Chương 9 Bờ xa
Trong cơn sóng vật vã quăng thân xác mình lên cao rồi lại quật xuống thấp, Trọng Thức gần mê man đi giữa biển nước mặn chát lều bều nổi bọt. Ðưa tay lên ngực, Thức nắm lấy phiến đá. Chàng nhắm mắt lại, tay lạnh buốt, thầm gọi tên Băng Vân. Phải chăng từ đây chàng sẽ dật dờ một mình trên nẻo dương gian, không còn một hy vọng gì tìm lại được tình yêu kia, cái tình yêu với người đàn bà sẽ muôn đời bị giam hãm giữa những phân tử lạnh tanh mang kiếp đá. Tai lại nghe tiếng cười man rợ đâu đây, rồi tiếng nổ, tiếng rú, Thức cố giằng tay nhưng sợi dây trói chàng vào cái cột gỗ trên chiếc tầu biển Bồ đào Nha giật lại, xiết vào đau nghiến. Nước tứ phía tràn vào. Lại tiếng nổ. Sàn tàu vỡ tung ra. Chàng bị bốc bổng như mọc cánh bay lên. Rồi rơi xuống. Rơi vào một khoảng đen ở đâu ùa đến, xoáy tròn chôn ốc, cắm vào cái trũng sâu không đáy.
Sau bao nhiêu lâu, chàng không rõ, khoảng đen đó bắt đầu lờ mờ sáng. Nuốt ngụm nước dịu ngọt không biết ai đổ vào miệng, Thức cảm thấy sự hồi sinh đang cứ từng giọt thấm vào những tế bào rời rã. Chàng nghe như đến từ một nơi nào xa lắm dăm tiếng người. Chàng thu hết sức cất tiếng gọi. Người đỡ đầu Thức lên cho uống reo nho nhỏ “... tỉnh rồi. Không chết đâu ”. Thức rên một tiếng, mở mắt ra. Nhìn chung quanh, chàng mỉm cười, ra dấu rồi lại nhắm mắt lại. Ðến lúc tỉnh hẳn, chàng thấy mình nằm trong khoang một chiếc thuyền khá lớn. Một người đeo gươm đến hỏi. Chàng thều thào kể lại từ lúc bị Tây Sơn bắt cho đến khi được chiếc tầu Bồ đào Nha cứu thoát khỏi cơn bão biển.
Hôm sau, chàng biết mình đang xuôi về phương Nam, trong một đoàn sáu chiến thuyền đang chạy theo chúa Nguyễn. Hỏi ra, thủy binh Tây Sơn tập kích lực lượng chúa Nguyễn đã bất ngờ vây tầu chiến Bồ, rồi dùng hỏa công đánh đắm. Khi đoàn sáu chiến thuyền này đến giải cứu thì hai chiến thuyền Tây Sơn lại tản ra, đi vòng về phía sau. Ðoàn chiến thuyền vớt được Thức và hai người Bồ, rồi tiếp tục chạy ra khơi.
Tháng ba năm Quí Mão 1783, Huệ và Lữ tiến đánh Gia Ðịnh trong khi Thức bị Nhạc bắt giữ. Bộ binh Tây Sơn tiến đến Bình Thuận chỉ là nghi binh, khiến cho Nguyễn Ánh tính sai thời gian Gia Ðịnh bị tấn công. Quân bộ Tây Sơn bất ngờ lên một số chiến thuyền đã sắp sẵn ở Phú Yên, chở được voi, theo đường thủy vào cửa biển Cần Giờ. Ánh xếp đặt một khu vực hỏa công, dùng “ bè hỏa ” và “ rồng cỏ ” định phục kích để tiêu diệt chiến thuyền Tây Sơn, sai Lưu thủ Thăng và Tiên phong Túy đem kỳ binh ra nghênh chiến rồi chạy để nhử. Nguyễn Huệ chọn lúc thủy triều lên mới xuất quân, dùng sức gió và sức nước xua thuyền ào ạt tiến lên đánh thẳng vào khu vực hỏa công. Giám quân Tô, người điều khiển hỏa công của quân chúa Nguyễn, luống cuống hạ lệnh phóng hỏa. Nhưng vì ngược chiều gió và chiều nước, chính những bè hỏa công lại trôi ngược lại đốt cháy chiến thuyền Nguyễn. Quân Nguyễn cuối cùng tan vỡ rồi rút chạy dưới hỏa lực dữ dội của Tây Sơn. Gia Ðịnh không thể giữ nổi. Cánh quân chủ lực do Chu Văn Tiếp bị đánh tan hoang, bỏ chạy theo đường sang Cao Man. Nguyễn Ánh hoảng sợ, đem gia đình, năm sáu tướng lĩnh tùy tùng và không đầy một trăm lính còn xót lại chạy về Ba Giòng rồi tiến lên đóng ở Ðồng Tuyên bố trí phòng ngự.
Lúc ấy, Nguyễn Lữ giao ấn Tiết Chế cho anh mình là Nguyễn Huệ, tập trung sức vào tổ chức bình định miền Nam. Huệ hoàn toàn trách nhiệm việc quân sự, đưa tượng binh lên tấn công Ðồng Tuyên. Trước sức mạnh của Tây Sơn, toàn bộ quân chúa Nguyễn tan rã, phần lớn các tướng lãnh hoặc bị bắt, hoặc chết trận. Ánh mang tàn quân cùng năm mươi chiến thuyền chạy xuống Lật Giang, qua Mỹ Tho, rồi ra cửa biển Ba Thắc. Tại đây, Thầy Liot cùng Giám Mục Bá đa Lộc và một số Thừa sai đã mang trường đạo Mặc Bắc ở Trà Vinh đến ẩn. Sau đó, Ánh lại chạy ra tận Phú Quốc, nhưng tướng Tây Sơn là Phan Tiến Thận vẫn truy kích và tiêu diệt một phần lớn chiến thuyền quân Nguyễn ở đảo Diệp Thạch.
Chạy đến đảo Cổ Long, Ánh chỉ còn một tầu Tây, mười lăm chiến thuyền và hơn sáu trăm quân, lại gặp bọn Bá đa Lộc. Nhờ hai giáo sĩ Ypha Nho dẫn đường, Ánh xuất tiền mua lương thực và viết thư cầu viện Ypha Nho lúc ấy đương thống trị Phi luật Tân. Chưa kịp đi, Tây Sơn cử phò mã Trương Văn Ða mang thủy quân đến vây Cổ Long. Hai giáo sĩ Castuera và Ginestar vội vàng xuống chiếc ghe bầu vào đất liền nhưng bị quân Tây Sơn bắt lại. Ða dàn chiến thuyền thành ba vòng vây chặt Cổ Long, nhưng ngày sau bị bão lớn, thuyền phải dồn lại ghì chặt với nhau để chống đỡ gió to sóng lớn. Nhân cơ hội đó, Ánh đem tàn quân chạy trốn sang đảo Cổ Cốt. Chính trong cơn bão ấy, Trọng Thức được một tầu chiến Bồ đào Nha cứu, và mươi hôm sau, tầu đó bị thủy quân Tây Sơn đánh chìm. Lên Cổ Cốt được đúng một ngày, biển lại thấp thoáng bóng cờ đỏ giăng trên chiến thuyền Tây Sơn đuổi tới. Ánh ra lệnh cho tầu tàn quân giong buồm chạy về Thổ Châu.
°
Hai ngày sau khi đặt chân lên Thổ Châu, một hòn đảo cách đất liền đến gần năm trăm dặm, Thức được lệnh gọi lên gặp Ánh. Ðó là một thanh niên tuổi trên hai mươi, người tầm thước, mặt vuông, cằm bạnh nhưng dáng mảnh khảnh, khi nói mắt vu vơ nhìn vào khoảng không, lúc nào cũng nắm tay lại như sắp đánh sắp đỡ. Ánh ngồi trên nắp một thùng thuốc súng, mặt mũi đen xạm, hốc hác, nhưng tóc vẫn búi gọn ghẽ, đầu đội mũ, đai lưng đeo một thanh kiếm ngắn. Ánh hỏi trống không:
- Mi từ đâu đến?
Thức chậm rãi kể chuyện đi vào Ðàng Trong, bị Tây Sơn bắt, gặp bão dạt trên biển, được tầu Bồ cứu xong lại gặp thủy quân Tây Sơn đánh phá. Ánh lẳng lặng nghe, ngắt lời:
- Mi người Ðàng Ngoài vào Ðàng Trong làm chi?
Thức thuật chuyện bị giam trong vụ án năm Canh Tý, rồi phiêu dạt đến Phố Hiến quen giáo sĩ Sieyès, và sau đó Sieyès đã dâng mình tử vì đạo ở Ða Phạn. Ánh đột nhiên xen vào:
- Mi có là thầy dòng không?
Thức lắc đầu. Ánh liếc mắt, miệng trề xuống:
- Mi làm gì với Sieyès?
Thuận miệng, Thức kể là mình đang tu chỉnh cuốn từ điển Việt - Pha Lang Sa - Latinh, việc còn dang dở nên muốn gặp thầy Liot để tiếp tục. Ánh lạnh lùng:
- Ta có thư cho Thầy Liot. Ta đọc, mi dịch ra tiếng Pha Lang Sa...
Ánh im lặng mở một phong thư, chậm rãi từng tiếng:
Gởi Thầy Cai trường, tôi hiện ở Thổ Châu, thế giặc mạnh, phải tạm lánh mình, quân lương không đủ, chỉ còn dùng cho mười hai ngày. Nay sai Sùng Ðức Hầu cầm thơ và mười nén vàng, kính xin Thầy mua hộ và giúp thêm cho lương thực, nước uống...
Thức hí hoáy viết rồi dịch. Mắt Ánh nhìn trừng trừng bất động. Thò tay cầm lấy bản dịch, Ánh vẫy tay gọi một người tùy tùng:
- Kêu thầy Tân tới gấp.
Một lát sau, một người quãng trung niên lù khù chạy tới. Ánh ngước lên, tay đưa bản viết của Thức:
- Thầy đọc ra tiếng ta cho nghe coi.
André Tân cầm, rồi dịch lại. Ánh gật gù:
- Ðược! Hiện Thầy Cai trường Liot và trường đạo đang ở Chantabun thuộc Xiêm La. Quay sang người tùy tùng, Ánh trầm ngâm - Sai cho ta Sùng đức Hầu đi ngay. Còn mười hai ngày lương nên ta cũng không thể châàn chừ, cho quân nghỉ thêm một vài ngày rồi giong thuyền ra khơi...
Nhìn ra biển, Ánh thở dài im lặng. Lát sau, Ánh quay sang Thức, dịu giọng:
- Còn thầy, thầy theo ta thì sẽ gặp Cai trường Liot. Muốn thế, thầy phải trả lời ta cho thật... Nói ngoa, ta sẽ bỏ thầy cho chết đói trên đảo này!
Thức nhìn Ánh, chờ đợi, ung dung:
- Bẩm Vương công, xin cứ hỏi...
- Thầy làm từ điển có mục đích gì?
Khẽ ngửng lên nhìn, Thức từ tốn:
- Vương công xét cho, tầu Tây tầu Bồ đến xứ ta. Còn thuyền ta, có đến Tây đến Bồ được không?
Ánh lắc đầu.
- Ta phải mua súng thần công châu Âu, còn người Âu có mua súng ta làm không?
Ánh lại lắc đầu. Thức liền nói:
-Muốn học họ, phải biết tiếng họ. Làm từ điển là vì thế, để cho người mình có phương tiện học hỏi kỹ thuật Tây phương!
Ánh trầm giọng:
- Nhưng họ có thể dùng từ điển đó để đi giảng đạo Gia Tôâ của họ!
Thức nhướng mắt:
- Dám hỏi Vương công, đạo Gia Tôâ có dạy cho dân ta ăn gian nói dối, giết người cướp của không?
Ánh lắc đầu, nhưng hỏi lại:
- Ðạo của họ chỉ độc tôn Thiên Chúa, cấm cả thờ cúng tổ tiên, rồi nay mai sẽ thay đổi trật tự vua tôi, phụ, tử? Thế chẳng phải là rối ư?
Thức ngẫm nghĩ rồi lựa lời:
- Thưa Vương công, nay cứ mười người ta thì đã có một giáo hữu Gia Tôâ. Ðàng Trong, họ khoảng tám vạn. Ðàng Ngoài, trên hai mươi vạn. Có hay không có từ điển, cũng là thế. Họ là giáo hữu nhưng nào lòng họ có bỏ ông bà tổ tiên đâu! Vì thế, đâu chỉ có việc thờ cúng mà quên đi cái dụng của kỹ thuật Tây phương. Lại xin hỏi, nếu như ta có kỹ thuật đó, Vương công nào đâu còn phải cậy đến họ mua cho tầu bè, súng ống? Kẻ hèn này nghĩ đã kỹ, lợi nhiều hơn hại, ta phải đi học Tây phương. Sau này, không nước nào, kể cả nước ta, lại có thể bế quan tỏa cảng được! Còn như mở ra, nhưng lại tụt hậu về kiến thức, thì là đặt nước mình vào thế yếu, thế hèn, thế bị trị, dẫu rằng ta vẫn có Vua, có Quan... Ấy là Vua, Quan với nhau như bù nhìn mà thôi, còn trên thực tế, chính là lệ thuộc vào cái mạnh bên ngoài nó chi phối, kiềm chế, thậm chí điều hành mình...
Ánh đưa tay ngắt lời Thức, rồi chán chường nói:
- Thầy nói thế, Chủng này không phải không hiểu. Nhưng Chủng làm thế nào được! Cơ nghiệp ông cha tiêu vong, bọn giặc Tây Sơn thì quỉ quyệt hung hãn, chúng lại bị đám quyền thần chúa Trịnh đẩy vào cái thế phải đi đầu cướp đất nhà Nguyễn, nên Chủng mới nên nông nỗi này...
Im lặng một hồi lâu, Ánh nghiến răng, mắt lóe lên ánh căm hờn có thể làm chết sữõng những kẻ yếu bóng vía, gằn giọng:
- Ðược! Thầy nói nghe cũng được. Ta cho thầy theo để thể hiện ý nguyện thầy. Ngược lại, ta cũng xin thầy giúp cho một việc…
Quay sang tên tùy tùng, Ánh nói nhỏ vào tai, rồi lại im lặng nhìn những đợt sóng trắng xóa vỗ vào bờ cứ ì ầm như tức giận. Một lát sau, tên tùy tùng bế một đứa con trai độ lên năm ra. Ánh ôm lấy đứa bé, rồi đột nhiên ngửa mặt lên trời, hú lên một tiếng dài như tiếng một con thú ở bước đường cùng. Nước mắt lã chã rơi ướt nhòa mặt mũi, Ánh ngào nghẹn quát nhỏ:
- Thầy sẽ cùng con ta sang Pháp lan tây, đi không biết bao lâu, nhưng chắc sẽ về... Ta sẽ ủy thác nó cho thầy... Phụ ta, thì dẫu thầy có xuống hỏa ngục ta cũng sẽ xuống theo tự tay bỏ thầy vào vạc dầu.
Ngưng nói, Ánh nhìn thằng bé co người lại vì sợ, lẩm nhẩm:
- Ta phải cầu viện người, con ạ. Nhưng nhất định là ta không bao giờ vì thế mà mất ta đâu! Cha con ta sẽ xa cách, nhưng để một ngày chính ta sẽ bêu đầu thằng Huệ thằng Nhạc, lấy sọ chúng nó làm bô nước tiểu, đái vào mười năm để trả cái thù ly biệt này!
Quay sang Thức, Ánh lấy lại bình tĩnh:
- Ta sẽ mang thầy giới thiệu cho cố Bá đa Lộc. Nhưng thầy coi chừng, ông ta sẽ thử thách thầy. Nếu thầy chỉ nói là thầy tìm cách học hỏi Tây dương thì chắc không xong đâu! Tốt nhất là thầy ít nói, và tỏ ra ngoan đạo. Từ nay, thầy học Kinh E-van cho thuộc. Thầy Tân sẽ giám thị việc học Kinh này. Học không xong thì thầy biết đấy, thầy chỉ còn đường đi chầu hà bá mà thôi!
°
Trong ba anh em nhà Tây Sơn, Nguyễn Lữ nhỏ tuổi nhất nhưng lại thâm trầm hơn hai anh. Lữ gần gũi mẹ, chịu khó học nên năm lên mười đã đọc được Tứ Thư, chữ nghĩa khá hơn cả nhà. Năm mười lăm, Lữ quan sát gà chọi, nghĩ ra mười bảy thế võ kim kê. Trong quân, Lữ lại sáng tạo các thế trận đánh giáp lá cà, dùng sức phối hợp của các loại khí giới trường đoản khác nhau. Năm Lữ mười tám tuổi, Nhạc trao cho Lữ trách nhiệm dẫn quân vào tập kích Gia Ðịnh. Dùng yếu tố bất ngờ, Lữ đuổi chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy ra Long Hồ, rồi truy kích cho đến Bà Rịa. Tại đây, Thuần có lần phải trốn vào nhà thờ do một giáo sĩ Ypha Nho là Diego de Jumillia quản trị. Lữ bao vây, nhưng cấm quân lính không được xâm phạm đến nơi thờ phụng tôn giáo. Vây hai ngày, nghĩ thế nào Lữ cho người vào bảo Jumillia: “ Xin đừng xen vào việc của người chúng tôi ” rồi rút quân tha cho Thuần. Thuần thoát chết, gọi Ðỗ Thanh Nhân hiệu triệu cần vương, dấy được ba nghìn quân gọi là quân Ðông Sơn từ Mỹ Tho tiến về Gia Ðịnh. Phía bắc, Tống Phúc Hiệp và Lý Tài, một tướng Tây Sơn đã hàng quân chúa Nguyễn, cũng từ Phú Yên kéo về đến Trấn Biên. Lữ hạ lệnh rút quân theo đường thủy về Qui Nhơn, mang theo toàn bộ kho tàng chiếm được sau khi tiêu hủy khí giới, quân lương và đồn lũy thành Gia Ðịnh. Về đến nơi, Nguyễn Nhạc gọi Lữ vào quở:
- Sao mi tha cho thằng chó đó?
Lữ mỉm cười rồi đáp:
- Xin đại huynh là nay tha cả hoàng tôn Dương cho đủ cặp.
Từ ngày khởi nghĩa, anh em Tây Sơn mang danh nghĩa phò hoàng tôn Dương chống lại quyền thần Trương Phúc Loan, đã lưu Dương lại Qui Nhơn đãi như thượng khách. Nhạc nghe Lữ nói, lắc đầu không ưng ý. Lữ lại nhắc: “... Lý Tài bỏ ta, gặp Nguyễn Phúc Dương chắc thế nào rồi cũng có sự quấy quá ”. Huệ nói vào nhưng Nhạc gầm gừ, nhất định không nghe.
Ðêm hôm đó, Huệ bảo Lữ “... có chi thì ta chịu ” rồi thả cho Dương vào Phú Yên. Tháng mười năm Bính Thân, Dương liên lạc với Lý Tài vốn đã quen biết nhau khi cùng ở Qui Nhơn. Quả nhiên, Lý Tài tiến quân về Gia Ðịnh uy hiếp khiến Ðỗ Thành Nhơn phải chạy về Ba Giòng. Tài lại ép Nguyễn Phúc Thuần nhường ngôi chúa cho Dương. Thuần và bọn cháu là anh em Nguyễn Ánh trốn về Ba Giòng. Không may, Thuần bị bắt lại. Như vậy, đúng theo dự tính của Lữ, quân chúa Nguyễn chia thành hai phe. Phe Lý Tài và quân Hòa Nghĩa ủng hộ Dương được dịp tự xưng là Tân Chính Vương, chống với phe Ðỗ Thành Nhân và quân Ðông Sơn vẫn trung thành với Thuần, nay được Dương phong làm Thái Thượng Vương nhưng không có quyền hành chi cả.
Nhạc nghe tin quân chúa Nguyễn đánh lẫn nhau, hể hả lắm, ôm Lữ bảo: “... mi vậy mà thâm ”. Năm sau, Nhạc kêu ầm lên là thấy rồng bay từ cửa Thị Nại vào Qui Nhơn, tự mình lên ngôi, xưng là Thái Ðức Hoàng Ðế, rồi phong cho Lữ làm Tiết Chế coi tất cả việc quân. Vẫn còn bực Huệ về việc không nghe lời mình, Nhạc chỉ cho phong Huệ chức Long Nhượng tướng quân. Vỗ vai Lữ, Huệ phá lên cười, tay chỉ lên mây, nói lái “... ta nay lại thấy rồng lộn từ Qui Nhơn ra Thị Nại! ”.
Giải hai giáo sĩ Ypha Nho mang thư cầu viện của Nguyễn Ánh bắt được về Gia Ðịnh, Lữ thừa biết rằng dẫu thoát, Ánh chẳng còn lực lượng gì đáng kể. Huệ vắng mặt, Lữ một mình chống cằm ngồi tư lự hàng giờ, cuối cùng cho gọi hai vị giáo sĩ lên. Từ tốn hỏi về tình hình bọn Ánh và Bá đa Lộc, rồi chìa bức thư ra, Lữ nói:
- Hai vị biết, Tây Sơn chúng tôi trọng những người giáo sĩ Gia Tôâ đi giảng đạo. Xưa, chính tôi đã tha cho Nguyễn Phúc Thuần, lại xin với giáo sĩ Jumillia là đừng can thiệp vào nội bộ chúng tôi. Ngày nay - Lữ nhướng mắt lên, chậm rãi - Hai vị cầm thư này thì không thể nói như Giáo sĩ Jumillia là vì tấm lòng người Gia Tô nhân đạo... Tôi phải xử hai vị thế nào đây? Chúng tôi có thể cho voi dầy hai vị, ngựa xé hai vị, hay là giảo hình tùng xẻo hai vị. Tiếc thay, hai vị không thể cho rằng mình tử vì đạo để chết yên ổn... Hai vị chết vì a tòng với bọn giặc phản loạn chống Hoàng đế nước tôi!
Giáo sĩ Castuera và Ginestar run bắn lên, mặt tái nhợt. Ginestar sợ quá, nhũn chân ngã khuỵu xuống, không đứng lên được, ú ớ nói như mê sảng. Lữ phẩy tay cho lôi bọn họ ra, dặn chỉ giam lại.
Ba ngày sau, Huệ từ Vĩnh Trấn về Gia Ðịnh. Nghe Lữ kể xong, Huệ biết ý, bảo ngay: “... chú định tha họ? ”. Lữ gật đầu, nói:
- Phía Bắc, quân chúa Trịnh đóng đấy đợi thời cơ là kéo vào ép đánh Qui Nhơn và Quảng Ngãi. Từ Phú Yên đến Bình Thuận, quân ta mới chiếm, vẫn phải dàn mỏng ra để giữ. Vào miền Nam này, dẫu nay ta có chiếm được toàn bộ thì vẫn không đủ sức giữ hết, giỏi là phòng bị được Gia Ðịnh trở ra. Ánh nay lại xin cầu viện với Xiêm La và với Pháp. Xiêm ở gần, kéo sang tới nước ta chỉ hai ngày. Nếu hắn lại có thêm Ypha Nho từ Phi luật Tân đến giúp, thuận buồm xuôi gió thì chắc ba ngày hai đêm là có thể đổ bộ vào. Lại nghe quân Mã vừa sục đến đánh Cao Man, sự thể không biết sẽ ra sao! Vì vậy, ở thế ta, bớt được kẻ thù, thêm được đồng minh là thượng sách.
Huệ cười: “... ừ thì tha, nhưng cứ giam cho đến khi nào ta về Qui Nhơn đã ”. Ngay hôm đó, Huệ dặn Trương văn Ða sửa soạn chuyển quân sang cứu Cao Man. Một tuần sau, Huệ cho gọi hai giáo sĩ lên. Ngồi bên Lữ, Huệ quắc mắt hỏi:
- Hai vị muốn sống hay muốn chết?
Castuera cúi đầu, gập người xuống, miệng khẩn cầu:
- Chúng tôi mắc tội, chót lỡ lầm. Nay làm gì chuộc được, chúng tôi sẽ xin hết lòng.
Huệ đưa một phong thư đã viết sẵn, rành mạch:
- Một trong hai vị mang phong thư này sang Phi luật Tân đệ trình cho quí Vương rõ: Tây Sơn chúng tôi để mọi giáo sĩ tự do đi lại truyền đạo từ Qui Nhơn vào Hà Tiên, sẵn sàng mở cửa khẩu Thị Nại và Cần Giờ để thông thương buôn bán với quí quốc Ypha Nho. Phép độc quyền đặt thương quán tại hai nơi đó có thể dành cho quí quốc sau khi hai bên thỏa thuận.
Ngừng nói, Huệ quay sang Ginestar ra lệnh:
- Còn một vị ở lại nước này, cứ đi rao giảng nhưng nói lại với giáo hữu rằng họ sẽ được miễn sưu miễn thuế trong ba năm tới đây nếu như họ vào sổ đinh và chịu binh dịch, cứ năm đinh bắt một lính.
°
Chỉ hai tháng sau khi Huệ và Lữ rút quân về Qui Nhơn, để Gia Ðịnh cho Trương Văn Ða giữ, thì tướng tá quân chúa Nguyễn lại xuất đầu lộ diện. Hồ văn Lân tiến chiếm Cần Thơ, bắt được mười ba chiến thuyền đi biển của Tây Sơn. Lê Văn Quân mộ quân giữ sông Tân Hòa. Tôn Thất Hội thu thập tàn binh cướp đồn Tinh Phụ. Trong khi đó, đoàn thuyền Nguyễn Ánh lại từ Thổ Châu giong về đất liền. Men vịnh Xiêm La, thuyền phải ghé vào những cù lao rải rác để hái rau đào củ ăn cho qua ngày. Tháng giêng năm Giáp Thìn, Ánh ghé vào một hòn đảo cách Chantabun hơn một dặm. Cùng lúc đó, đám tướng Nguyễn bị Tây Sơn vây đánh. Lê văn Quân và Tôn thất Hội lại thua, cùng đường cũng chạy sang Xiêm.
Ngồi bất động nhìn vào đất liền, Ánh như một bức tượng đổ bằng thạch cao, phần hồn chỉ lóe lên qua tia mắt u uẩn thỉnh thoảng lại rực lên ánh căm hờn. Giơ tay vẫy, Ánh gọi tên con. Mấy tháng nay, Ánh sai Thức dạy vỡ lòng cho Hoàng tử Cảnh, cứ hai ngày lại chính mình xem Cảnh tiến bộ thế nào. Mỗi lần Cảnh không nhớ mặt chữ, Ánh quát tháo, lắm khi tiện tay là tát, miệng lầu bầu “... còn nghiệp nhà đó, mày làm sao cho tao thì làm! ”. Thức dắt tay Cảnh đến gần.
Ánh nhìn Cảnh, rồi nhìn Thức. Một lúc sau, Ánh thở ra, bất ngờ hỏi:
- Thầy xem nghiệp nhà ta có cứu vãn được không?
Thức thận trọng, trả lời:
- Trong quân họ đồn với nhau lời sấm ký, bảo rằng Song Ngư nước cạn, cơ nghiệp nhà Nguyễn lại về tay nhà Nguyễn...
Ngửa mặt lên cười u oán, Ánh nhìn ra xa:
- Thày tin sấm ký à? À, phải đấy. Thầy là học trò La Sơn Nguyễn Thiếp thì tin cũng đúng. Mà thầy có tin thật không?
-...
Ánh chợt gằn giọng, nhìn xoáy vào mắt Thức:
- Chính ta đặt điều nói ra thế! Kẻ theo ta bôn tẩu phần lớn đều tin như vậy mà giữ hy vọng!
-...
- Thầy có nghe Bắc hà mắc loạn Kiêu binh không? Tay vỗ xuống cát, Ánh nhẩn nha - Chúa Trịnh yếu đi thì mặt Phú Xuân không còn là mối nguy của Tây Sơn, nên có hai khả năng. Hoặc nó tập trung đánh ta, hoặc giả nó ngó ngàng muốn cướp đất Bắc, giảm áp lực trên đất Gia Ðịnh. Thầy thấy tình huống nào sẽ xảy ra?
Thức chần chừ rồi đáp:
- Tôi không biết. Nhưng trong tình huống nào cũng vậy, Vương công muốn giữ nghiệp nhà Nguyễn vẫn chỉ có một lối, đó là xây dựng binh lực. Cứ thếâ yếu thì rút, thế mạnh lại tiến lên giữ.
Ánh nghe, nhìn khuyến khích cho Thức nói thêm. Thức trầm ngâm:
- Nếu Tây Sơn dòm ngó Bắc hà, Vương công xin hòa, cướp thời gian để củng cố. Nếu họ tấn công Gia Ðịnh trước, Vương công cố thủ, không chống được thì rút, mặt khác liên kết với Chúa Trịnh tạo ra áp lực trên Tây Sơn từ phía Bắc...
- Nhưng Trịnh mạt rồi, quân đội trong tay Hoàng Phùng Cơ và Ðinh Tích Nhưỡng không có uy vũ gì cả! Ánh thở dài tiếp -... ta đã liên lạc với bọn Lê văn Quân và Tôn thất Hội hiện đang lưu vong ở Vọng Các, và đệ thư xin Xiêm vương cứu viện đưa quân vào đánh Tây Sơn!
Cau mày, Thức can:
- Vương công hẳn biết, cái gương Trần Ích Tắc còn đấy, việc cõng rắn cắn gà nhà vẫn là hạ sách.
- Ta hiểu - Ánh ngắt lời - vì thế ta chống việc đi cầu viện nhà Thanh. Ðó là con rắn lớn. Còn Xiêm La, chỉ là con rết nhỏ, may ra thì giúp ta lúc khốn cùng này chút ít thời gian để góp quân, gom của mà thôi.
-...
- Ngoài Xiêm, còn Ypha Nho và Pháp-lan-tây là có thể cầu viện được. Nợ xa, đòi nợ có thúc cũng không bằng nợ gần. Nhưng chủ nợ là bọn da bệch mắt xanh, ta vẫn ngại họ hơn người Xiêm. Mà lạ thật, Tây Sơn cho truyền đạo tự do, đám giáo sĩ Pháp không hiểu sao cứ trốn chui trốn nhủi không chịu ra mặt, ngấm ngầm rời các trường đạo sang Xiêm La, Cao Man...Thày có hiểu gì không?
-...
- Sắp tới, Giám Mục Bá đa Lộc và Cai trường Liot sẽ đến đây với ta. Thày xem, liệu tìm hiểu ý họ... - Ánh bật cười chua chát - Sao họ lại đi giúp cho một kẻ bại hết trận này sang trận khác như ta!
Ðứng lên, bỗng nhiên Ánh nắm vai Thức, hỏi:
- Còn thầy, có phò nhà Nguyễn ta không?
Sững người ra, Thức mím miệng, nhưng Ánh đã nói ngay:
- Cứ tiếp tục dạy Hoàng tử, đừng quên là thày còn nợ ta một câu trả lời đấy.
°
Trái với dự liệu của Thức, gặp lại Bá đa Lộc và Liot nhưng Ánh lại không nhắc gì đến việc Thức muốn theo trường đạo để tiếp tục việc làm từ điển, cũng như ý định để Thức đi kèm Hoàng tử Cảnh sang Pháp. Ở với Ánh độ nửa tháng, Bá đa Lộc lại từ tạ, mang tám mươi giáo hữu chạy ra Thổ Châu rồi cuối cùng đến ở đảo Poulo-way. Tháng hai năm Giáp Thìn, Ánh hẹn Chu văn Tiếp cùng đến Vọng Các. Vua Xiêm cho hai cháu là Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem hai vạn thủy binh và ba trăm chiến thuyền tiến vào Gia Ðịnh.
Tháng bảy, liên quân Xiêm - Nguyễn đổ bộ lên Rạch Giá. Ánh không vội công thành Gia Ðịnh, từng bước chiếm các vùng từ vịnh Xiêm La đến Tiền Giang, đánh ăn chắc, và đến đâu là củng cố đến đó. Với lệnh miễn sưu, thuế, lại năm đinh mới bắt một lính của Tây Sơn, Nguyễn Ánh quả lúng túng, không biết thế nào để lấy lòng dân mà đồng thời lại có thể chiêu binh, góp của. Trong vòng hơn ba tháng, quân Xiêm - Nguyễn mới lên được Cần Thơ, chiếm đồn Ba Thác, Trì Ôn rồi tiến về Sa Ðéc. Nhưng ở lâu, lính Xiêm sinh ra khinh mạn, giết người cướp của, làm dân oán thán. Ánh hoảng sợ, viết thơ mời Bá đa Lộc về, trong khi đó tướng Tây Sơn Trương văn Ða đem quân án ngữ Long Hồ để phòng thủ. Liền sau đó, Chu văn Tiếp chết trong trận Mang Thít, quân Nguyễn thắng nhưng không tiến thêm được một bước nào cho đến cuối năm.
Bá đa Lộc vào đến quân dinh khoảng đầu giờ Ngọ. Nguyễn Ánh đích thân chạy ra, ôm hôn tay như người có đạo, rồi mời lên ghế cao, tự mình ngồi xuống thấp, thái độ vô cùng kính cẩn. Bá đa Lộc cười hể hả, nói tiếng Việt làu làu:
- Thấy Vương công khỏe mạnh, tôi mừng lắm.
Lộc trên dưới năm mươi, béo phệ, lông mày như hai con sâu róm châu đầu vào nhau, miệng lúc nào cũng như cười, đôi mắt đen nâu thỉnh thoảng lại có tật cứ nháy nháy giựt lên từng chặp. Ánh đưa Thức ra giới thiệu là Tư giảng của Hoàng tử Cảnh, lại khoe rằng Thức đã từng cùng giáo sĩ Sieyès làm từ điển. Bá đa Lộc nghe xong, quay sang Thức hỏi về những ngày cuối cùng của Sieyès, làm dấu thánh giá, rồi cầm tay Thức, ân cần:
- Hy vọng rằng ông cũng sẽ giúp tôi như giúp Sieyès. Tôi cũng đã từng làm một cuốn từ điển sơ lược cách đây mươi năm. Chẳng hiểu ông có còn bản nháp đã làm với Sieyès không?
Thức lắc đầu, buồn bã kể lại là đã thất lạc tất cả từ ngày bị Tây Sơn bắt giam ở Qui Nhơn. Lộc an ủi, cười nói:
- Rồi ông xem, ta sẽ làm lại. Nhưng với ông, bước khởi đầu như vậy là đã đi được xa rồi, phải không?
Ba hôm liền, Bá đa Lộc và Ánh bàn bạc suốt ngày, nét mặt nghiêm trọng. Ðến ngày thứ tư, Ánh trao cho Lộc một phong thư và chiếc ấn tín bằng ngọc tỉ. Tay dắt hoàng tử Cảnh, Ánh nhìn Lộc, giọng thỉnh cầu:
- Con tôi, tôi xin giao cho cố giữ nó, dạy nó giúp tôi. Nó còn là Hoàng tử của cả nước tôi, sau này thế nào là tùy cố...
Quay sang Thức, Ánh tiếp:
- Ta cũng xin cho thầy đi kèm Hoàng tử, phụ cố một tay trông nom cho Hoàng tử.
Tối hôm ấy, Thức đang sửa soạn cho chuyến đi thì Ánh bước vào. Nhìn Thức chằm chằm, Ánh buồn rầu:
- Ta mang con đi gán, mong vay được bốn tầu chiến và một nghìn rưởi quân Pháp, chẳng biết họ có cho nợ không? Thầy kèm Hoàng tử, đừng để ảnh hưởng Tây dương xâm nhập quá độ vào cái trí óc còn ngây thơ. Sự mong muốn xưa thầy nói, nay có cơ thành tựu. Nhưng thầy còn nợ ta một câu trả lời... Thầy nghĩ ra chưa?
Thức chột dạ. Chàng ngập ngừng, rồi thành thật:
- Tôi là kẻ tiện dân học đòi chính giáo, đã mấy đời nay là tôi của vua Lê. Dưới Vua, thì có Chúa. Ở đất Ðàng Trong, Chúa là nhà Nguyễn nên trung với Vua ai lại chẳng phò Chúa. Nhưng thế sự này thì cuộc đổi đời xem ra như không còn xa... Nghiệp nhà của Vương công cũng vì thế mà sẽ không là nghiệp xưa. Thời gian tới đây, sự nghiệp lớn lao là sự nghiệp canh tân đất nước, bình định cho yên giặc giã, hết chiến tranh, để dân nhà nhà được yên ổn làm ăn, được học hành cho mở rộng tầm mắt. Vương công làm như thế, tôi xin phò...
Ánh chặn tay, ngắt ngang:
- Ta vẫn còn ở thời phải bình định... Giặc đánh, ta phải chống, thời giờ nào mà nghĩ xa nghĩ xôi.
Ánh im lặng, mắt nhìn vào bóng đêm, búng tay rồi nói:
- Ta không ép thầy. ý chí canh tân cũng là ý chí ta, nhưng trước mắt ta không làm ngay được. Vậy thầy cứ đi, thấy cái hay về bảo cho ta!
Cười nhạt rồi đưa tay bóp trán, Ánh trầm giọng:
- Người Tây dương thấy ta còn trẻ, lại có cái thế chính danh, nên vun xới vào để mưu đồ việc họ qua ta, rồi về sau sẽ qua Hoàng tử Cảnh. Thầy thừa biết. Ta biết. Họ cũng biết. Nhưng cứ như đánh cờ, biết thế vẫn phải chịu thế.
Ánh đột nhiên đứng dậy, quay ngoắt đi ra ngoài, không nói thêm một tiếng. Thức nhìn theo, lòng bâng khuâng chút thương cảm. Từ năm mười lăm tuổi, Ánh đã xuôi ngược bán chết bán sống chạy chí mạng. Bảy năm qua, Ánh cứ đụng trận là thua, đánh đâu bại đó, lắm khi trốn lênh đênh trên biển phải nhịn đói chịu khát sáu bảy ngày liền. Sức mạnh nào khiến Ánh cứ tiếp tục một cuộc chơi lạ lùng cứ ngã xuống lại đứng lên? Thức nhớ lại, một hôm Ánh ví von, nói đùa với đám tướng sĩ tùy tùng: “... thằng Huệ trời sinh nó là con cọp, nó tát nó quào rồi nó bỏ đi. Còn ta, trời sinh ta làm con sói. Ta không tát, không quào, chỉ biết cắn. Nhưng khác nó, ta đã cắn vào con mồi rồi thì nhất định ta không nhả răng ra, dù trời có sập cũng vậy! ”
Thức ngước lên nhìn sao trời. Mai đây, ở bên trời Tây, liệu Thức có thấy cũng những vì sao lấp lánh kia hay là những vì sao khác? Bùi ngùi lấy tay gạt những hạt cát bám trên áo, Thức thầm hứa với mình là dù có đến chân trời góc biển nào đi nữa, mảnh đất mẹ vẫn là chốn cuối cùng buộc chàng vào cõi nhân gian oái oăm đa sự này.
°
Hai tháng sau khi đến Pondichery, Bá đa Lộc được công ty Ðông Ấn chuyển thư của giáo sĩ Liot báo cho biết là Nguyễn Huệ lại vừa đánh tan liên quân Xiêm - Nguyễn ở Rạch Gầm và Xoài Mút và truy lùng Ánh đến tận Thổ Châu. Ánh dẫn năm chiến thuyền và hai trăm quân chạy sang Xiêm, xin vua Xiêm cho trú tại Ðồng Khoai ở ngoại thành Vọng Các. Ở đấy, Ánh sai quân làm rẫy khẩn hoang, nhưng vẫn phái người lẻn về Gia Ðịnh âm thầm chiêu mộ để tìm thế khôi phục. Bá đa Lộc lồng lộn, đập bàn, hét tướng lên rồi uống rượu say hai ngày liền, mắt đỏ ngầu ngầu nhìn như muốn ăn sống mọi người. Sau, Lộc gọi thầy Paul, tên ta là Hồ văn Nghị, bảo:
- Bọn ta đến đây có ba mươi bốn người, tiền mang theo lại sắp hết. Thầy hỏi xem ai muốn về Gia Ðịnh, ai muốn ở lại đây?
- Cố làm thế, có vội vã quá chăng? Người An Nam chúng tôi bảo còn nước là còn tát!
Nhìn Nghị, Bá đa Lộc trợn mắt:
- Ánh lại chạy sang Xiêm rồi! Thở dài, Lộc lẩm nhẩm -... Cứ đánh là thua, thế thì ai làm gì giúp được? Ta có cảm tưởng là ta đang tát nước cạn. Bây giờ, thầy bảo phải làm sao?
Nghị cúi đầu nghĩ ngợi một lát rồi nói:
- Trước hết, tin nhà Chúa thua chạy, ta hãy tạm giữ kín. Sau là Cố viết thư xin Hội Truyền Giáo giúp phương tiện để ở lại Pondichery thêm một thời gian, tìm cách gặp quan Toàn Quyền Souillac hòng thuyết phục ông ta can thiệp...
Lộc lắc đầu:
-Ta gặp rồi, không đi đến đâu! Sáng mai, ta sẽ trình bày với tướng Coutanceau, may ra ta có thể...
Bước ra ngưỡng cửa, cái nóng hừng hực làm Lộc choáng váng. Trời oi bức nhưng ẩm áp, tay sờ vào đâu cũng nhớp nháp. Nắng đổ trắng xóa lên tháp chuông, lóe lên ánh phản chiếu trên kim loại chói lòa mắt. Lấy tay che, Lộc lẩm nhẩm, rồi nói với lại:
- Hãy thay ta làm lễ sáng mai là ngày thánh St-Joseph.
Về đến phòng, Lộc lôi giấy trắng ra ngồi hí hoáy viết. Ðoạn chót, Lộc cắn tay suy nghĩ, rồi đặt bút:
“... điều khác tôi khẩn cầu là lo việc giáo dục cho Hoàng tử mà tôi đang chịu trách nhiệm. Tôi muốn rằng, dẫu chuyện gì xảy ra cũng vậy, dạy dỗ nó trong đạo; như vậy là để bù đắp vào cái mất mát ngai vàng vốn chỉ là cái mất nhất thời bằng sự sáng quí báu và hằng vĩnh... Nó mới sáu tuổi, nhưng đã biết cầu nguyện, tâm linh sẵn hướng về siêu nhiên tôn giáo. Một điều lạ là nó gần gũi tôi đến độ chẳng luyến tiếc gì bố mẹ nó, bà nó, vú em và hơn năm trăm nhân mạng đổ nước mắt ra khóc khi nó theo tôi lên tầu. Giáo hữu đều cho rằng đó là ơn thiêng liêng của Chúa, nhưng người ngoài đạo bảo rằng tôi đã đánh bùa bỏ ngải...”.
Tờ mờ sáng hôm sau, Lộc một mình vào gục đầu lẩm nhẩm đọc Kinh trong nhà nguyện. Sau đó, Lộc gọi Tân và Thức đi cùng, lên xe do hai ngựa kéo, chạy qua những đường phố đã đầy ắp người quấn sa-ri, đi chân trần, rao hàng inh ỏi. Ðến phủ Toàn Quyền, cả bọn được mời vào phòng khách dành cho khu quân sự. Một lát, tướng Coutanceau bước ra. Sau khi giới thiệu là Tân và Thức đều là người phù tá Nguyễn Ánh và dăm câu mào đầu, Lộc đi thẳng vào vấn đề:
- Thưa thiếu tướng, đánh và thắng bọn giặc tiếm ngôi Quốc Vương An Nam không cần đông quân. Thứ nhất - Lộc nhìn về phía Thức, tiếp - dân họ biết là văn minh thua kém ta, nên cứ thấy da trắng là đã hàng phục. Thứ nhì, giặc chuyên dùng đao kiếm. Còn súng, cứ năm đứa mới có một, súng lại xấu, bắn chậm và không có tầm xa. Giặc không sử dụng súng thần công trên bộ, chỉ đặt ở thuyền, lại chưa biết dàn trận theo kỹ thuật mới là dàn dựng hỏa lực từng đợt, nên không phát huy hết tiềm năng được. Thứ ba, thủy quân giặc chỉ có thuyền chiến, cỡ to nhất thì cũng chỉ nhỏ như loại tầu chasse - marée của ta. Tôi từng thấy một tầu chiến với mười khẩu súng ca-nông và một chục người của ta đã đương đầu suốt một ngày với cả đọâi hàng trăm chiến thuyền của giặc...
Bá đa Lộc ngừng nói, rồi say sưa mở một tấm bản đồ, trải ra tay chỉ vào Hội An, miệng reo:
- Ðây, đây... Ðổ bộ vào đây, ta lập tức đánh lùi giặc, lập phòng tuyến để giữ đường ra biển. Bao giờ cũng vậy, phải không thưa thiếu tướng, luôn luôn nên tính đến cách rút khi cần. Hà hà... Phòng tuyến này sẽ là lũy đắp bằng đất thó trộn với lá dừa như quân Pháp đã từng làm ở Ấn Ðộ, đạn ca-nông bắn vào cũng chỉ xoáy thành lỗ, không phá được. Ở đây, ta để hai trăm lính giữ. Còn lại, là xung phong vào rồi quay sang phía Nam tiến về Qui Nhơn, sào huyệt bọn cầm đầu đám giặc. Trong khi đó, Quốc Vương Cochinchine mang quân từ Gia Ðịnh xông lên, hai mặt đánh vào...
Coutanceau vẫn im lìm nghe, bỗng ngước mắt, rồi hỏi:
- Thưa giám mục, ngài nghĩ đội quân đánh Qui Nhơn phải bao nhiêu người?
- Một nghìn, một nghìn là đủ!
- Có cần pháo binh không?
- Có chứ, bộ binh có trọng pháo là cái mạnh của ta!
- Vâng, thế lấy bò ở đâu để kéo pháo đi?
Bá đa Lộc ngẩn ra, rồi đáp:
- An Nam không có bò, chỉ có trâu!
Coutanceau tiếp:
- Cho một nghìn quân bộ, như thế cần khoảng trên một trăm con trâu để kéo pháo! Thế tìm đâu ra trâu?
Lộc ngần ngừ:
- Ta chở từ Côn Ðảo tới bằng tầu!
- A, thật là tuyệt diệu. Vậy là cần thêm hai tầu chiến để trở có trâu thôi! Coutanceau cười, tay chỉ vào Phú Xuân nằm sát ngay Hội An trên bản đồ, hỏi tiếp - Thế đây là chỗ quân đội Tonkin đóng. Thưa giám mục, ngài nghĩ là họ sẽ để yên, không kéo quân xuống?
Mím miệng, Lộc lắc đầu:
- Chắc là không! Ranh giới nước họ đến đấy thôi!
Coutanceau nghiêm giọng:
- Thế ranh giới nước Pháp ở đâu mà ta lại đến đánh Hội An đây?
Lộc ngẩn người ra, chưa biết đối đáp thế nào thì Coutanceau, để tránh căng thẳng, quay sang Thức và Tân hỏi lấy lệ:
- Quí vị nghĩ thế nào?
Tân thở dài sườn sượt nhìn xuống đất không nói gì. Thức đành trả lời:
- Tôi vốn không biết gì về quân sự, mọi việc đều tùy Ðức Giám Mục.
Bá đa Lộc hắng giọng chen vào:
- Nhưng thiếu tướng, ngài vẫn chưa hỏi rằng đánh Hội An thì nước Pháp của chúng ta sẽ được những gì?
Coutanceau giơ tay chặn Lộc, miệng tươi cười, lịch sự nói:
- Bây giờ là giờ dùng trà ở Ấn Ðộ. Xin mời quí vị sang phòng bên.
Quay về phía sĩ quan tùy tùng, Coutanceau đưa mắt nhìn. Người này đi ra mở cửa. Contanceau nháy mắt, hóm hỉnh nói nhỏ: “... ông kiếu họ cho tôi. Cứ tiếp cho chu đáo. Nhưng chớ có học về chiến thuật quân sự với Ðức Giám Mục. Cần thì chỉ nên hỏi ngài về lối nào lên thiên đường cho nhanh nhất mà thôi! ”.
Buổi đi thăm sáng hôm ấy nhất định không thể gọi là một thành công trong chuyến vận động của Bá đa Lộc cho một cuộc viễn chinh của Pháp ở Ðàng Trong xứ Ðại Việt. Về đến nhà dòng, Lộc bực bội ra mặt, gọi Paul Nghị lên thì thầm rồi đi ngủ trưa. Hôm ấy, Thức hẹn mang Hoàng tử Cảnh ra phố xem mấy tay fa-kia thổi sáo cho rắn hổ mang ngửng đầu lên múa. Vào phòng Cảnh, Thức chỉ thấy Bạch, người anh họ của Cảnh năm nay đã mười tám tuổi, đang ngủ gà ngủ gật. Hỏi, Bạch chỉ tay về phía phòng ngủ của Bá đa Lộc. Cửa phòng khép hờ. Thức đẩy nhẹ, nhìn vào. Bá đa Lộc lõa lồ, miệng ngáy pho pho, bên cạnh Hoàng tử Cảnh nằm trần truồng như nhộng. Thức lặng người, tay đóng nhanh cửa phòng lại. Bước ra ngoài nắng, Thức tự nhủ rằng Hoàng tử chẳng cần đi đâu xa để mà coi rắn múa.
°
Ðứng trên boong chiếc tầu buôn Malaban, Thức nhìn bờ nước xa dần. Sáng nay, chuyến đi Ấn từ tháng hai năm 1785 coi như kết thúc, sau thời gian gần một năm chạy chọt không kết quả với đám quan chức Pháp. Ðến khi tiếng kèn và tiếng sáo trên đất liền nghe chỉ còn văng vẳng, Thức ngửng lên trời, ngắm những cánh hải âu lượn qua lượn lại trong ánh nắng chói chan. Thầy Nghị đến cạnh Thức, trầm ngâm không nói năng. Không còn thấy Pondichery trong tầm mắt, Thức mới quay lại hỏi:
- Thưa Thầy, tầu chạy bao lâu mới đến nước Pháp?
Nghị gật gù:
- Nếu đi thẳng thì chưa đầy hai tháng. Nhưng tầu này là tầu buôn, còn ghé chỗ này chỗ kia, chắc phải bốn tháng hay hơn thế nữa.
Tiếp tục tán gẫu, Thức mới biết là Nghị người gốc Nghệ An, trước có học chữ Hán rồi sau vào chủng viện ở giáo phận Tây Ðàng Ngoài. Nghị ít nói, thường lánh chỗ đông, tay lúc nào cũng lần tràng hạt. Nhìn ra tít tắp chân trời, Nghị bỗng hỏi:
- Thầy bỏ lỗi, tôi cứ băn khoăn không biết thầy... thầy định gì, chí hướng ra sao?
Thức ngạc nhiên, nhìn dò hỏi. Nghị thủng thẳng:
- Thầy là tư giảng cho Hoàng tử, phàm thì phải là người tin cậy của Chúa Nguyễn. Muốn thế, ắt là người Ðàng Trong...
Mỉm cười, Thức bình tĩnh đợi, mắt nhìn Nghị. Hơi bối rối, Nghị ngần ngừ:
-... nhưng không, thầy bỏ lỗi, tôi biết thầy chính là “ anh thầy đồ cứng cổ ” xứ Nghệ nhất định dạy chữ Nôm, không chịu dạy chữ Hán. Miệng cười nhẹ, Nghị tiếp - Thế thì trái ngược thật, Chúa Nguyễn có coi chữ Nôm ra gì đâu!
Thức bật cười rồi cao giọng:
- Thầy vậy là rõ thân thế tôi, thế Thầy có biết tôi còn bị cả chúa Trịnh lẫn Tây Sơn bỏ vào ngục không?
Gật đầu, Nghị thủng thỉnh:
- Biết, tôi biết. Nhưng tìm chỗ dung thân ở nơi Chúa Nguyễn thì khó hợp lý. Ðấy, thầy rõ rồi, cứ đánh đâu thua đó! Vả lại, tôi cũng biết thầy đâu có ham gì quan tước, nếu ham thì thầy đã chịu ra đi thi rồi, đâu có mắc tiếng “ cứng cổ ”...
Biết không thể nói quanh mãi, Thức kể việc làm từ điển và cái chí đi tìm học ở Tây phương chẳng những kỹ thuật mà còn cách tổ chức và cái tôn ti trật tự của xã hội của họ. Nghị nghe Thức nói xong, lại hỏi:
- Học được, thầy rồi làm gì?
- Tôi mở trường học, viết sách, đi du thuyết...
Bật cười, Nghị cắt ngang:
- Thầy cho rằng đám sĩ phu hủ học khoanh tay ngồi nhìn thầy? Thầy quên là chỉ dạy chữ Nôm của ta thôi mà họ đã xuýt bỏ thầy vào tù qua tay quan Hiệp Trấn Nghệ An à?
Thức chưa biết nói gì thì Tân đi đến. Nghị chào, rồi lái ngay câu chuyện sang sức khỏe của Hoàng tử và đám tùy tùng. Ðợi Tân đi ra xa, Nghị tiếp tục câu chuyện nói dở:
-... những điều mới mẻ không cứ thế mà mang vào được, phải hội nhập và thích ứng từng bước vào xã hội với những nền nếp xưa cũ, chẳng thể thay đổi toàn bộ ngay được. Cách tân, tất gặp sự ù lì đối kháng lại... Thầy có nghĩ là một thân thầy không thể kham hết, mà thầy phải có những kẻ ủng hộ thầy, tập hợp đứng đằng sau không? Người đồng chí với thầy, thầy thấy ở đâu? Thầy làm gì để tiếp cận với họ rồi sau đó mới nói đến mở trường, viết sách...
Thức ngạc nhiên, không ngờ một kẻ tu hành như Nghị lại có cái nhìn sâu sát thực tế. Chàng xoa tay rồi trầm giọng:
- Thưa Thầy, tôi xin trân trọng những lời Thầy dạy. Nhưng hiện tôi phải biết cái kiến thức Tây phương đã. Chưa biết, nói gì đến bước sau! Nhưng còn phần Thầy, xin cho tôi hỏi một câu...Tây Sơn cho giáo sĩ Gia Tô tự do đi truyền đạo. Vậy lý do gì cố Bá đa Lộc cứ một mực phò Nguyễn Ánh?
Ngần ngừ, Nghị nhìn ra xa:
- Cố là người kín đáo, khi nói chỉ nói một nửa sự thật. Ðấy là điều cố lại không nói, tôi làm sao biết được.
Thức không ép, mỉm cười, nghĩ thầm đến vai trò của Nghị như cánh tay phải cúa Bá đa Lộc. Nhớ lại buổi gặp thiếu tướng Coutanceau, Thức có cảm tưởng như Lộc đang đánh bạc. Lại đánh lớn, mang cả đời mình ra để đặt cược. Rồi đặt vào cửa khó trúng nhất, chắc để “ được ăn cả, ngã về không ”. Nhưng ăn gì? Nhất là đối với một kẻ tu hành như Lộc? Nghị bỗng lên tiếng:
- Chắc thầy cho rằng tôi biết mà không muốn nói. Thế, cũng đúng nhưng chỉ đúng một nửa. Lạy Chúa, ngày nào tôi biết hết, tôi sẽ không quên câu thầy hỏi hôm nay.
Nói xong, Nghị bước về phía cuối boong, tà áo chùng thâm phần phật tung bay trong gió biển. Thức nhìn theo, lòng thoáng một niềm lo âu. Ðã một năm rưỡi nay, chàng sống cạnh Nghị ở Pondichery, ra vào hàng ngày gặp mặt, thường chỉ chào nhau và nói dăm ba câu thăm hỏi. Chàng không hề biết gì về Nghị, nhưng ngược lại, Nghị biết gốc gác chàng. Nghị đã nói gì với Bá đa Lộc? Câu Nghị hỏi, là hỏi cho Lộc hay cho Nghị? Sao lại đợi đến lúc ở trong boong tầu chạy về Pháp thầy Nghị mới mớm lời dò xét ý định và chí hướng chàng?
Thức ngẫm lại những biến cố một năm vừa qua. Sáu tháng sau khi đến Pondichery, Bá đa Lộc không thuyết phục được Coutanceau, nản lòng đến độ viết thư về Macao, sẵn sàng giao lại Hoàng tử Cảnh cho Toàn Quyền Ypha Nho ở Goa. Việc này dẫn đến sự kiện là hơn một năm sau, vị này đã sẵn sàng gửi giúp Nguyễn Ánh 56 tầu chiến và lính tráng. Nhưng sau khi gửi thư đi ít lâu, Cossigny và d’Entrecasteau qua thay Souillac và Coutanceau. Lộc lại lấy lại hy vọng, năm lần bảy lượt lên gặp quan Toàn Quyền mới, hết sức vận động sự can thiệp quân sự giúp Nguyễn Ánh. Nhưng dù không hẳn là không đồng lòng, đại tá Cossigny vẫn do dự, chỉ cử một chiến hạm đến vịnh Xiêm La thăm dò và tìm cách bắt liên lạc với Ánh. Cuối cùng, Lộc cho rằng phải về Paris thì mới hòng được việc, vì đám quan chức ở đây dẫu cao cấp cũng chưa đủ thẩm quyền để tự quyết định gì theo ý mình. Chắc là Nghị cũng đồng lòng, nên tháng sau cả bọn đều lên tầu sang Pháp. Thức chép miệng, định bụng có một lúc nào sẽ hỏi lại Nghị câu Nghị hỏi chàng. Ngẫm nghĩ rồi biết là chẳng bao giờ Nghị đáp, chàng cười mình vẩn vơ, chân chưa bao giờ đạp hẳn xuống đất để sống trong thực tế. Niềm lo âu trong lòng Thức dần dần tan như những sợi mây vào bầu trời trên cao xanh ngắt. Nếu như Nghị có ác ý, Thức thầm nhủ, thì dễ gì mà chàng đang đứng trên boong tầu này và ngắm những sợi mây kia.
°
Mất ba tuần lễ, Trọng Thức mới tìm được Emmanuel Sieyès. Dẫu là gặp lần đầu, Thức có cảm tưởng gần gũi vì hình dạng Emmanuel giống hệt người anh song sinh là Charles-Antoine. Nghe chàng kể lại những phút cuối cùng trong đời Charles-Antoine ở Ða Phạn, Emmanuel lặng người đi, ngơ ngác, mắt như vô hồn thả vào khung cửa sổ nhìn ra Thánh đường Notre Dame. Emmanuel đứng dậy, bước ra đẩy cửa. Một đàn chim bồ câu ở đâu bay lên, cánh trắng chao nghiêng dưới ánh nắng vàng nhạt của buổi chớm xuân.
Hai người đi dọc đường St-Jacques về phía sông Seine. Bờ sông thấp thoáng những bông mimôsa vàng tươi đang độ đâm ra chào chúa Xuân của muôn loài tạo vật. Chỉ tay, Emmanuel buồn rầu nói:
- Anh tôi rất thích mimôsa. Chẳng hiểu có loại hoa này trên thiên đường cho anh không?
Ngồi xuống ven bờ, Emmanuel nhặt dăm viên sỏi trắng ném xuống dòng sông. Một lát sau, Emmanuel hỏi:
- Chắc anh cũng đi tu như anh tôi?
- Không, tôi không theo đạo.
Emmanuel ngạc nhiên, nhìn Thức, nói:
-Lạ nhỉ. Vậy mà anh ở Ða Phạn với Charles-Antoine và giáo hữu?
Thức thuật lại chuyện trốn tránh lính Chúa Trịnh, nhưng không nhắc đến Mai và những chi tiết dính dáng. Emmanuel nói trống không:
- Cứ gần đám có quyền hành là thế nào cũng có chuyện, trừ phi anh chịu chúng chi phối. Chắc anh làm chính trị?
Thức không rõ Emmanuel nói làm chính trị là làm gì. Emmanuel giải thích:
- Nghĩa là tổ chức và vận động mọi người cùng một cách nhìn những vấn đề chung có tính xã hội.
Thức nghe, lắc đầu:
- Ở xứ tôi gọi thế là làm giặc. Và thường như vậy là phải sắm binh khi vì thế nào quan quân nhà Vua nhà Chúa cũng đến đánh giết!
Emmanuel gật gù:
- Âu châu cách đây trăm năm cũng vậy. Nhưng nay thì có khác đi được đôi chút, nhưng vẫn phải đề phòng bọn cảnh vệ khủng bố.
Thức hỏi:
- Chẳng hạn viết sách như viết cuốn “ Công Ước Xã Luận ” của Rousseau có phải là làm chính trị không?
- Có chứ. Nhưng chưa đến mức tổ chức. Chính quyền để Rousseau yên, nhưng đẩy cho ông ta bỏ xứ, tự lưu đầy, cuối đời phải đi chép tay những bản nhạc để kiếm ăn, rồi chết trong bệnh hoạn, đói nghèo...
- Bên xứ tôi, sách có viết cũng chẳng thể in để phổ biến được. Thức thở dài, nói như than -... mà dẫu có in, ngay những kẻ biết chữ cũng sẽ kéo bè để kết tội, bịt miệng người nghĩ khác, nói khác mình. Và thậm chí bọn có chữ nghĩa còn bóp cổ những người suy nghĩ độc lập cho đến đứt hơi mà chết ngạt chứ chẳng đợi cho chết trong bệnh hoạn và đói nghèo. Bọn đó, chúng có biết chữ là chỉ biết có mặt chữ, chẳng cần chi đến nghĩa của chữ, bởi xưa nay chúng chuyên sáo tụng những cái hữu danh vô thực.
Nhìn Thức, Emmanuel chợt hỏi:
- Ở xứ anh, có được nửa số dân đi làm giặc không?
- Không!
- Thế họ khoảng bao nhiêu?
- Hai trăm năm nay, đời nào họ cũng khoảng mười phần trăm. Họ dấy quân, sắm vũ khí, không chịu sưu thuế, chống lại triều đình.
Emmanuel lắc đầu:
- Thế chín mươi phần trăm còn lại là một đàn cừu dễ bảo?
- Dễ bảo ư? Vừa đúng, vừa sai. Ở trên cao, Vua Chúa thì huých tay đạp chân nhau. Nhưng từ Vua xuống đến quan thì đúng. Rồi giữa các quan, họ đối kỵ rình mò lẫn nhau để hất cẳêng nhau? Từ tỉnh, huyện xuống đến thôn làng, cũng dễ bảo! Nhưng trong mọi thôn làng, họ cũng lại so đo nhòm ngó, ai cũng cố chiếm cái miếng to trong đình làng. Người ta bảo “ một miếng giữa làng bằng một sàng ở chợ ”.
Thức chua chát cười, tiếp:
- Anh có biết không, ở nước tôi, những kẻ thứ hạng cao trong làng chia nhau từng miếng cái đầu một con gà ngày đình đám. Chúng tôi nhân phong tục này phát huy một nghệ thuật rất tinh xảo. Một cái đầu gà, chúng tôi có thể chặt thành ba mươi sáu miếng, từ miếng to đến miếng nhỏ. Miếng to nhất, dành cho tiên chỉ, thứ đến, là loại có đỗ đạt, rồi lần lượt lý trưởng, hương tuần...
Ngẫm nghĩ, Emmanuel nói:
- Như vậy, dân tộc của anh là một đàn cừu có thứ bậc. Một tập đoàn nô lệ nhưng lại tôn ti trật tự! Lặng lẽ nhìn Thức gật đầu, Emmanuel tiếp - Giá mà ngược lại, đàn cừu chỉ có mười phần trăm, còn lại làm giặc, nhưng không sắm khí giới, mà chỉ dùng lý lẽ thì xứ các anh sẽ khá hơn nhiều...
Emmanuel bâng quơ:
- Anh có đọc “ Emile ” của Rousseau chưa? Nếu chưa, tôi đọc một đoạn anh nghe nhé?
-...
- “ Thầy bảo: không được làm thế này - Ðứa trẻ hỏi: tại sao không được làm thế này? - Bởi vì làm thế là xấu - Xấu, làm gì là xấu? - Làm xấu là làm những gì người ta cấm không cho làm - Làm những gì cấm thì làm sao? - Người ta sẽ hành phạt vì bất tuân - Tôi sẽ làm sao cho người ta không biết - Người ta sẽ rình mò - Tôi sẽ giấu - Người ta sẽ hạch hỏi - Tôi sẽ nói dối - Không được nói dối - Tại sao không được nói dối - Vì thế là xấu, v.v... Ðó là vòng luẩn quẩn tránh không được ”.
Thức ngẫm nghĩ, rồi nói:
- Viết như thế, ở xứ tôi chính quyền nào cũng sẽ chu di tam tộc kẻ viết. Toàn là những vấn đề không ai có quyền đặt ra mà hỏi. Chẳng đứa trẻ nào dám nói ngược lại thày cả. Cái khuôn đời trước đặt lên đời sau, không cho cựa quậy, trói con người trong trăm thứ bổn phận, cuối cùng tất cả thành nô lệ.
Nhìn Thức, Emmanuel thủng thẳng:
- Cái ghê gớm nhất là sự nô lệ của mình với chính mình. Một thứ nô lệ nhưng cứ có ảo tưởng là chủ nhân ông. Tôi lại đọc Rousseau để anh nghe nữa:
“ Con người sinh ra vốn tự do, nhưng rồi sống trong kìm kẹp ở khắp nơi. Kẻ nghĩ mình là chủ tể của người khác cũng nô lệ không kém gì những người nô lệ cho họ. Làm sao sự chuyển hóa đó thành hình? Tôi không biết. Nhưng cái gì đã khiến sự chuyển hóa có cơ sở lý lẽ của nó? Tôi nghĩ rằng có thể giải quyết vấn đề này ”
Thức đứng lên, bước về phía nhà thờ, đầu mông lung. Emmanuel đi bên cạnh, miệng vui vẻ:
- Này anh bạn, cả nước Pháp sẽ gặp một cơn địa chấn vì những lời tôi vừa đọc đấy. Không chừng cơn địa chấn này lây qua cả Âu châu nữa. Nó đặt thành vấn đề cái trật tự của thời kỳ trung cổ trước bước tiến của tư duy hiện nay.
-...
- Tôi sẽ mua tặng anh cuốn “ Phương pháp luận ” của Descartes. Anh có đọc chưa?
Thức lắc đầu. Vỗ vai Thức, Emmanuel kéo vào một nhà bán sách ở Place St-Michel rồi chúi đầu lục lọi trên những kệ xếp đầy ắp sách. Thức nghĩ trong bụng, bao giờ mới có một nhà bán sách ở Thăng Long? Sách vở trong nước chép tay truyền nhau, đem ra gom qua góp lại chẳng có được bao nhiêu, lại là loại sách Tống nho đã mang những lớp bụi bặm của năm trăm năm về trước rồi. Chàng mủi lòng, để mặc Emmanuel loay hoay, buồn bã bước ra cửa. Emmanuel chạy theo, gọi:
- Anh bạn, chờ một tí. Tôi tìm ra sách rồi. Thêm được cả cuốn Tư Duy của Pascal. Giúi sách vào tay Thức, Emmanuel thành khẩn nói -... đây có lẽ lả những món quà quí nhất nước Pháp chúng tôi dành cho bạn.
°
Sau khi sắp đặt nơi ăn chốn ở cho mọi người ở tu viện St-Victor, Nghị đốc thúc một số người trong đoàn đi học. Qua trung gian của tu viện, Nghị ghi danh cho Thức tham dự những buổi giảng triết học và thần học ở Sorbonne. Về phần Bạch, sau khi thụ lễ rửa tội, Bạch được cho đi học về Vật lý và Thiên văn. Tình cờ một hôm bắt gặp Thức đang cầm cuốn “ Phương pháp luận ” trong tay, Nghị giở sách, trầm ngâm một lát rồi bảo:
- Thầy đọc sách này nên kín đáo, đừng phô ra mà gặp khó khăn.
Hỏi lý do, Nghị không nói, dặn Thức là muốn dùng thời gian đi nghe giảng ở Sorbonne hay làm gì cũng được, chỉ nhớ là tối phải về tu viện, tiếp tục dạy Hoàng tử Cảnh chữ Hán.
Trong thời gian đó, cố Bá đa Lộc đã bắt liên lạc với Ðức Cha Vermont xưa kia ở Áo đã kèm dạy Marie-Antoinette, hôn thê của Ðức Vua. Lộc tranh thủ được sự ủng hộ của Giám Mục Dillon và quan Kiểm Sát Loménie trong triều đình Pháp. Dẫn Cảnh đi đây đi đó trong những buổi họp mặt của đám quí tộc, cuối cùng Lộc được Ðức Vua Louis XVI nhận cho tiếp kiến vào đầu tháng 5 năm 1787, mặc dầu lúc ấy tình hình chính trị nước Pháp đang sôi nổi vì những buổi nghị họp của Ðại Hội Thân Hào Quí Tộc.
Sau những giờ nghe giảng ở Sorbonne, Thức thường ghé thăm Emmanuel, nhiều khi đi với nhau cả ngày, gặp gỡ chuyện trò với rất đông người. Nước Pháp đang sống những giờ phút báo hiệu một cơn giông bão mà ngọn gió đầu thổi lên từ những tư tưởng reo mầm trong thời kỳ Phục Hưng. Hàng tuần, một số người trí thức tiến bộ gặp nhau ở chủng viện Jacobin nằm góc đường St-Honoré. Họ gọi nhau là công dân. Công dân Emmanuel Sieyès, công dân Saint-Just, công dân Dumas...Họ tập hợp lập “ Hội bằng hữu cho Hiến Pháp ”. Hội sau này nhận cả “ công dân ” Trọng Thức. Thức rất ngạc nhiên, bảo mình đâu phải người Pháp. Họ cười. Công dân trừu tượng hơn Thức tưởng: công dân là người sống trong một xã hội họ đồng thuận, không phải đơn thuần chỉ là một cá nhân có gốc gác chủng tộc. Vì thế, công dân Thức có quyền cũng họp cũng bàn về cái xã hội anh đang sống trong đó. Thời gian đó, họ luận về “ Quyền con người và Quyền công dân” mà theo Sieyès phải là những quyền hạn cơ bản “... cho bất cứ quốc gia nào, ở bất cứ thời điểm nào ”.
Ðối với những hội viên của câu lạc bộ Jacobin, người ta sinh ra vốn tự do và bình đẳng, và từ đó có những quyền tự nhiên không một quyền lực nàotước đoạt được. Ðây là điều ai cũng coi như lẽ hiển nhiên không cần phải bàn cãi, và là điều căn bản trong Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Mỹ quốc vào năm 1776. Nhưng Emmanuel Sieyès không chịu ngừng ở đấy, cho rằng bản Tuyên Ngôn trên vẫn giữ hình ảnh những quyền lực của chế độ cũ, không thể phù hợp với “ một nhân dân có chủ quyền tối thượng toàn diện ”. Trong điều kiện này, cần “ phải đổi hoàn toàn bản chất và tinh thần của một bản tuyên ngôn mới. Bản tuyên ngôn này không là một sự nhượng bộ, một trao đổi, một thoả hiệp hay một khế ước giữa một quyền lực với một quyền lực khác... Chỉ có một quyền lực, là quyền lực của của nhân dân mà thôi ”.
Cách nhìn của Sieyès khiến nhiều người ngỡ ngàng. Ông nhấn mạnh sự phân biệt quyền tự nhiên của cá nhân và quyền công dân, con người tham gia tích cực vào xã hội. Vì vậy, quyền tự nhiên dẫu căn bản, nhưng không thể đồng hóa với quyền xã hội của công dân. Ở đây, xã hội dựa trên Hiến chương, một công ước của tập thể cá nhân tạo ra xã hội. Theo Sieyès, Hiến chương này thể hiện dân ý, nghĩa là cái ý chí phổ quát và toàn diện tạo ra xã hội. Tự thân nó chính là chủ quyền, một quyền tối thượng không tước đoạt, phân chia hay hủy diệt được. Dân ý, thể hiện qua Hiến chương, giữ vai trò cơ bản trong phương thức Lập pháp, tách bạch phân quyền với Tư pháp và Hành pháp.
Nghe Sieyès trình bày ý kiến của mình xong, một người mặt mũi xương xẩu, để ria mép, nhẹ nhàng hỏi sau khi tự giới thiệu tên mình là Condorcet:
- Chủ quyền tối thượng đó nếu là chủ quyền toàn dân, thì làm cách nào biết được là dân ý nếu không dùng thể thức trưng cầu. Như vậy, rất là ôm đồm và phức tạp, làm sao điều hành xã hội được?
Sieyès ngẫm nghĩ rồi