← Quay lại trang sách

Chương 11 Hồi cư về Sài Gòn

Thành phố Sài Gòn, sau những tháng dài chìm trong khói lửa chiến tranh, nay đã có một gương mặt khác. Sự thay đổi không phải chỉ nhận thấy ở cảnh vật bên ngoài mà hình như lúc nào cũng thấy bàng bạc trong tâm tư của những người hồi cư. Ý tưởng so sánh những sự việc ngày trước và bây giờ lúc nào cũng thấy xảy đến trước các tình huống mới. Ðặc biệt nhất là vì các thay đổi vật chất. Trong suốt các năm tháng của thời Ðệ nhị Thế chiến, vì giao thông với Âu châu và nhất là Pháp bị gián đoạn nên dân chúng đã tìm cách vận dụng các sản phẩm nội địa để thay thế các sản phẩm không còn được nhập cảng. Bột bắp và bột gạo chẳng hạn đã được pha trộn theo nhiều công thức để làm bánh mì, thay thế bột mì rất khan hiếm trên thị trường. Quần áo phần nhiều được may cắt bằng các loại vải sản xuất trong nước, loại vải thường được gọi là “vải 8”, sần sùi, trông thô kệch nhưng rất chắc chắn.

Nay thì trên các chợ, dân chúng đã thấy bắt đầu kén chọn, thích mua bánh mì làm bằng bột mì nhập cảng, được những người được phát “bon” để mua nhưng đã được đem bán ra từ những lò bánh mì mới, có tên lạ như Vita, Moderne... Một số đông dân chúng nay đã may mặc áo quần với vải sồ đắt tiền, nhiều màu sắc hơn. Những chiếc xe đạp mới nhập cảng nhất là hiệu Peugeot, là niềm hãnh diện của các chủ nhân tốt số đã lãnh được phiếu mua xe.

Các trường công và tư đã được khuyến khích mở cửa hoạt động trở lại. Trung học Petrus Ký đã trở về vị trí trước kia ở đường Nancy nhưng không còn tiếp tục mở các lớp Cổ điển La tinh Métro (Métropolitain) hay Cổ điển Viễn Ðông É.O.(Extrême-Orient) vì thiếu giáo sư? Nhiều khóa thi đặc biệt về Tú tài (Session spéciale) đã được tổ chức như ở Pháp cho các thanh niên đã phải bỏ học vì chiến tranh. Chương trình học dự thi được thâu ngắn nên nhiều học sinh Việt Nam tốt nghiệp bằng Thành Chung đã ghi tên và thi đậu Tú tài rất dễ dàng. Nhiều bạn quen đã thúc giục Triệu ghi tên đi thi nhưng ông ngoại của Triệu khuyên Triệu chỉ nên tiếp tục học như thường lệ, không nên chọn con đường “đi tắt”vì sẽ thấy thiếu căn bản nếu tiếp tục lên cấp Ðại học.

Triệu đã thăm dò, định trở lại ghi tên xin học lại ở Petrus Ký nhưng ở các lớpTú tài, phần lớn các học sinh nay đều là những gương mặt mới. Rất ít những bạn cũ ngày xưa đã trở lại, phần nhiều vì đã hoặc đi vào khu theo kháng chiến, hoặc đã tản lạc về quê. Một số bạn khác đã bỏ mình trong thời biến động. Ðau thương nhất là tin hơn mười bạn cũ của Triệu ở Gò Công, những người bạn có tâm huyết một lòng yêu nước, lại bị chánh quyền Việt Minh đem ra xử tử ở sân Vận động của tỉnh! Các bạn này, như Trần Thanh Mậu, Dương Văn Ðức, Nguyễn Văn Phương ở làng Vĩnh Lợi..., trước kia đã có công vận động đánh thức lòng yêu nước của dân chúng tỉnh bằng cách tổ chức những buổi trình diễn văn nghệ theo những kinh nghiệm đã làm ở thủ đô Sài Gòn dưới sự hướng dẫn của các sinh viên từ Hà Nội trở về.

Làm được những việc này trong thời thực dân Pháp còn đang ngự trị là một việc cần nhiều can đảm. Việt Minh, có lẽ vì sợ các bạn trẻ này có thể lôi cuốn quần chúng hơn họ là những người từ trong bóng tối đi ra, nên họ đã gán ghép cho các thanh niên bồng bột này những lý do nào đó để có cớ thủ tiêu họ? Triệu được biết là để giải cứu các bạn này, đảng Tân Dân Chủ đã phái Ðặng Ngọc Tốt về Gò Công can thiệp nhưng đã chẳng có kết quả gì. Tốt chỉ có được phép ôm vỗ về các anh em này trước giờ hành quyết mà thôi! Các anh bạn này ngày trước vẫn vui đùa, rủ Triệu phải cố gắng tìm dịp về thăm Gò Công để các anh đãi cho món ăn đặc biệt: bánh giá Gò Công. Vì câu nói đó mà mỗi lần có dịp được ai đó mời ăn bánh giá, Triệu đã phải xin chối từ trước vì đã có nhiều lần đã phát khóc nhớ các bạn cũ trước dĩa bánh.

Một số đông các giáo sư danh tiếng cũ của trường Petrus Ký cũng không còn trở lại dạy. Một số đã đi vào khu theo kháng chiến như giáo sư Phạm Thiều, Nguyễn Văn Chì, Nguyễn Văn Chí, Lê Văn Cẩm, Ðặng Văn Trứ v.v... Một số khác hình như chưa có ý định hợp tác với chánh quyền mới nên còn lánh mặt. Trong khi đó, ở trường Chasseloup Laubat, trước kia vốn chỉ nhận học sinh có quốc tịch Pháp nay lại đồng ý thâu nhận học sinh Việt có học bạ tốt nên Triệu đã xin ghi học ở đây. Ðặc biệt trường nay lại có được ban giáo sư mới, phần đông tốt nghiệp ở các Ðại học danh tiếng của Pháp. Các giáo chức mới này phần đông thuộc thành phần trẻ, tốt nghiệp sau Ðệ Nhị Thế Chiến, tâm hồn rất cấp tiến, chưa nhiễm thói của thực dân Pháp kém học thức trước kia. Các giáo sư dạy Pháp văn lại rất có cảm tình với Triệu sau khi đọc các bài luận của Triệu. Họ cứ vặn hỏi xem Triệu đã từng học với các giáo sư nào mà được uốn nắn viết tiếng Pháp trôi chảy như vậy. Triệu phải thú thật là từ trước, Petrus Ký thuộc loại trường Trung học bổn xứ nên giáo sư Pháp văn mỗi năm vẫn thay đổi thường xuyên. Triệu vì thế, không có được một giáo sư nào là vị thầy chánh. Triệu viết Pháp văn khá có lẽ nhờ mượn được sách đọc của tủ sách của gia đình Nguyễn An Ninh ở đường Hàng Thị Gia Ðịnh và cũng có thể là vì đã thích thú đọc tới đọc lui trên hơn nhiều lần bộ “Les Misérables”của nhà văn Victor Hugo nên đã nhiễm được lối hành văn của tác giả nầy?

Thế là từ nay, Triệu ngày hai buổi đạp xe đến trường, gặp gỡ nhiều bạn học mới, phần đông thuộc những gia đình của giai cấp thượng lưu Sài Gòn. Lề lối ăn mặc, luận điệu nói năng của các bạn này khiến Triệu cảm thấy mình như bị hụt hẫng đi lạc vào một thế giới xa lạ. Chỉ có những khi đến thơ viện thành phố tìm tài liệu, gặp lại một số bạn cũ trường Petrus Ký, kiểm điểm lại những gương mặt kẻ còn người mất, những thăng trầm của những tháng năm tao loạn... Triệu mới thấy thật sự đã sống lại cái không khí phù hợp với quá khứ của mình. Triệu cảm thấy cuộc sống trong một thế giới tương đối thanh bình của thành phố, trong khi cuộc tranh đấu giành độc lập của dân tộc vẫn đang tiếp diễn, là một chuyện trái khoáy.

Nhờ được có cơ hội gặp lại các bạn cũ, trao đổi tin tức, biết được một phần nào tình hình chiến sự. Lần lần Triệu đã nắm bắt lại được những đường dây liên lạc với các tổ chức đang bí mật hoạt động ở nội thành. Triệu bắt đầu thấy tâm tư nay đã bớt các thắc mắc, bớt cái mặc cảm đã bỏ rơi các bạn còn đang chiến đấu. Triệu đã ý thức được là cuộc tranh đấu có nhiều phương thức, nhiều mặt để hỗ tương cho nhau.

Ngoài cái tin đau buồn về trên mười bạn học trường Petrus Ký đã bị Việt Minh xử tử ở Gò Công, Triệu đã biết được việc Trần Văn Giàu và Dương Bạch Mai đã thủ tiêu bao nhiêu những nhà ái quốc mà Triệu đã từng mến phục trước kia như Hồ Văn Ngà, Huỳnh Văn Phương, Dương Văn Giáo, bác sĩ Nguyễn Ngọc Sương, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phan Văn Chánh..v.v... Ðặc biệt nhất là việc người phải bỏ mạng trước ngày khởi đầu Nam Bộ Kháng Chiến, không phải do thực dân Pháp giết mà lại do các sát thủ trong toán “Công tác thành” của Dương Bạch Mai. Người đó là Nguyễn Văn Vững, thủ lãnh Thanh niên Tiền phong vùng Ða Kao, thơ ký Ủy ban Sài Gòn-Chợ Lớn của nhóm Tranh Ðấu. Ông Vững đã bị bắn khi đi làm về, vừa dựng xe trước nhà ở đường Albert 1er (Ðinh Tiên Hoàng). Ông phụ trách lớp đào tạo thanh niên do Phan Văn Hùm chủ xướng và là người đã dẫn dắt Triệu vào cõi tư tưởng cách mạng đấu tranh bằng những bài vui nhộn như “Cộng sản có phải là xúc lúa, bắt heo?”, các bài lý luận Duy Tâm, Duy Vật, Biện Chứng Pháp..., cách thức tổ chức, huy động quần chúng... Triệu vui mừng bắt liên lạc lại với vài đàn anh nhóm Tranh Ðấu còn sót lại, những người đã thoát qua được đợt sát hại của Cộng sản Ðệ tam. Ðặc biệt anh L.B.P., một giáo chức cao cấp nhưng có cuộc sống bình dị với đàn em, cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc. L.B.P. đã bắt liên lạc được với các anh em công binh từ Pháp về và chuyển các tài liệu, sách báo phát hành ở Pháp, nung nấu lại nhiệt huyết của giới trẻ đối với tiền đồ cách mạng thế giới. Mỗi lần thân mẫu của L.B.P. từ Cần Giuộc đem cho anh P. đặc sản mắm tôm là đám trẻ lại có một phen hội họp vui nhộn như thời còn theo học lớp huấn luyện chánh trị của ông Phan Văn Hùm, Lê Văn Vững.

Anh Ðỗ Cao Minh, bạn của Triệu khi còn theo học Sơ học ở Biên Hòa cũng như suốt bốn năm nội trú ở Petrus Ký, tình cờ một hôm gặp lại Triệu ở Thư viện Thành phố, đã cho Triệu biết anh đã bí mật liên lạc với một số anh em tâm huyết, thành lập Liên đoàn Sinh viên-Học sinh Sài Gòn Chợ Lớn. Minh thuộc một gia đình của ông Ðỗ Cao Lụa ở Bến Gỗ, Biên Hòa, một họ danh gia thế tộc. Ðỗ Cao Trí, em của Minh về sau sẽ là một danh tướng tài ba miền Nam. Vì đã biết Triệu từ nhiều năm trước nên Minh không ngần ngại rủ Triệu gia nhập tổ chức. Ðỗ Cao Minh đã giải thích việc cần có một tổ chức thanh niên để góp phần vào cuộc tranh đấu chung. Một số bạn trẻ đã hoang mang, đứng bên lề cuộc chiến khi chứng kiến việc những người Cộng sản trong tổ chức Việt Minh đã cố tình phá bỏ những tổ chức không do họ nắm giữ. Trần Văn Giàu đã nắm được thế thượng phong để giành chánh quyền bằng cách lợi dụng tổ chức Thanh Niên Tiền Phong nhưng sau đó, đã theo mạng lịnh của Hà Nội, thành lập Thanh Niên Cứu Quốc. Thanh Niên Tiền Phong đã bị nhóm Trần Văn Giàu khai tử, không kèn, không trống, từ lúc nào không ai được biết! Việc làm theo lối này, Triệu đã có cơ hội nhận thấy lúc Tướng Nguyễn Bình được Hồ Chí Minh chỉ định vào Nam Bộ. Vào thuở đó, Trần Văn Giàu lẫn Dương Bạch Mai đều bỏ Nam Bộ lên đường ra Bắc. Tổ chức quân sự ở miền Nam lâm vào tình trạng rã rời từng mảnh. Lực lượng kháng chiến được xây dựng lại trong một buổi hội ở Bà Quẹo ngày 2 tháng 4 năm 1946 để thành lập Ủy ban Liên hiệp Kháng chiến. Tiếp đó, ngày 20 tháng Tư, trong một buổi họp kéo dài 3 ngày trong đó Nguyễn Bình đã phái giáo sư Phạm Thiều đại diện đến tham dự. Mặt trận Quốc Gia Liên Hiệp đã được thành lập để huy động các thành phần đảng phái, tôn giáo, quần chúng vào cuộc tranh đấu chung. Ông Huỳnh Phú Sổ được cử làm Chủ tịch với bí danh Hoàng Anh, Vũ Tam Anh, phó Chủ tịch, Mai Thọ Trân, Cộng sản Ðệ Tam làm Tổng Thư ký, Huỳnh Văn Trí, Ủy viên Quân sự... Nhận thấy Mặt trận này không do đảng Cộng sản chủ động nên Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị cho Nguyễn Bình phải giải tán để thay thế bằng Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam (Liên Việt), thành lập ở Bắc, ngày 25-5-1946. Việc đột ngột thay đổi chủ trương này đã khiến Nguyễn Bình, chân ướt chân ráo mới vào miền Nam, đã phải một phen mất mặt với các đoàn thể không Cộng sản ở Nam Bộ!

Anh Ðỗ Cao Minh đã gầy dựng Liên đoàn Học sinh, trong chiều hướng quy tụ những thanh niên không thích gia nhập Thanh niên Cứu Quốc của Việt Minh. Vì chỉ liên hệ với thành phần học sinh, nên phạm vi hoạt động của Liên đoàn tương đối quá giới hạn, mặc dầu anh Minh đã tìm được một số anh em hoạt động rất hăng say như Hồ Thái Bạch, Thới “đen” v.v...

Nhu cầu cần có những tổ chức không “đỏ” như Việt Minh, đã là ưu tư của một số nhân sĩ. Do đó, một hôm Triệu được những bạn sinh viên mời tham gia một buổi hội dự định tổ chức một đoàn thể mới để đáp ứng với tình thế. Các anh này vốn đã từng gia nhập đảng Tân Dân Chủ, nhưng sau này đã bỏ hàng ngũ vì nhận thấy một số đông anh em lãnh đạo đảng đã bị Cộng sản Ðệ Tam thao túng. Buổi hội được tổ chức ở một biệt thự có sân rộng bao quanh, khá kín đáo ở vùng Lò Heo Cũ, Gia Ðịnh. Vì mỗi lần tụ họp là một lần khó khăn nên buổi hội, trước được dự định sẽ kết thúc trong một ngày, lại phải kéo dài hơn hai ngày mới hoàn tất.

Ðó là buổi hội khai sanh tổ chức Nam Bộ Thanh Niên Phục Quốc, được gọi tắt là Nam Thanh Phục. Nam Thanh Phục gồm nhiều thành phần thanh niên ở nhiều giới, nhiều đoàn thể, tôn giáo... nên tầm hoạt động rộng hơn Liên Ðoàn Học Sinh. Sau khi bắt đầu hoạt động, vì danh từ “Phục Quốc” đã đưa đến ngộ nhận tổ chức mới này có thể có liên hệ đến tổ chức Phục Quốc Ðồng Minh Hội ở Bắc nên trong một buổi Ðại hội Khoáng đại, danh xưng được cắt gọn lại thành Nam Bộ Thanh Niên Ðoàn, tên tắt là Nam Thanh Ðoàn và cuối cùng được ngắn gọn gọi là Nam Thanh.

Ðể có tài chánh hoạt động, các chị em trong Ðoàn đã tình nguyện đứng ra buôn bán gạo thóc, rau cải, vải sồ... ở các chợ. Tập san Nam Thanh, phổ biến tin tức kháng chiến và hoạt động các đoàn thể được phát hành, trước tiên phải viết tay, hay đánh máy trên giấy sáp để in theo lối thủ công học được do các anh được gởi vào khu, thực tập ở nhà in “Chống Xâm Lăng”. Báo “Chống Xâm Lăng” lại do Nguyễn Văn Ðính, một đồng chí của Tạ Thu Thâu phụ trách nhưng ông Ðính đã giữ tông tích rất kín! Một thời gian về sau, nhân bắt liên lạc và thâu nạp vào đoàn thể một số anh em công nhân giúp việc in ấn cho một tổ chức tôn giáo Cơ Ðốc của Mỹ ở Phú Nhuận nên tập san được in lén, sáng sủa hơn. Giấy sáp stencil, giấy in, mực in, máy in của cơ sở tôn giáo được lén lút sử dụng in báo Nam Thanh. Có thể người quản lý Mỹ cũng biết nhưng đã làm ngơ để giúp kháng chiến?. Triệu nhận lãnh phụ trách thực hiện tập san nên đã mất nhiều công sức cho việc này nhưng cũng nhờ vậy nên đã học được kinh nghiệm tập tành viết lách.

Báo chí bí mật trong thời gian khởi đầu chỉ cốt để hô hào toàn dân tham gia kháng chiến, thông báo tin tức chiến sự, các chỉ thị của Ủy ban Nhân dân Nam Bộ nên hình thức in ấn chỉ ở mức độ tầm thường. Duy chỉ có một lần, tổ chức của Triệu đã có sáng kiến bán để gây quỷ nhân dịp Tết, một tài liệu tuyên truyền in rất mỹ thuật, viết bằng tiếng Pháp, nhằm phổ biến trong giới trí thức Việt, Pháp ở thành.

Trong tuyển tập thơ này, vì thích văn nghệ nên Triệu đã nhớ mãi hai bài, được viết theo thể thơ “sonnet” của Pháp. Một bài viết về bưng biền:

MAQUIS

Ceux qui, rageusement le voudraient nettoyer,

Ne voient dans le maquis que mort et que traitrise,

Le buisson peut celer de cruelles surprises,

L’arbre, muet, narquois, semble les défier.

Pour nous les maquisards, les arbres sont des frères,

Chaque fourré touffue nous protège et nous aime,

L’herbe est hospitalière et le ruisseau lui-même,

Vient nous chanter le monde où s’inquiètent nos mères.

Quand vient le soir, que la rage ennemie désarme,

Assis en rond, heureux, sous l’emprise d’un charme,

Nous contons de nos morts les immortels exploits.

La nuit est tout à nous. C’est alors que, sans bruit,

Sans que vibre le sol, marchant sur l’ennemi,

De l’espace et, du temps, les maquisards sont roisá!

Bài thơ này đã được thi sĩ Sóng Việt Ðàm Giang dịch nghĩa:

Bưng biền

Những kẻ quyết tâm càn quét bưng biền,

Chỉ thấy đó toàn chết chóc và phản bội,

Bụi bờ kia che được tàn bạo bất ngờ,

Cây cối lặng thinh ngạo nghễ, như thách đố.

Với ta dân bưng biền, cây cối là anh em,

Mỗi bụi rậm cho che chở và mến thương,

Ðồng cỏ và suối chảy tràn đầy thiện cảm,

Hòa ca trong thế giới mà phụ mẫu lo âu.

Chiều xuống, khi kẻ thù hung dữ buông vũ khí,

Vui, ngồi thành vòng, ảnh hưởng bởi chút duyên,

Ta kể nhau nghe chiến công bất tử của những kẻ nằm xuống.

Ðêm là của chúng ta, là lúc lặng như tờ,

Là không làm đất rung, ta tiến tới kẻ thù,

Là không gian, thời gian mà dân bưng biền làm hoàng đế!

(Sóng Việt phỏng dịch

Ngày 2 tháng 9 năm 2008)

Bài thứ hai là một bài địch-vận, để nói khích quân nhân Pháp:

LA FIN D’UN BEAU VOYAGE

Un jour, quand vous retournez à vos foyers,

Vous direz, les yeux lourds de vastes horizons,

Vos aventures, vos exploits, vos randonnées,

Et de votre combat, les plus hautes lecons.

Vous conterez comment une immense ferveur,

Vous mena, victorieux, d’Afrique en Italie,

De Bayeux à Berlin, avec quel doux bonheur,

Vous redonniez la gloire à la France meurtrie

Le cercle de famille, émerveillé, dira:

“Mais c’est une Épopée que ce siècle inscrira!

Dites nous, maintenant, la fin de votre histoire”

Alors, baissant les yeux, lourds cette fois de honte:

“Au pays du Viet Nam, contre un people qui monte,

Contre la Liberté, nous luttâmes sans gloire”

14 Juillet 1946

P.N.T.

Ðoạn kết của một cuộc hành trình đẹp

Một ngày khi anh trở về nhà xưa

Ðôi mắt nặng trĩu những chân trời bát ngát

Anh sẽ nói hứng khởi vô cùng kìa những cuộc phiêu lưu

Những thám hiểm, những du hành

Những chiến cuộc, những bài học đắt giá

Anh sẽ kể vì sao một cơn sốt lớn lao

Ðã mang lại chiến thắng từ Phi châu đến Ý Ðại Lợi

Từ Bayeux đến Berlin với biết bao hạnh phúc êm đềm

Anh mang trở lại vinh quang cho một nước Pháp bầm dập

Tuyệt quá nhỉ ngạc nhiên vòng gia đình quây quần sẽ thốt:

- Thì đó là một Chiến công hiển hách thế kỷ ghi danh!

Nào bây giờ hãy cho biết đoạn kết cậu chuyện đi

Lúc đó, hạ thấp đôi mắt, lần này nặng trĩu trong xấu hổ:

- Ở Việt Nam, chống lại lòng dân đang lên cao

Thêm phản Tự do, chúng tôi đã chiến đấu không vẻ vang

Một ngày anh trở về

Mắt đầy chân trời rộng

Hào hứng kể phiêu lưu

Nào thám hiểm du hành

Nào chiến cuộc đắt giá

Kể cơn sốt chiến thắng

Từ Phi đến Ý quốc

Bayeux đến Berlin

Vinh quang cho Pháp quốc

Một Pháp quốc bầm dập

Ngạc nhiên người nghe thốt:

- Chiến công tuyệt thế kỷ

Thế kết cuộc ra sao á?

Ngượng ngùng anh cúi mặt:

- Chiến đấu chống người Việt

Pháp chống lại Tự do,

Nào có vẻ vang chi.

(Sóng Việt phỏng dịch

Ngày 2 tháng 9 năm 2008)

Tổ chức Nam Thanh còn một hãnh diện khác là đã xuất bản được bản nhạc Nhớ Chiến Khu, một bản nhạc của Ðỗ Nhuận, rất thịnh hành vào lúc khởi đầu Nam Bộ Kháng Chiến. Một đồng chí họa sĩ tài hoa, ở xóm sau nhà thờ Bà Chiểu đã nhận vẽ bìa cho bản nhạc. Anh tên Hoa, từng được hội Việt Mỹ tổ chức trình bày tác phẩm, đã sáng tác bìa một màu, xanh lá cây, với hình một chiến sĩ, đầu đội ca lô, vai vác súng, đứng dưới một cột cờ. Lá cờ phất phới, nếu cố ý nhìn thật kỹ sẽ thấy ẩn hiện hình một sao năm cánh! Qua mặt cơ quan kiểm duyệt để xuất bản một bản nhạc có hình bìa như thế, phải cho là một kỳ công. Một anh bạn ở nhà xuất bản Hoàng Mai Lưu đã thực hiện việc in ấn bản nhạc này. Hoàng Mai Lưu là tên ghép ba họ của các sinh viên Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ và Lưu Hữu Phước. Triệu đã đến nhà anh bạn khi bản in vừa ráo mực, ở vùng chợ An Ðông - thời bấy giờ chỉ là một xóm nhà lá - để chở hết về đem chia giấu vì sợ Sở Kiểm duyệt đổi ý cho chỉ thị tịch thâu lại thì lỗ vốn!

Nhân dịp nghỉ hè năm học đầu tiên ở trường Chasseloup Laubat, Triệu được chỉ định vào khu để dự khóa huấn luyện Thanh niên. Ðây là một khóa tổ chức cho nhiều đoàn thể thanh niên, với ý định đồng nhất chủ trương tranh đấu và hướng dẫn cách thức hoạt động bí mật yểm trợ kháng chiến. Tổ chức Nam Thanh được đưa tham dự trên mười thanh niên. Toán nhỏ của Triệu gồm năm người được liên lạc viên chỉ cách đi vào khu bằng ngả Bình Chánh. Khi xe đò đến một khoảng có một chuồng ngựa ven đường thì xin xuống và từ đó, theo đường đê, đi vào xóm. Từ đường cái đi đến rặng cây trong xóm độ hơn năm trăm thước, là một khoảng đất ruộng trống trải, những người canh gác đón khách có thể có thì giờ quan sát, nhận diện người sẽ đến một cách dễ dàng.

Ðúng như dự đoán của Triệu, khi đến gần rặng cây, Triệu đã thấy thấp thoáng hình bóng rải rác của những người dùng ống nhòm quan sát tình hình từ đường cái đi vào trong xóm. Toán nhỏ của Triệu đã được nhanh chóng gom lại và đưa vào trong. Vì đã có bố trí người liên lạc nhận diện nên Triệu và các bạn được đưa đi ngay vào một nơi khá xa có tên là “Tổng Phát Hành”. Nơi đây, Triệu vui mừng gặp một người quen, đã có lần biết trước trong những buổi hội ở thành. Anh tên Trần Bạch Ðằng, một đoàn viên cấp chỉ huy của Thanh niên Cứu quốc, có cái miệng cười đặc biệt, méo một bên trông rất dễ thương. Bạch Ðằng vui cười chỉ vào một quán nhỏ khá đông khách: “Bạn nào muốn ăn hủ tiếu thì đây là cái quán cuối cùng. Vô trỏng nếu có thèm xin ráng chịu!”. Số người được đưa đến Tổng Phát hành cũng có đến hơn ba bốn chục người. Triệu gặp được một số anh em đã từng học ở Petrus Ký, được giới thiệu vào khu. Phần lớn các anh này đều tình nguyện dự lớp huấn luyện quân sự.

Tổng Phát Hành cũng là nơi các cán bộ đã xong các khóa học tập, nhận công tác trở lại thành. Vì vậy nơi đây cũng là nơi các toán vào khu và những người trở ra trao đổi vật dụng cần thiết cho đời sống ở bưng, đặc biệt là nóp, một loại túi ngủ rất giản tiện của người nông dân miền Nam. Lăn tròn nằm trong nóp, trên nền đất hay trên phản, vừa được ấm áp, vừa tránh được muỗi. Cả những khi gặp đám mưa nhỏ, lác đan nóp thấm nước sẽ nở ra, người nằm ngủ có thể tránh qua cơn mưa, khỏi sợ ướt át.

Bữa cơm trưa ngoài trời hôm đó chỉ có cơm và cá khô kho nhưng cũng khá vui mặc dầu anh em đã được chỉ thị phải cố giữ yên lặng, không được náo động xóm làng dân chúng. Trưởng cơ quan ở đây là một người Bắc đứng tuổi, tánh tình vui vẻ, nói năng chững chạc. Ông bị cụt tay trái; tay phải lúc nào cũng giữ chặt ba lô đeo trước ngực (có thể là nơi giữ tiền điều hành cơ quan tiếp đón?). Sau bữa ăn, toán của Triệu gồm hơn mười người đã bịn rịn chia tay với các toán đi học các khóa quân sự. Một nữ liên lạc viên phụ trách lớp huấn luyện chánh trị của Triệu, chia toán thành hai nhóm đi cách nhau không xa, dẫn lên đường, len lỏi qua lối mòn các xóm. Cùng đi với Triệu là một bạn cùng lớp, con một vị bác sĩ, đã cộng tác rất nhiệt thành với Triệu, chấp nhận các hiểm nguy. Anh tên Mới, quê ngoại vốn ở vùng Tân An nên anh đã nhận biết ngay các nơi chị liên lạc viên đang đưa đi. Triệu đã dặn nhỏ với anh là nên giữ bụng, để khi cần còn biết lối mà về.

Có một đoạn đường phải băng ngang một vùng trảng nước tuy không sâu nhưng khá rộng. Chị liên lạc viên cho biết trước là toán phải cố vượt cho nhanh vì nơi đây là khoảng trống, thường hay bị máy bay Pháp bắn phá nếu thấy có những đoàn người di chuyển. Mọi người đều xắn quần lên cao để cố đi nhanh nhưng vì trong vũng có rất nhiều đỉa nên chốc chốc phải dừng lại để tuột gỡ đỉa đang bám hút máu. Có một chị tên Mai, từ bé đến lớn, chưa bao giờ bị đỉa bám nên đã sợ hãi, khóc sướt mướt. Anh em đành phải thay phiên nhau cõng chị để vượt qua trảng.

Suốt buổi chiều, việc di chuyển được nhanh chóng nhưng đến tối thì phải đành đi chậm lại. Ðể khỏi lạc đường, hai nhóm nay được nhập lại làm một, nối đuôi nhau di chuyển dưới ánh trăng mờ ảo. Có một bận, đang đi trên đường mòn nhỏ gập ghềnh, một anh bạn thấy có khoảng trống lớn hơn, tưởng nhầm là đường rộng, co chân nhảy qua, lại lọt tòm vào một mương nước, anh em phải kéo lên, ướt cả quần áo!

Sau cùng, toán đi đến một trạm liên lạc nằm cạnh một bờ sông và đã tiếp tục cuộc hành trình bằng ghe nhỏ. Tránh được việc mệt mỏi vì đường sá gập ghềnh, anh em đã góp sức chèo chống nên thuyền lướt rất nhanh qua các sông rạch. Toán đã đến Trường Cán bộ vào lúc quá ba giờ khuya. Ðây là một căn nhà cây khá rộng, nhìn từ bên ngoài trông phảng phất như một nhà thờ Thiên Chúa. Triệu và các bạn được khuyên nên đem trải nóp vào trong, tìm khoảng trống để ngủ. Dưới ánh sáng mờ mờ của một ngọn đèn dầu nhỏ treo giữa nhà, Triệu tìm được một chỗ trống giữa các khóa sinh đã đến từ trước đang nằm la liệt. Vì mệt mỏi sau một ngày di chuyển, Triệu đi vào giấc ngủ lúc nào không hay biết.

Ðang yên giấc trong chiếc nóp ấm áp, bỗng Triệu cũng như các khóa sinh khác đều giật mình tỉnh dậy vì tiếng hát đồng ca vang dội, từ một phòng bên trong:

“Anh nghe chăng cung kèn rạng Ðông?

Ðang uy linh lừng vang trên không,

Ðang thiết tha hùng hồn

Phơi chí gan Lạc Hồng

Cháy lên nhuộm bao ánh hồng...

Anh nghe chăng cung kèn rạng đông?

.................................................”

Trong tiếng đồng ca, Triệu nhận được một giọng hát rất quen thuộc nhưng chưa đoán ra tên người hát. Khi Triệu ra khỏi nóp và ngồi lên thì cũng đúng lúc toán đồng ca vừa tươi cười, từ nhà sau lên phòng họp lớn. Triệu vui mừng nhận ra ngay anh Hồ Thái Bạch, người có tiếng hát quen thuộc Triệu đã gặp trong các buổi hội Liên đoàn Học sinh ở nhà anh Ðỗ Cao Minh. Triệu cũng nhận ra được Trương Công Cán, cựu học sinh ban Tú tài trường Petrus Ký đã ra Bắc học về Y. Hai anh thuộc ban cán bộ điều khiển Trường và sáng nào cũng phụ trách việc đánh thức khóa sinh bằng bản Cung kèn Rạng Ðông của nhạc sĩ Hùng Lân.

Các khóa sinh đã được chỉ thị phải tập hợp nhanh sau nửa giờ làm vệ sinh buổi sáng và dọn dẹp nóp ngủ để phòng họp có thể sử dụng cho việc học trong ngày.

Nơi huấn luyện có tên là Trường huấn luyện Cán bộ Thanh niên “Dương Văn Dương”. Dương Văn Dương là người “anh Cả” của tập hợp quân sự Bình Xuyên. Những trận tấn công quân Pháp và Anh-Ấn lúc khởi đầu kháng chiến ở Nam Bộ phần lớn do các bộ đội Bình Xuyên thực hiện dưới sự điều động của Dương Văn Dương. Anh đã tử thương vì bị phi cơ bắn ở Bến Tre. Con kinh lớn và dài nhất trong chiến khu Ðồng Tháp tên La Grange thời Pháp, nay được mang tên mới là kinh Dương Văn Dương.

Trường tuy nằm trong chiến khu nhưng việc bị phi cơ tấn công hay địch nhảy dù tập kích là chuyện có thể xảy ra nên buổi học tập đầu tiên được dành cho giải thích nội quy sinh hoạt nội bộ, tổ chức toán khi có báo động để di chuyển phân tán...

Triệu nay nhờ ban ngày nên đã đoán chắc là trường đã chọn một giáo đường Thiên Chúa giáo, được xây cất bằng cây, để làm cơ sở. Bục giảng đặt ở vị trí cao trong giáo đường là nơi đặt bảng đen và bàn các giáo viên. Phòng học lớn ban ngày và cũng là phòng ngủ ban đêm đúng là giáo đường ngày trước. Trường nằm giữa một xóm ven một con rạch nhỏ, ăn thông ra sông Vàm Cỏ Tây. Dân chúng trong xóm không nhiều. Một số lớn thấy có mang dây chuyền với dấu thánh giá ở cổ. Trong nhiều lần tiếp xúc với các giáo dân này, Triệu có cảm giác là họ không có nhiều thiện cảm với những người xa lạ đã đến chiếm nơi tôn thờ của họ!

Trong thời gian học tập, đã có đôi phen có kẻng báo động nổi lên, và lớp học đã phân tán để lẩn trốn ra xa, núp dưới tàn lá rậm rạp của các luống mì. Những lúc ấy thì không có học hành gì được, chỉ ngồi tán gẫu. Hồ Thái Bạch nhân dịp đó, đã nhiều lần than với Triệu là nay anh vướng làm cán bộ phụ trách trường, không biết ngày nào có thể trở lại lớp học để có được dịp chọn nghành Y. Bạch thường có dịp nghe Trương Công Cán thuật về những ngày Cán theo học Y ở Ðại học Hà Nội, nên Bạch lại càng thêm náo nức, hi vọng cuộc chiến mau chấm dứt.

Chiến tranh có vẻ như mỗi ngày mỗi thêm quyết liệt. Trường tuy chưa bị ném bom nhưng đã hai lần bị phi cơ bắn phá bằng đại liên khiến một cây cột lớn trong giáo đường bị tiện mất gần phân nửa nhưng vẫn còn đứng vững. Các buổi học bị ngưng trệ nhiều lần vì báo động có phi cơ địch. Trường vì thế đã lấy quyết định phải mở các lớp học chung về đêm và sáng sớm. Ban ngày sẽ dành cho các chươmg trình sinh hoạt toán để phân tán tránh bị tấn công.

Ngoài việc theo dõi các lớp học, Triệu còn có một chương trình khác: kế hoạch chuẩn bị gây không khí xáo trộn ở Sài Gòn, tổ chức bãi khóa song song với các việc bãi công, bãi thị... Việc này có thể sẽ giúp một số thanh niên có cơ hội chọn đi vào chiến khu theo kháng chiến.

Trong những lúc sinh hoạt, nhiều khóa sinh đã bắt đầu nhận thấy trong lớp học, có những khóa sinh có những hoạt động hơi khác thường với phần đông các bạn khác. Sau buổi cơm chiều, hoặc trước những buổi thảo luận, những anh này thường cùng ngồi hội họp riêng. Sau hỏi ra mới biết là các anh này thuộc loại đảng viên, nên thường nhận được các chỉ thị đặc biệt chỉ dành cho họ. Những khi có chương trình thi đua diễn thuyết chẳng hạn, các anh nầy thuộc loại chuyên môn nói dài, nói dai với một loại câu nói thường rất giống nhau. Một việc có thể tóm vào vài câu đã được họ tán dông, tán dài nghe mãi ai cũng chán nhưng cuối cùng, họ đều được ban giảng huấn chấm giải cao!

Vì theo kế hoạch đã định trước,việc tổ chức bãi khóa ở các trường ở Sài Gòn phải được thực hiện cùng lúc với các xáo trộn xã hội khác nên Triệu đã phải trở về thành trước khi khóa học chánh thức kết thúc. Thêm nữa, trong những ngày chót ở trường, Triệu lại bị bịnh sốt rét tái phát. Triệu đã vướng phải bịnh này từ ngày về sinh sống ở Biên Hòa. Gặp thời buổi chiến tranh, thuốc men hiếm nên khi nào sức khỏe yếu kém hoặc bị cảm lạnh là bịnh lại tái phát. Mỗi ngày vào giờ gần như nhất định là thấy mình mẩy ớn lạnh, xong lại bị cơn rét run cầm cập, đắp bao nhiêu mền cũng vẫn run. Hết cơn run lại đến sốt nóng và nhất là đầu đau như búa bổ! Sau đó còn phải qua một cơn mình đổ mồ hôi như tắm, trước khi thân thể có thể trở lại trạng thái bình thường.

Mặc dầu đang gặp lúc bịnh rét tái phát nhưng gặp lúc có chuyến liên lạc dẫn về thành nên Triệu phải cố gắng nhập vào toán với hi vọng là khi đi đường sẽ vào ngày không lên cơn sốt vì Triệu bị cơn rét cách nhật, ngày bị ngày không. Nhờ đoạn đầu di chuyển bằng ghe nên Triệu không cảm thấy mệt nhọc. Ðến trạm chót, bắt đầu phải lên bộ, người liên lạc cho biết phải chờ đến đêm tối mới dám cho thuyền băng qua sông. Trong khi chờ đợi, anh em trong đoàn hùn tiền nhờ anh trạm trưởng lo cho một buổi ăn. Vì ở vị trí ven sông, nơi có nhiều thực phẩm tươi nên anh đã ra công làm cho một bữa ăn với khóm nấu canh chua, cá sông kho tộ, khác hẳn với cái thực đơn cá khô kho với măng hằng ngày của trường cán bộ thanh niên. Mùi rau om thơm phức của nồi canh chua cộng với hương vị mặn mà của trách cá kho đã làm cơn sốt rét của Triệu tiêu tan lúc nào không biết, chẳng cần đến một viên thuốc trị bịnh! Từ ngày đó, Triệu tìm được chân lý: nếu giữ gìn sức khỏe cho đầy đủ, ẩm thực cho đúng cách thì phần lớn bịnh gì cũng lướt qua được.

Những ngày trở lại đô thành là những ngày vất vả huy động anh em xếp đặt kế hoạch cổ động hô hào bãi khóa, bãi thi. Ðể tăng thêm hiệu quả, tất cả các anh em đều đồng ý phải gây tiếng nổ ngày bãi khóa. Ðịa điểm được lựa chọn là các trường Trung học lớn: Petrus Ký, Nữ Học Ðường, Chasseloup Laubat, Marie Curie. Sắp đặt sao cho lựu đạn nổ cùng một lúc ở bốn địa điểm nhưng phải cố tránh gây ra tai nạn cho học sinh thật ra không phải là chuyện dễ thực hiện. Triệu đã chỉ dẫn cách thức gài lựu đạn nổ chậm, học được trong khoá: cột cần lựu đạn bằng dây tim đèn dễ bắt lửa, dùng loại nhang un muỗi làm hệ thống trì hoãn. Việc khó là phải đem được lựu đạn vào thành phố. Việc này Triệu phải nhận trách nhiệm thực hiện. Anh Mới, người đã từng tháp tùng với Triệu vào khu, lần này cũng xin tình nguyện cùng trở vào với Triệu.

Triệu nhận được giấy giới thiệu để vào khu gặp La Văn Liếm, nhân vật khét tiếng, phụ trách Công An thành. Cầm giấy giới thiệu mà Triệu phải ngẩn ngơ vì giấy giới thiệu chỉ là một mảnh giấy thường có kẻ hàng, xé trong một tập vở học trò với ba hàng chữ viết tay lem luốc, gởi gấm người quen. Triệu chờ đợi nhận được một công văn với ấn đóng hẳn hoi thay vì tấm giấy nhỏ, viết chữ lem nhem. Triệu chỉ lo ngại không biết vào khu có gặp được La Văn Liếm không, hay lại có thể bị bắt đi tù vì một cái giấy giới thiệu không giá trị. Mới và Triệu trở vào khu lần này thấy không có gì là khó khăn vì đã biết trước đường đi nước bước. Lần này thì quen thuộc hơn nên đến khỏi Bình Chánh là xuống xe, đi nhanh vào xóm, tháp tùng theo dân chúng địa phương. Vừa vào được khỏi các chòm cây không xa lắm, đã bị ngay các du kích chận lại hạch hỏi. Sau đó Mới và Triệu được người liên lạc đặc biệt dẫn đường đến gặp ông trùm Công an khét tiếng của vùng Ðô thành.

Ông La Văn Liếm nằm vắt vẻo trên võng treo trên một bộ ván thấp, tươi cười nhận tấm giấy giới thiệu của Triệu, trong khi bụng Triệu thắc mắc lo âu, không biết cái tấm giấy sơ sài với vài hàng chữ lem luốc ấy quả thật có giá trị gì không! Bỗng nhiên, một câu hỏi của ông Liếm đã khiến những lo âu của Triệu tan biến trong khoảng khắc: “Anh là Mã (bí danh của Triệu) phải không? Có người nhờ tôi đưa cho anh thơ này khi gặp anh. Anh xem và đoán được là của ai không?”

Triệu cầm lấy bức thơ cũng được viết trên một trang giấy xé trong một tập vở học trò, có những hàng chữ đều đặn nhưng rất nhỏ. Triệu nhận ra ngay là lối viết đặc biệt của Giáo sư Phạm Thiều. Triệu cho ông Liếm biết là đã nhận được thơ viết tay của giáo sư. Ông Liếm đùa: «Ðúng rồi, thơ của ông giáo sư gởi cho học trò ruột của ổng đó. Thầy anh và học trò của ổng chắc ai cũng thiếu ăn nên người nào trông cũng ốm nhom! Lần công tác này, anh đem vô thành võ khí dữ nên phải ở lại đêm, chờ sáng mai sớm, trà trộn theo dân chúng đi chợ Sài Gòn để tránh bị xét ở cầu Renault”.

Ðêm ấy, Triệu và anh bạn Mới được giới thiệu đến ngủ đêm trong nhà một nông dân. Chủ nhà có sẵn nóp và chỉ cho hai anh em Triệu lên nằm ngủ ở bộ ván giữa nhà nhưng hai đứa đều thối thoát, xin được ngủ ngoài sân vì cả hai phải khư khư giữ theo mình hai cái cặp sách học trò, mỗi cái chứa ba trái lựu đạn vừa mới được ông Liếm phân phát lúc ban chiều. Chuyến công tác này là công tác ngắn không có gì là mệt nhọc nhưng nguy hiểm. Cả hai đứa đều lo âu, suốt đêm không ngủ được: nếu không may bị xét bắt có mang lựu đạn vô thành thì kể như đời tàn! Cả hai đã thỏa thuận: nếu thấy bị chận xét, phải liều chạy thoát thân, rủi bị bắn thì phải đành cam chịu vậy!

Ðến nút chặn ở cầu Renault, vì có nhiều xe hàng nối đuôi vào Sài Gòn, Chợ Lớn buổi sáng và cũng nhờ anh lơ xe đã “bắt tay” với lính xét nên anh em Triệu qua trót lọt. Tuy vậy Triệu cũng “bắt tay” cho tiền anh lơ để xin cho xuống trước khi xe về đến bến vì nơi đây thường có đầy dẫy các tay mật thám. Hình như cả tài xế và lơ đã biết trước trên xe có bộ hành “mặt lạ” trên tuyến đường của họ nên khi anh lơ ra hiệu xin ngừng là tài xế thắng ngay xe lại và còn thúc hối “Xuống lẹ đi!”.

Chất nổ đã đem được vào thành phố rồi, việc phối trí thực hiện công tác kể ra không có gì là khó khăn vì đã được bàn thảo nhiều lần từ trước. Ngày được chọn là nhằm buổi khởi đầu cuộc thi Tú Tài phần Nhứt. Các trường được chọn là các trường công lập Petrus Ký, Chasseloup Laubat, Nữ Học Ðường và Marie Curie.

Căn cứ xuất phát được chọn là một biệt thự nhỏ ở gần góc đường Pière Flandin và Testard. Ba Má của anh Ðoan, chủ nhân ngôi biệt thự đã cho con trai là anh Ðoan được sống riêng biệt ở dãy nhà sau để tiện việc học hành. Vì thế nên nơi đây là chỗ lý tưởng để Triệu và các bạn liên lạc, hội họp nhưng không bao giờ dùng nơi đây để lưu giữ tài liệu hay làm cơ sở in ấn. Ngôi biệt thự quá đẹp, cha mẹ Ðoan quá tử tế, dễ thương, nên anh em cũng sợ có việc gì bại lộ sẽ làm hại đến gia đình bạn. Ðịa điểm xuất phát nằm ở vị trí gần các trường Marie Curie, Nữ Học Ðường và Chasseloup Laubat nên từ đây có thể theo dõi diễn tiến dễ dàng. Chỉ có Trung học Petrus Ký là ở xa hơn mà thôi. Duy Thảo là học sinh Nữ Học Ðường từ lâu nên nhận lãnh đặt lựu đạn ở đây. Riêng trường Marie Curie thì anh Cần, con trai giáo sư Phạm Thiều tình nguyện phụ trách. Petrus và Chasseloup Laubat được hai bạn khác lãnh trách nhiệm đặt chất nổ. Triệu và Mới ngồi trông chờ kết quả sau khi các anh em đã xuất phát. Cuối cùng chỉ có Chasseloup Laubat và Petrus Ký là hai nơi lựu đạn gài đã gây tiếng nổ lớn, náo động các lớp thi. Ở Nữ Học Ðường và Marie Curie thì không nghe thấy được kết quả nào.

Tối hôm đó, không ngờ Cần lại táo bạo leo tường trở lại vào bên trong trường Marie Curie để đem về cho Triệu xem quả lựu đạn anh đã đặt. Bộ phận trì hoãn đã hoạt động, cần bật được tháo đã đập vào kíp nổ nhưng lựu đạn đã “thúi” tịt ngòi! Cần tức mình nên đã rủa không ngớt miệng, kêu tên ông Liếm, cho rằng ông ta đã thấu cáy học sinh, phân phát cho những quả lựu đạn tịt ngòi! Anh còn có ý định hỏi Duy Thảo vị trí đặt trái lựu đạn không nổ ở Nữ Học Ðường để biết lý do vì sao lựu đạn không nổ! Anh em phải xúm nhau lại kiểm thảo việc làm thật sự rất can đảm của Cần nhưng lại rất trái nguyên tắc bảo mật, có thể làm nguy hại để tổ chức bị phát giác nếu anh bị địch bắt (Sau năm 1975, Cần được biết là Ðại tá Pháo binh trong Quân đội miền Bắc).

Các truyền đơn, báo chí bí mật phân phát ở các trường kêu gọi học sinh bãi thi, bãi khóa để phối hợp với các phong trào đình công bãi thị ở ngoài dân chúng thật sự đã có gây được tiếng vang lớn trong hàng ngũ thanh niên. Trong một buổi hội kêu gọi các học sinh muốn vào khu tham gia kháng chiến được tổ chức ở nhà một đoàn viên tên là Thu Ðen ở đường Hàng Thị, Gia Ðịnh, Triệu còn nhớ đã có mặt vài thanh niên mà sau này sẽ là những bác sĩ giải phẫu tài danh như Phạm Hà Thanh, Phan Ngọc Anh...