Chương II
Chương II
ái bàn thầy giáo thật dị kỳ. Xếp theo dãy dài, nó đứng đầu hàng của mười cái bàn dài và mười cái ghế học trò. Riêng nó, bằng gỗ gì không biết, nhưng đen bóng. Còn mười chiếc bàn ghế kia, xương cốt đều bằng gỗ tạp, trắng bệch. Học trò mài chân mài tay lên cái màu trắng đó đã nhiều năm, nên nó đã biến đổi. Nó được phủ một lượt cao của các màu mồ hôi, cứt mũi, cứt mắt và nhiều thứ không tên khác. Một lũ bàn ghế nhôm nhếch, xiêu vẹo dựa vào nhau mà đứng. Cho đến cái bàn thầy giáo là tươm nhất, mà cũng ốm dở. Nói nó què thì đúng hơn. Bàn chỉ có ba chân. Một chân nữa, là một chiếc cọc tre, mà người ta đem chôn cắm xuống đất.
Nguyên dạo năm ngoái, làng vào đám, mượn cái bàn lên đình, đêm hát làm bàn vua cho các ông phường chèo. Vua giả cách chạy loạn trên núi, đứng lênh nghênh trên mặt bàn. Một tay gian thần vừa hét vừa nhảy lên toan chém vua. Cái bàn xiêu và... khắc một cái! Một chân nó oặt xuống. Cả hai ông tướng đều ngã bò chỏng gọng ra. Từ đấy, chiếc bàn đưa về lớp đã bị tật. Người ta chôn xuống đất cho nó một cái chân giả, như thế, cái bàn chỉ có thế đứng mãi mãi một xó vậy thôi. Không xô đẩy được như các đàn em nó là những bàn ghế của học trò kia. Mỗi năm, đến kỳ thi ở trường phủ, người ta lại khênh chúng quẳng lên xe bò, đem vào cho các lớp thi mượn mươi hôm. Mỗi năm phải một chuyến du lịch miễn cưỡng, nên những cái bàn cái ghế càng mệt mỏi, ốm yếu và mất mát dần. Cái chân lỏng, chiếc chắn ngang tụt chốt. Nhiều khi, học trò đang ngồi, tự dưng hai chân bàn buồn bã, giận dỗi thế nào rồi rời ra. Mặt ghế sập xuống như cái bẫy chuột. Cả lũ hết vía. Lại lấy gạch, lấy đá gõ cho mấy chiếc chân vào khớp. May, từ trước tới giờ, chưa có chú học trò nào bị què cẳng.
Hôm nay thầy giáo Câu ngồi bàn, lúi húi chấm bài. Hơn sáu mươi cái đầu trẻ con, đủ kiểu lố nhố trước mặt. Hơn sáu mươi tên học trò, chia làm bốn lớp: a, b, c, bét, tư, ba và cai trị bởi một thầy giáo Câu. Bấy giờ vừa giờ ra chơi vào xong, ở ngoài sân, bọn trẻ đùa nhảy đã chán chê. Mà bây giờ chúng vẫn nghịch. Trẻ con chẳng bao giờ biết im miệng, im chân, im tay. Chúng nói rì rầm. Chúng đá ngầm nhau dưới gầm bàn. Chúng chen, huých cánh tay. Có những đứa chọi đầu vào nhau, làm như chọi trâu. Chúng văng tục và chửi nhau. Đứa khóc, đứa mếu, đứa cười. Bàn ghế cũng hòa nhịp cót két rền rĩ lên. Lớp học lúc nào cũng lao xao, rì rào như có một đàn ong bay qua. Chốc chốc thầy giáo Câu gõ cái thước lấy lệ, bởi thầy cũng đã quen cái ồn ồn ấy. Bút mực đỏ vẫn mải miết gạch, xóa, phê.
Bỗng ở ngoài bàn xế cửa, một đứa đứng dậy:
- Thưa thầy, có...
Thầy ngẩng đầu lên. Anh học trò chưa thưa hết câu, thầy cũng biết là thưa gì. Bởi ngay lúc ấy có một cái đầu ở ngoài cửa thò vào. Câu buông bút, đi ra. Tưởng người nào, hóa ra vợ anh giáo Hoạnh. Chị Hoạnh mặc áo cánh nâu ngắn, quần xắn móng lợn. Một bên nách ẵm thằng bé con. Đầu chị chưa vấn, tóc quấn túm lại, bù xù như cái ổ rạ trên đầu. Giáo Câu hỏi:
- Bác đi chơi đâu xuống đây sớm thế?
Chị ấy khóc mếu máo:
- Tôi lại còn đi chơi đâu nữa! Sung sướng thế ư...
Rồi chị vén món tóc lòa xòa trên mặt. Hai mắt chị đỏ ngầu. Nước mắt có sẵn nhiều quá, cứ tuôn ròng ròng. Vẫn mếu, chị kể lể:
- Người ta đi suốt đêm cho đến sáng, rồi về nhà, người ta gây sự với tôi...
Câu sửng sốt:
- Chết chửa! Sao lại như thế? Ra cái anh này...
- Khốn khổ, bác còn vờ, nhà tôi với bác Kên ở nhà ông Chánh Rụy đến chín giờ, rồi đi đâu, đi đâu?
Câu cãi:
- Tôi nào biết bác ấy đi đâu!
- Người ta bảo rằng nhà tôi được xóc đĩa, có tiền, rồi đi chơi cô đầu phố phủ với hai bác. Nhưng bác mà không đi, thì nhà tôi rủ người khác, tôi còn lạ gì. Trời đất ơi... phen này thì đến tan cửa nát nhà mất thôi... hic... hic... hic...
Câu toan nói điều gì đó. Nhưng chị Hoạnh vừa khóc hu hu, lại đùng đùng chạy ra. Đứa con lóc xóc ngật ngưỡng kêu choe chóe. Những người đi ngoài đường, thấy lạ, nhìn ngơ ngác. Có mấy đứa trẻ trong xóm đã rủ nhau chạy theo.
Câu nhìn hút chị Hoạnh, trong bụng tấm tức nghĩ cáu về người đàn bà cả ghen và lắm điều. Anh đứng bần thần một lát, chợt quay lại. Thì đã trông thấy sau lưng có đến mươi cái đầu lố nhố thò ra cửa sổ. Có đứa nhút nhát lé một nửa mắt. Có đứa nghịch quá, leo tót lên ngồi chồm chỗm trên cửa sổ. Thấy thầy giáo, chúng tụt vào nhanh như biến mất. Cả lớp chợt huyên náo tựa một cái chợ đương buổi họp đông. Đứa thì phồng má, trợn mép làm tuồng. Đứa uốn éo làm xiếc. Những đứa trẻ bé bị bắt nạt, khóc om sòm. Được vắng thầy một lát, chúng cuống cuồng múa may, hò hống như một lũ rồ. Thầy giáo Câu vào, những cảnh nghịch ngợm đương diễn dở. Anh xách mấy tay đầu bò lên, đét cho mỗi tên bốn thước kẻ bảng vào hai bàn tay. Một lát sau, đã êm cả. Lanh lảnh tiếng đọc bài.
Thầy giáo vẫn cầm cái thước kẻ dài như cái đòn gánh, đi bách bộ dọc chiều lớp. Anh đi như vậy, không biết bao nhiêu lần. Tai nghe học trò đọc, Đôi chóc dừng lại để bảo mấy đứa đánh vần trắc, nhưng đầu anh vẫn mải nghĩ loăng quăng chuyện khác. Anh nghĩ chuyện cái nhà chị giáo Hoạnh ban nãy. Chắc hai vợ chồng anh ta mới sinh sự to. Anh thấy bùi ngùi, hơi hối hận, và ngượng. Vì sự rắc rối kia sở dĩ mà có, chỉ bởi cái đêm vui thú nhà trò con hát vừa rồi. Đã đành anh chồng nóng và cục đánh vợ là không nên. Nhưng chưa chắc đã phải.
Bởi vì cái máu ghen của chị đã có tiếng ghê gớm ngang máu ghen của cô Hoạn Thư trong truyện Kim Vân Kiều. Đã bao nhiêu lần chị nhảy xuống ao chỉ vì chuyện ghen tuông bóng gió. Khi anh Hoạnh lên Phú Gia làm hương sư, chị cũng theo lên và hai vợ chồng đã có với nhau bốn đứa con.
Tưởng mỗi tuổi thì cái tính hổ lửa kia mỗi dịu xuống. Ai ngờ càng ngày càng ghê. Mỗi lần nghe chồng có “tiếng” gì, chị nhảy chồm chồm, chị giãy đành đạch, chị nằm nhuôi đứ đừ như bị bóp cổ. Rồi chẳng ốm iếc chi hết, chị cũng đắp chiếu, nằm rên ầm ầm. Chị rỉa rói chồng ra rả suốt ngày. Suốt đêm, chị khóc chị kêu, chị kể lể, như giá mất tiền mất bạc cũng không bằng. Phải anh chồng là cái thằng cục, cứ to tiếng là lại nện nhau.
Mà tính anh lại hay lăng nhăng, tự cho là mình số đào hoa có nhiều gái mê. Các nhà giáo quanh đấy cười nhạo và có ý trách Hoạnh không biết giữ tiếng cho giới hương sư. Nhưng Hoạnh cũng có lý của anh. Anh cho rằng đàn ông ai chả mê gái, chắng qua là bọn ấy kém, lại làm bộ đạo đức giả. Anh không cần gì hết. Anh cần gì! Cũng như cái trận vợ chồng cãi nhau choảng nhau hôm qua hôm nay, cũng chỉ là những trận đòn đánh quen thuộc. Vợ chồng thì lúc yêu lúc ghét thế thôi.
Song, nếu chỉ thế thôi với giáo Hoạnh, lại không với giáo Câu. Vợ chồng Hoạnh sinh sự với nhau, nhưng không lôi thôi đến anh lại đi một nhẽ khác. Bởi vậy, từ lúc vợ Hoạnh bồng con đến, nhà giáo ta cứ băn khoăn. Gì, chứ rắc rối chuyện đi hát ả đào thì tai tiếng lắm đây.
Mải suy nghĩ vẩn vơ, đến giờ tan học, vẫn chưa tô vở xong cho mấy đứa lớp bét. Anh sai đánh trống, và cho tan học. Mình anh ngồi lại, làm nốt. Ngoài cửa, những tiếng reo hò ầm ĩ, tản ra xa, lặn vào các ngõ xóm. Những đàn chim sẻ, qua cơn sợ hãi, lại mon men nhảy xuống cửa sổ kêu tẹc tẹc. Ngoài sân có tiếng “rắc rắc” một vòng xích xe đạp và tiếng chuông “kính coong”. Câu chạy ra. Giáo Kền đeo kính trắng, mặc áo the, dận đôi giày tây có cổ. Ghếch xe, nhà giáo hỏi:
- Lúc nãy, vợ Hoạnh sang anh không?
- Có.
Câu hậm hực kể lại câu chuyện vẫn bực mình từ ban nãy.
Kền cười, nói:
- Người ta ở đời cũng phải biết điều một tí chứ. Chẳng đầu đuôi xuôi ngược thế nào đã nháo đi khóc lóc kể lể, trách móc. Tôi mới dồn cho chị ta một hồi. Tịt rồi lủi. Chắc ở tôi ra thì ả sang đây. Buồn cười thực, làm như anh em mình lôi kéo chồng ả đi chơi không bằng. Mà anh em mình cũng can hắn mãi.
- Tôi chỉ ức cái nỗi ấy. Ờ, làm sao vợ hắn biết được?
- Thế này chứ. Hắn đánh bạc được mấy đồng xóc đĩa nhé. Lúc ba đứa kéo đi, cả đám cỗ trông thấy. Cái trò ở đời người ta hay hớt chuyện. Đêm họ đi làm cỗ giúp về, chỉ nói qua bờ rào một tiếng với vợ hắn, người ta kháo nhau. Ai còn lạ cái thói ghen tuông của ả. Chồng về, thộp ngực, nói lải nhải. Chồng tức mình mới cho một mẻ. Nghĩ ngẫm người ta ở đời cũng hay. Nhưng chỉ buồn một nỗi họ lại ngờ oan cánh mình rủ rê.
- Rồi làng nước người ta biết. Tôi cũng chỉ cáu vì thế!
- Có rỗi hơi mà cáu thừa. Ai biết mặc ai! Kìa, ta về chứ? Tôi về trước nhá? Kìa quên mũ hả?
Câu đáp:
- Tôi đi đầu trần cho mát.
Cứ kể giáo Kền nói câu: “Ai biết mặc ai!” cũng là phải. Nhưng chỉ phải riêng với Kền. Bởi xưa nay thì Kền cũng có cần gì ai. Anh là người vùng xuôi, lên đây dạy học. Anh thuộc lớp giáo làng cổ, có bằng tuyển sinh, đỗ cả chữ Hán và quốc ngữ. Năm nay anh ba mươi tư tuổi.
Hơn ba mươi năm dằng dặc đời anh tóm lại như sau: Ơn cha mẹ lấy vợ cho từ khi đầu để núm hoa roi. Đi thi tuyển sinh, anh mười tám, vợ đã có mang, người quắt như cái que, mà nghểu nghện vác cái bụng thúng. Khi sinh, cả hai mẹ con chẳng may chết. Năm sau, nhà cưới cho anh cô vợ khác nhưng lại tính toán lối trừ hao, lấy người lại lấy việc nhân thể, cô này hơn anh bốn tuổi. Nó ở với chồng được hơn một năm, rồi nó tếch đi mất. Ba năm sau, Kền lại được mẹ cưới cho cô vợ khác. Rổ rá cạp lại đến lần thứ ba, không cưới xin hẳn hoi gì. Người vợ này đần quá. Mẹ Kền chửi đánh suốt ngày. Không chịu nổi, nó lại ăn cắp quần áo, dông mất.
Ít lâu sau, mẹ chết, Kền đâm ra chơi bời. Có một ít ruộng, anh bán vào chiếu đỏ đen hết sạch. Kền cũng có hai người anh. Nhưng của ai phận nấy, bố mẹ rành ra cả rồi. Kền túng, đồng xu không còn dính túi. Kền buồn, Kền cắt tóc đi tu, trốn cõi đời khổ não. Kền tu đâu được hai năm, nhà chùa cho xuống tóc nhưng rồi làm tiểu anh lại vác cái đầu trọc đi uống rượu thịt chó, nhà chùa đuổi về, từ đấy tâm tính anh thay đổi nhiều. Người ta bảo anh cám hấp. Có người bảo anh gàn có lẽ đúng hơn. Anh sinh làm thơ, rặt nói chuyện thơ, làm thơ. Anh xưng biệt hiệu là Tri Mệnh. Nhưng người ta quen gọi anh là anh Kền, xừ Kền hay là ông “Người ta ở đời”. Bởi thường nói câu gì, anh cũng bắt đầu rằng: Người ta ở đời... Ông “người ta ở đời”, bỏ quê, lên Yên Thượng dạy học. Ông ăn cơm trọ. Ông ở một mình. Ông có cái xe đạp tróc sơn như màu đất, thỉnh thoảng đạp đi chơi chỗ này chỗ kia. Lương mười đồng, cũng nhì nhằng đủ tiêu. Không phải nuôi ai, chắng chơi bời gì, có thể gọi là phong lưu. Ẩn sĩ Tri Mệnh có làm một bài thơ tự trào bát cú theo lối “thủ vĩ ngâm” để vịnh cuộc đời ngót nghét bốn mươi, rằng:
Ta cũng như ai, chẳng kém đời.
Cũng xen cười khóc, cũng đầy vơi.
Gia đình tạo lập bao lần mối.
Hoa nguyệt rong chơi thực đủ vời.
Chân cảnh trần duyên theo cửa Phật.
Vui vì con trẻ Khổng môn chơi.
Hỏi ai đã sướng như ta nhỉ.
Ta cũng như ai, chắng kém đời.
Cũng xen cười khóc, cũng đầy vơi.
Gia đình tạo lập bao lần mối.
Hoa nguyệt rong chơi thực đủ vời.
Chân cảnh trần duyên theo cửa Phật.
Vui vì con trẻ Khổng môn chơi.
Hỏi ai đã sướng như ta nhỉ.
Ta cũng như ai, chắng kém đời.
Ừ thế thì giáo Kền còn có cần gì ai. Mà cũng chẳng ai hơi đâu xói móc đến hắn ta. Nhưng giáo Câu thực không thể vô lo như thế. Đi hát cô đầu. Vợ Hoạnh ghen chồng, đánh chửi nhau om sòm. Cái mặt giáo Câu ê lắm. Câu chưa yên bề gia thất như Hoạnh. Câu không dám nhét thiên hạ vào một bên lỗ mũi như Kền. Ấy chỉ vì nhà giáo ta mới có hai mươi tuổi.
Bấy giờ giáo Câu đã nhẩn nha đi về đến đầu xóm, tay xách cái đồng hồ chẩm cầm vuông to bằng cái bát đàn. Một bà già ngồi trong cửa, khung cửi đương quay suốt vè vè, ngó thấy nhà giáo đi qua ngỏ, liền hét vào trong nhà: “Mười một giờ rồi đấy!”.
Ồ, nhà giáo đi về có buổi cũng như cái đồng hồ của người ta.
Đánh máy : casau - Ct.Ly
Nguồn: casau - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 1 tháng 7 năm 2016