nơi như Adyar. Tại đây, tất cả cặn sắt tức là các tật xấu - như mọi thứ phiền não, ngờ vực, lo âu, nghi kỵ, vân vân..., sẽ nhận được sức mạnh nhiều hơn lúc chúng phát sinh từ người tạo ra chúng. Nếu đôi khi bạn không thể xua đuổi tức khắc được sự ngã lòng, sự bất mãn hay tất cả tình cảm xấu xa khác, thì ít ra bạn cũng giữ chúng lại ở riêng bạn. Bạn chớ để chúng lan tràn ra, làm nhiễm độc không khí và làm cho đời sống của kẻ khác khó khăn hơn nhiều. Sau khi khép mình vào kỷ luật đó, bạn sẽ ngạc nhiên khi nhìn lại tình trạng cũ của bạn, rồi bạn sẽ tự hỏi tại sao trước kia những chuyện chẳng ra gì có thể gây xáo trộn cho bạn được?

A. B. Người hiểu biết vẫn được bằng an và sung sướng giữa cảnh ngộ buồn phiền mà kẻ khác cho là nghiêm trọng. Người con vô minh không chống nổi nghịch cảnh, y vấp ngã, do cách y ứng đối với nó. Có biết bao nhiêu sự tưởng tượng ẩn sau sự đau khổ của chúng ta! Quả báo thực sự phải trả thường không đáng kể, nhưng lắm khi vì lầm lỗi con người đã tăng gia gấp đôi hoặc thập bội sự đau khổ của mình. Cho rằng điều ấy thuộc về nghiệp cũ thật là bất công. Không, đó chỉ là kết quả do việc làm khờ dại hiện thời của chúng ta gây ra. Ông Sinnett gọi sự kiện đó là "Quả báo nhãn tiền".

Số nợ phải trả của chúng ta không thể sửa đổi được. Luật Nhân Quả bắt buộc chúng ta phải chịu đau đớn đến một mức độ nào đó, nhưng nếu nó có thể gia tăng, thì nó cũng có thể giảm bớt được. Nhờ cố gắng, chúng ta có thể vận dụng một sức mạnh mới, và đổi được hiệu quả của một quả đấm trực tiếp thành một đòn phớt nhẹ, theo lối nói của Bà Chánh Hội Trưởng của chúng ta, nên chúng ta cảm thấy nhẹ hơn nhiều. Mỗi sự cố gắng như thế có nghĩa là có sự can thiệp của một yếu tố mới, như vậy thì không có gì là bất công, không có gì là can thiệp trong sự tác động của Luật Nhân Quả. Năng lực đã phung phí vào việc khác nay dùng để sửa đổi quả đấm.

Lẽ tất nhiên tất cả những điều xấu xa, quấy quá đều là tạm thời. Một vị vua Ba Tư đã lấy câu này làm phương châm: "Rồi cái này cũng sẽ qua". Câu châm ngôn ấy thật tuyệt diệu vì nó thích ứng với việc vui mừng cũng như việc phiền não, với điều may mắn cũng như rủi ro, dù tình trạng chi phối đời sống chúng ta hiện giờ thế nào chăng nữa. Chỉ có sự tiến hóa thực sự và sự vui vẻ phát xuất từ nội tâm, mới là điều tồn tại. Những điều này sẽ trường tồn mãi mãi. Dù sự đau khổ hiện tại của chúng ta như thế nào, nó chỉ có một thời gian thôi. Chúng ta đã từng đau khổ và từng chịu thử thách trong những kiếp trước rồi. Hiểu rõ điều này nó giúp đỡ chúng ta rất nhiều. Những chuyện gây lắm rối rắm cho chúng ta trong tuổi thanh xuân ngày nay không còn là quan trọng nữa. Chúng ta thầm nói: "A, những việc này không quan trọng chi cả. Tại sao tôi lại lo lắng đến thế"? Người khôn ngoan học hỏi bằng cách nhìn về phía sau và nói rằng: "Những chuyện khác làm cho tôi lo lắng bây giờ đây, chắc chắn chúng sẽ không quan trọng gì hơn mấy việc trước". Ðúng vậy, nhưng chỉ có người khôn ngoan mới kết luận được như thế mà thôi.

Tốt hơn con nên nghĩ đến những việc hiện tại, chúng sẽ định phần số con kiếp sau, vì đối với những điều đó, con có thể sửa đổi được.

C. W. L. Kiếp sau của bạn sẽ tùy thuộc một phần lớn nghiệp quả của bạn tạo ra trong kiếp này. Nhưng có một điều quan trọng hơn nữa là: chẳng bao lâu Ðức Chưởng Giáo sẽ lâm phàm. Những biến cố sẽ dồn dập tới, Thần lực ban rải xuống thật phi thường, và ảnh hưởng của nó có hiệu quả chung quanh chúng ta đến một mức độ nào đó, chúng ta là những người cố gắng chuẩn bị cho cuộc lâm phàm, không những chúng ta có thể sửa đổi được kiếp tới của mình, mà còn sửa đổi được những ngày còn lại trong kiếp này nữa.

Nghiệp quả của người đệ tử làm công việc này, thì mãnh liệt hơn phần đông những người khác. Người đời làm và có thể làm nhiều việc mà không có gì là khổ cho họ. Nhưng nếu những việc này do những người bước gần đến Ðường Ðạo làm thì chúng tạo ra những điều vô cùng tai hại. Ðối với người đệ tử, thì những gì xảy đến cho y tức là xảy đến cho Ðức Thầy, vì Ðức Thầy đã làm cho người đệ tử thành một phần tử của chính mình Ngài: "Không ai sống cho một mình mình và cũng không ai chết cho một mình mình" [60]. Ðiều này vẫn đúng cho mỗi người, nhưng đối với ai muốn phụng sự những Ðấng Chơn Sư Cao Cả thì phải thận trọng gấp đôi. Trong Huyền Bí Học tất cả những gì làm cho công việc của bạn đồng Ðạo trở nên khó khăn, đều gây ra những nghiệp quả nặng nề.

Con không nên buồn bực hay chán nản, sự chán nản là điều xấu xa, vì nó nhiễm kẻ khác và làm cho đời sống của họ trở nên khó khăn hơn. Ðó là điều con không được phép làm. Vậy con phải xua đuổi nó đi xa, mỗi lần con biết nó đến.

C. W. L. Những độc giả đã thực sự chán nản có thể sẽ lắc đầu và nói: "Ðó là lời khuyên tuyệt hảo, nếu có thể thực hiện". Nhưng tôi đã nói, một tư tưởng mạnh gây ra sự ngã lòng cho kẻ khác, tạo nên mãnh lực vượt bực khi không còn cách nào khác để tồn tại. Sự ngã lòng là một lỗi lầm vì nó ảnh hưởng đến những bạn đồng môn của chúng ta. Những gì phát sinh từ chính chúng ta, từ những kiếp sống đã qua của chúng ta, do nghiệp quả của chính chúng ta, không thể khích động chúng ta; dó đó, ta phải giữ mình hết sức cẩn thận để không hại đến kẻ khác. Một việc xảy ra để gây nên điều nào đó không hay, bạn hãy tự nói với mình như sau: "Tôi sẽ không nói lên điều đó; tôi sẽ không làm, cũng như không nói điều gì có thể làm cho những sự khó khăn của kẻ khác tăng lên". Chúng ta cũng có thể từ chối làm một công cụ để phục vụ cho quả xấu của kẻ khác. Nếu một người làm hại hay xúc phạm một người khác, thì chắc chắn y là công cụ cho nghiệp quả của người ấy chứ không thể khác, nhưng đó là một vai trò của những người thiếu đại lượng. Chúng ta nên làm những c