Chương 25 Hoàn Cố hương
Hơn sáu năm trước, lần đầu tiên đặt chân trên đất Pháp, Triệu đã được Mới đến đón. Lần trở về xứ lần này cũng được Mới ra sân bay đưa tiễn. Lần này cả hai đều trong tâm trạng phân vân, không biết đây có phải là lần gặp nhau cuối cùng hay không? Tương lai tiên liệu sẽ có nhiều bất trắc, khó lường.
Nếu chuyến đi ngày trước bằng phi cơ Constellation có cánh quạt phải mất gần hai ngày đường thì nay chuyến trở về xứ chỉ còn độ trong hơn một ngày với phi cơ phản lực. Máy bay chỉ ngừng lại một vài nơi để tiếp tế nhiên liệu hay để nhận khách. Triệu tiếc cái thời đã có dịp nhìn Karachi trong chiều tà hoặc ăn sáng ở phi trường Bagdad với những chùm ngo to và ngọt lịm.
Về xứ lần này, bao nhiêu sách vở, vật dụng, Triệu đều gởi về bằng đường biển. Triệu chỉ đem theo trên phi cơ chiếc đàn guitare Ramirez và một máy thâu thanh Zénith Transocéanic được coi là loại máy thật tốt thời bấy giờ để bắt được các đài phát thanh trên thế giới.
Khi vào không phận Sài Gòn phi cơ đã bay một vòng trước khi đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhứt. Triệu đã nhận lại được hình ảnh quen thuộc của vài kiến trúc như nhà thờ Ðức Bà, Chợ Bến Thành, Thương cảng Khánh Hội... nhưng lại thấy Sài Gòn bây giờ như nở rộng ra với bao nhiêu nhà cửa ở vùng ngoại ô. Khi rời phi trường, đi ra phố Triệu mới thấy choáng váng vì cảnh tấp nập của thành phố nay quá đông người. Sáu năm về trước, Sài Gòn, Chợ Lớn chỉ có số dân cư vào khoảng 200.000 người. Vì tình hình an ninh thời chiến, dân số đã tăng dần. Nay sau khi có hiệp định Genève, với số dân cư mới di cư từ miền Bắc vào, Sài Gòn dưới mắt Triệu nay quả là một thành phố nghẹt thở!
Thời gian khi Triệu trở về xứ là những tháng trước Tết Âm lịch. Bao nhiêu năm xa xứ nay Triệu mới có dịp chứng kiến lại cảnh náo nức, nhộn nhịp của những ngày giáp Tết. Sống ở Âu châu, vào dịp lễ Giáng sinh hay Tết Dương lịch, dân chúng cũng náo nức mong hưởng những ngày lễ nghỉ việc nhưng Triệu không thấy cái khung cảnh rầm rộ, lo âu chuẩn bị đón lễ như ở Việt Nam. Phải chăng đây là do truyền thống nhiều thế hệ của các xã hội nông nghiệp Á đông? Triệu đã từng có được dịp sống ở đồng quê nên đã chứng kiến thấy việc cực nhọc quanh năm suốt tháng của những người nông dân. Người nhà nông lúc nào cũng canh cánh lo lắng thời tiết nắng mưa thay đổi, nước lớn, nước ròng và chỉ được chút an tâm khi mùa màng gặt xong, nợ nần thanh toán. Ở vùng quê miền Nam, vào độ tháng Mười, khi lúa đã chín ngoài đồng, một ít hột rơi rớt trôi trên mặt sông khiến cá nhảy đớp mồi liên tục. Chim chóc nay no đủ nên líu lo hơn những lúc phải tìm tước ăn các hột cỏ hoang. Cảnh vật thay đổi an bình và vui tươi khiến nhà nông mới có dịp chuẩn bị cho những ngày lễ Tết. Trong cái khung cảnh cả nước chuẩn bị cho những ngày lễ sắp đến, trong bối cảnh tương đối thanh bình của những năm sau hiệp định Genève chấm dứt chiến tranh, Triệu thấy lòng lâng lâng hòa nhịp với sự náo nức của dân chúng.
Chợ hoa kiểng đường Nguyễn Huệ chỉ nhóm họp mỗi năm một lần vào dịp Tết nhưng là biểu hiệu vui tươi của những ngày Tết sắp đến. Ðặc biệt về đêm, khí trời mát mẻ khiến dân chúng đổ xô về đâyỳ, dạo ngắm bông hoa đủ màu đủ kiểu của các nhà vườn đã tưng tiu vun bón trong năm, chuẩn bị cho ngày hội lớn.
Từ ngày được học chữ Hán với ông nội ở Sa Ðéc, Triệu thích nhất khi biết được bài “Quy khứ lai từ” của Ðào Tiềm. Sau đó đọc thêm được các bài của Ðào Tiềm nên biết Ðào Uyên Minh là người rất thích hoa cúc nên Triệu từ đó cũng thấy lây thương hoa cúc nhất là cúc vàng vào dịp Tết. Bây giờ trở về xứ nhằm lúc giáp Tết nên Triệu say mê nhìn được như một rừng cúc vàng ở chợ Tết Nguyễn Huệ. Triệu đã chọn cúc để chưng ở nhà từ trên bàn thờ đến tận ngoài sân.
Ba ngày sau khi trở về xứ, đúng theo kỷ luật quân đội, Triệu đã áo mũ chỉnh tề, đến bộ Tư Lịnh Hải Quân ở bến Bạch Ðằng để trình diện. Thật là một sự bất ngờ khi Triệu được Thiếu tá Hải Quân Nguyễn Văn Ánh, Tham mưu trưởng đưa vào diện kiến vị Tư Lịnh Hải Quân. Thiếu tá Ánh cho biết Tư Lịnh đã biết tin Triệu về xứ và muốn gặp khi Triệu đến trình diện. Ðại tá Tư Lịnh Lê Quang Mỹ, bạn thân ngày trước của anh bác sĩ Nguyễn Văn Ðăng cũng đã từng biết Triệu khi ông từng đến ngồi tự học ở Thư viện Quốc gia đường Gia Long. Sau phút trình diện Tư Lịnh theo lễ nghi quân cách, ông Lê Quang Mỹ đã bảo Thiếu tá Tham Mưu trưởng trở về bàn giấy. Còn lại chỉ hai người, Ðại tá Mỹ đã thân mật đến ôm Triệu vào lòng và bảo: “Tôi và anh lúc nào cũng là bạn, tôi mừng vô hạn khi biết anh trở về sau khi tốt nghiệp. Là người được huấn luyện chuyên nghiệp trong nghành Hải Quân, tôi tin chắc các anh sẽ giúp tôi gầy dựng một Hải Quân Việt Nam đúng theo tiêu chuẩn”.
Ðại tá Mỹ cho biết hiện tại, ở Sài Gòn, chỉ có một Y sĩ là Thiếu tá Phạm Tấn Tước do Nha Quân Y biệt phái để lo cho cả Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến. Một y sĩ khác, Y sĩ Ðại úy Quýnh được chỉ định phụ trách Trung tâm Huấn Luyện Hải Quân ở Nha Trang. Thay vì được hưởng những ngày phép của quân nhân tốt nghiệp hồi hương, Ðại tá Mỹ khuyên Triệu nên bắt tay vào việc ngay. Thế là chỉ trong một ngày, Triệu đã được cấp một cư xá ở đường Chu Mạnh Trinh. Bàn ghế giường nệm đã được Trung tâm Tiếp liệu Hải Quân đem đến trang bị.
Thiếu tá Tước đã yêu cầu Triệu lo ngay việc dự thảo về tổ chức và điều hành phần Quân Y Hải Quân mà ông chưa có được thời giờ và tài liệu tham khảo. Triệu cảm thấy vô cùng lo ngại trước một việc quá hệ trọng được giao phó. May thay, Triệu đã tìm ngay được trong sách vở, tài liệu do Hải Quân Pháp còn để lại ở Bộ Tư lịnh khi họ bàn giao Căn cứ Francis Garnier, nay là Trại Bạch Ðằng cho Hải Quân Việt Nam. Nắm được toàn bộ Công báo của Hải Quân: B.O.M. (Bulletin Officiel de la Marine), sau một tháng trời làm việc liên tục, tìm cách ứng dụng tài liệu Hải Quân Pháp vào tình cảnh Việt Nam, Triệu đã hoàn thành phần nào các đề nghị về Tổ chức, Ðiều hành nghành Quân Y Hải Quân. Sau khi trình duyệt ở Bộ Tư lịnh Hải Quân, đề nghị Tổ chức của Triệu đã được Nha Quân Y Quân Ðội Việt Nam thông qua nhanh chóng vì thật ra ở Nha lúc bấy giờ cũng ít có người am hiểu Hải Quân tổ chức ra sao!
Bước chân vào nghề, quả thật Triệu thấy đam mê với công việc hằng ngày. Vì Quân Y là một nghành chuyên môn trong quân đội vừa mới thành hình ở miền Nam nên phần đông các y sĩ là các bác sĩ được trưng tập vì nhu cầu chiến tranh. Các y sĩ phần lớn đều đang có phòng mạch, cơ sở riêng nên chỉ đến các đơn vị làm việc sau giờ hành nghề tư. Triệu thì mỗi sáng đều đến Bịnh xá Bạch Ðằng từ 7 giờ rưởi sáng để giúp phòng Thử nghiệm trong việc lấy mẫu và thử nghiệm. Các anh em y tá rất thích thú vì Triệu làm giúp họ và huấn luyện cho các anh em về các phương pháp thử nghiệm mà trường Quân Y Hải Quân Pháp đã truyền cho Triệu. Sau đó là việc khám bịnh cho quân nhân và gia đình quân nhân trọn suốt buổi sáng. Vào buổi chiều, Triệu cũng phải bận rộn suốt buổi để lo việc khám sức khỏe định kỳ cho quân nhân và nhân viên Hải Quân Công Xưởng, một việc mà trước kia chưa bao giờ được thi hành vì không có y sĩ phụ trách. Các cuộc khám tổng quát với thử nghiệm y khoa và chụp hình phổi đã giúp tìm ra được nhiều bịnh nhân bị bịnh tiểu đường hay phổi nhuốm bịnh lao để lưu ý chữa trị cho họ.
Nhưng có một việc Triệu thích thú nhất là huấn luyện nhân viên y tá. Trước kia, việc này được tổ chức ở Trung tâm Huấn luyện Hải Quân ở Nha Trang. Việc giảng dạy theo chương trình của Hải quân Pháp rất đầy đủ nhưng đã được các y sĩ Pháp phụ trách bằng ngoại ngữ nên việc lãnh hội có phần thiếu kém. Triệu nay dạy lại các anh em bằng tiếng Việt nên mỗi buổi dạy đều được các nhân viên y tá đã tốt nghiệp xin đến thụ huấn thêm. Triệu đồng ý và khuyến khích các anh em y tá đặt thêm câu hỏi nếu họ có những thắc mắc. Các buổi học vì vậy rất sôi nổi và hào hứng khiến Triệu quên cả các mệt nhọc. Chưa bao giờ Triệu có được những giây phút mãn nguyện tuyệt vời khi thấy mình đã truyền đạt được các điều học hỏi cho đàn em sau những giờ huấn luyện như thuở ấy. Triệu hãnh diện đã được dịp đem các điều thâu thập giúp được vào việc mở mang kiến thức chuyên môn của những đồng nghiệp trẻ hiếu học.
Hải quân Việt Nam vào thuở sơ khai chỉ có quân số độ năm ngàn người cộng thêm độ hai ngàn Thủy quân Lục chiến. Vào phòng ăn của Câu lạc bộ Sĩ quan, mỗi ngày chỉ có bốn sĩ quan trực ở Bộ Tư lịnh: một thuộc phòng hành quân, một thuộc phòng Truyền tin, một Thủy quân Lục chiến và một Y sĩ!
Công tác trực của bác sĩ một bịnh xá nhỏ bốn mươi giường không có gì là mệt nhọc. Phòng bác sĩ trực được thiết trí ở từng lầu thứ ba của bịnh xá với đầy đủ tiện nghi do các bác sĩ Pháp để lại. Từ cửa sổ phòng trực có thể nhìn xuống đường, từ bến Bạch Ðằng trước Bộ Tư lịnh cho đến bến đò Thủ Thiêm. Mỗi buổi chiều, nhất là vào cuối tuần, bến tấp nập dân chúng đổ xô về bờ sông để dạo mát, vui hưởng không khí mát mẻ trên bến. Công trường ở cuối đường Hai bà Trưng lúc đó mang tên là công trường Mê Linh. Về sau này Bộ Tư Lịnh Hải Quân cho đặt tượng Thánh tổ Trần Hưng Ðạo nên công trường được đổi tên thành Công trường Trần Hưng Ðạo. Cạnh phía trong công trường, đối diện với bến sông là một dancing nhỏ, xinh xắn, có tên Mỹ Phụng. Bao nhiêu chàng trai thủy thủ đầy mộng hải hồ đã ghé qua quán Mỹ Phụng sau những ngày lăn lộn vượt sóng để trút chút tâm sự với các cô vũ nữ trẻ trung.
Trên các cầu tàu trước bộ Tư lịnh Hải Quân thường có các chiến hạm neo bến sau khi đi công tác trở về. Sau những ngày vật lộn ê chề với biển cả, đây là những lúc thoải mái của anh em thủy thủ. Theo truyền thống của phần đông các Hải quân trên thế giới, các nhân viên phục vụ trên các chiến hạm thường được hưởng một khoản phụ trội ẩm thực để họ lấy lại sức mỗi khi chiến hạm trở về bờ. Triệu vốn có cái thú hay đến thăm các chiến hạm của Hải quân nhà, tuy là những chiến hạm nhỏ, nhưng thủy thủ đoàn sống rất thân mật, đậm đà tình người. Mỗi trưa thứ Sáu, Triệu thường đến ăn trưa với các sĩ quan trên chiến hạm quen thuộc. Triệu thích cái không khí trang nghiêm của phòng ăn sĩ quan Hải quân. Dẫu công tác trong ngày có nhiều cực nhọc đi nữa nhưng đến giờ ăn các sĩ quan phải thay quân phục chỉnh tề trước khi bước vào “carré”. Nhiều vị hạm trưởng sành đời thường hay chọn được đầu bếp giỏi để phục vụ chiến hạm. Mỗi buổi ăn thứ Sáu cuối tuần vì vậy có khi phải được coi như một tiệc nhỏ.
Rất tiếc là không bao lâu, về sau, Tổng thống Ngô Ðình Diệm đã nghe theo lời cố vấn của những quân sư không am tường về truyền thống đặc biệt của các quân chủng nên đã cắt bỏ phần phụ cấp cho các đơn vị đi biển.
Nhiều nét sinh hoạt đặc biệt của Hải quân cũng đã bị bãi bỏ về sau. Từ hồi còn Hải quân Pháp, dân chúng mỗi sáng, từ vùng Thủ Thiêm đến Khánh Hội cũng như các quận lân cận, đều trông chờ phát súng đại bác chào cờ lúc 8 giờ trước bộ Tư Lịnh Hải Quân. Riêng Triệu cũng có thói quen, nhất là vào sáng thứ Hai, đón chờ buổi chào cờ đầu tuần. Toán chào cờ với quân phục trắng, sĩ quan với quân phục đại lễ, gươm tuốt trần sáng loáng, sẵn sàng chờ cờ hiệu báo 8 giờ từ nóc cao của trung tâm Truyền Tin Hải Quân. Các chiến hạm neo bờ cũng đều trong tư thế sẵn sàng thượng kỳ. Khi cờ hiệu từ trung tâm Truyền Tin được hạ xuống, pháo thủ trước kỳ đài nổ phát súng báo hiệu 8 giờ và đại kỳ trước bộ Tư Lịnh cũng như quốc kỳ của các chiến hạm đồng lúc được từ từ kéo cao lên. Tiếng pháo lịnh về sau không còn được bắn vào sáng thứ Hai theo lịnh của Tổng Thống Diệm(?) vì muốn tiết kiệm đạn dược!
Triệu cũng gặp việc bực mình trong việc huấn luyện nhân viên y tá. Hải Quân có chương trình huấn luyện ba bực: sơ cấp, trung và cao cấp theo các tài liệu huấn luyện rất tỉ mỉ được phổ cập từ nhiều thập niên. Quân Y Việt Nam có chương trình hai cấp CC 1 và CC 2 cho Lục Quân. Nha Quân Y bắt buộc y tá Hải Quân phải có các chứng chỉ CC 1 và CC 2 mới lãnh lương y tá! Vì không am tường các sinh hoạt đặc biệt của từng quân chủng nên Nha Quân Y không biết các khía cạnh huấn luyện riêng của y tá Hải Quân. Trong khi cáng chuyên chở thương binh của Lục Quân là loại cáng vải luôn luôn được khiêng song song với mặt đất thì các cáng của Hải Quân là loại cáng thúng bằng kim khí: thương binh được đặt nằm trong thúng và cột chặt để có thể di chuyển lên xuống các thang đặt dựng đứng trong chiến hạm. Thương tích do các loại đẻng, rắn biển, các bịnh ngoài da do sứa lửa... là những việc y tá bộ binh ít khi gặp. Thể thức sống còn khi đào thoát trên biển cả là việc y tá Hải quân phải am hiểu để huấn luyện đồng đội. Tất cả các việc trên đã không được Nha Quân Y chú ý nên cuối cùng y tá Hải Quân đã phải theo thi lấy các chứng chỉ CC 1, CC 2 để lấy bằng chuyên nghiệp. Triệu và các bạn phải soạn thêm một chương trình bổ túc y tá Hải Quân để họ có những kiến thức đặc biệt về y khoa của quân chủng.
Những chán nản đầu tiên về việc hành nghề đã bắt đầu len lỏi vào tâm hồn Triệu.
Khi Triệu trở về xứ, từ lương Trung úy Y sĩ được 120 ngàn quan Pháp, Triệu chỉ được lãnh 4000 ngàn đồng Việt Nam, tương đương không bằng được 1 phần 10 lương cũ! Thêm một bất công khác là các y sĩ ngạch hiện dịch như Triệu không được lãnh 2000 đồng phụ cấp chuyên môn so với các y sĩ bị động viên trong ngạch trừ bị. Triệu đã vận động anh em y sĩ thành lập hội Ái hữu Quân Y. Sau đó Triệu và các anh em y sĩ hiện dịch đã làm đơn từng cá nhân để xin cho các y sĩ hiện dịch được lãnh phần phụ trội chuyên môn. Việc này khiến Triệu được mời lên Nha An ninh Quân đội. Triệu đã có được cái hân hạnh trực diện với vị sĩ quan trưởng nghành là ông Ðỗ Mậu. Lúc đó ông Ðỗ Mậu còn mang cấp bậc thiếu tá. Ông tiếp Triệu rất thân mật và cho biết ông từng làm tùy viên quân sự ở Paris và rất phục các anh em y sĩ đã tình nguyện từ Pháp trở về Việt Nam phục vụ. Việc các anh em làm đơn cá nhân không có gì là trái với luật lệ quân đội nhưng ông có bổn phận phải biết rõ ai là người khởi xướng. Triệu đã thú nhận chính Triệu là người đã muốn san bằng cái bất công giữa hiện dịch và trừ bị. Thiếu tá Ðỗ Mậu đã đứng lên bắt tay Triệu và nói: “Tôi đã biết được điều tôi có trách nhiệm phải biết. Bác sĩ cứ trở về đơn vị làm việc, coi như không có chuyện gì xảy ra. Việc có lãnh được phụ trội hay không sẽ do bộ Quốc Phòng quyết định”.
Ðó là lần đầu tiên Triệu được gặp ông Ðỗ Mậu, một nhân vật liên quan đến nhiều biến cố lịch sử miền Nam về sau này. Ðơn viết của Triệu đã có kết quả tốt và lương bổng của các y sĩ trừ bị hay hiện dịch đã được điều chỉnh như nhau.
Trong dịp Tết năm đầu tiên trở về xứ, Triệu nô nức đón nghe lời chúc đầu năm của Tổng Thống Diệm. Ông Ngô Ðình Diệm đã kết thúc bài chúc Tết với câu: “Xin Ơn Trên phù hộ chúng ta”.
Lời chúc có tánh cách tôn giáo riêng tư của một Tổng Thống phụ trách một quốc gia với đa phần là những người theo tín ngưỡng thờ phụng Ông Bà, Tổ tiên hoặc Phật giáo hay các đạo khác đã làm Triệu bàng hoàng, thất vọng. Triệu băn khoăn tự hỏi: “Mình đã chọn trở về xứ nhưng có phải đã chọn nhầm chế độ chăng?”
Triệu bắt đầu để thì giờ tìm hiểu thêm về sự việc kể từ ngày ông Ngô Ðình Diệm trở về xứ chấp chánh. Triệu đã lần lần tiếp xúc được với các anh em trong tổ chức Nam Thanh. Một số lớn đã có nghề nghiệp vững chắc trong các xí nghiệp hoặc công ty thương mại ở các đô thị. Một số không ít các anh em thân thích khác, sau khi gặp các khó khăn, không còn thấy hứng khởi làm việc với phía Cộng sản Ðệ Tam nhưng vì không thích gia nhập quân đội vào thời đó còn do người Pháp chỉ huy nên đã chọn gia nhập quân đội các giáo phái. Triệu đã gặp lại và học hỏi được nhiều tin tức do các anh em nay đã gia nhập các đơn vị Cao Ðài. Ðặc biệt, Triệu đã vui mừng gặp một bạn tên Văn Lang, nay mang cấp bậc Thiếu tá. Anh vẫn là người lúc nào cũng trung thành với lý tưởng phục vụ đất nước của mình!
Tổng Thống Diệm đã có một lần thăm viếng Phi Luật Tân với tư cách quốc khách nguyên thủ quốc gia. Hải Quân đã đem chiến hạm thả neo ở vịnh Manila và Tổng Thống Diệm đã trú ngụ trên soái hạm Việt Nam thay vì chọn dinh quốc khách của Phi. Nhân viên Hải Quân thường hay bàn luận về những gì họ biết trong những ngày Tổng Thống Diệm sống với các anh em. Phần đông đều tỏ vẻ khâm phục nếp sống giản dị của ông. Bữa ăn sáng của ông ngày ngày chỉ là cháo trắng với một dĩa dưa món Huế.
Nhờ tiếp xúc được với các bạn cũ từ thời kháng chiến đã có được dịp chứng kiến những đổi thay trong thời gian Triệu xa đất nước cũng như các tìm tòi riêng, Triệu đã biết được những gì đã khiến một số đông các nhân sĩ miền Nam đã phải thất vọng về chánh phủ Ngô Ðình Diệm.
Trở lại thời kỳ tiên khởi, khi ông Ngô Ðình Diệm được vua Bảo Ðại cử về nước nắm vai trò Thủ tướng, ông đã gặp các bất ổn do Pháp xúi bẩy cho tướng Nguyễn Văn Hinh và nhóm Bình Xuyên gây nên. Bảo Ðại đã có văn thư triệu hồi ông Diệm qua Pháp để nhận chỉ thị mới hoặc có thể để thay thế ông Diệm. Trước tình thế ấy, ngày 29 tháng 4, 1955 các ông Nguyễn Bảo Toàn (Việt Nam Dân xã Ðảng), Hồ Hán Sơn (Việt Nam Phục quốc Hội), Nhị Lang (Mặt trận Quốc gia Kháng chiến) đã mời hơn hai trăm đại biểu các nhân sĩ chánh khách và đại diện 18 đoàn thể đến họp và thành lập Hội đồng Nhân dân Cách mạng Quốc gia. Hội đồng đã ra tuyên ngôn đòi truất phế Bảo Ðại và yêu cầu Ngô Ðình Diệm thành lập chánh phủ mới để dẹp loạn Bình Xuyên, đòi Pháp rút hết quân về nước và tổ chức bầu cử Quốc Hội. Ngô Ðình Diệm nhờ thế đã có cơ hội không tuân thủ lịnh triệu hồi của Bảo Ðại và đã giữ được chân Thủ Tướng. Sau đó ông Diệm đã tổ chức cuộc trưng cầu dân ý để truất phế Bảo Ðại. Ngô Ðình Nhu, nhận thấy vai trò quan trọng của tổ chức nhân sĩ miền Nam, đã lo ngại là nếu họ giúp giữ lại được ông Diệm thì họ cũng có thể có khả năng kéo ông xuống. Ngô Ðình Nhu vì thế đã tìm cách cho người xâm nhập để chia rẽ, lũng đoạn tổ chức Hội đồng Nhân dân Cách mạng Quốc gia. Cuối cùng, ngày 15-1-1956 Hội đồng này đã bị giải tán. Tệ hại hơn nữa, sau khi nắm được quyền lực, Ngô Ðình Nhu đã âm mưu ám hại lần lần những người đã có công thuở ban đầu, giúp ông Diệm nắm được chánh quyền. Nhiều nhân vật mà Triệu đã có thời quen biết và mến phục thời kháng chiến đã là nạn nhân của các tính toán của Ngô Ðình Nhu. Ðiển hình nhất là trường hợp Nguyễn Bảo Toàn, người đã có thành tích bôn ba hoạt động cách mạng ở biên giới Trung Hoa. Ðức Thầy Huỳnh Phú Sổ đã cử ông làm Tổng Thư ký đầu tiên của đảng Dân Xã mặc dầu ông không phải là tín đồ Hòa Hảo. Ngô Ðình Nhu đã cho thủ hạ lén lút bắt và cột vào trụ xi măng, quẳng xuống sông Nhà Bè để mất tung tích! Vũ Tam Anh, Chỉ huy trưởng Ðệ nhị Sư đoàn Dân quân Cách mạng, một nhân vật mà Triệu được biết, người rất hăng hái trong thời khởi đầu kháng chiến, đã tham gia tổ chức đại hội Mặt trận Quốc gia Liên hiệp Việt Nam (1) ngày 20-4-1946 ở Bà Quẹo trong đó có giáo sư Phạm Thiều trưởng phòng chánh trị khu 7, Phan Ðịnh Công đại diện tướng Nguyễn Bình, Mai Thọ Trân đại diện cho Hà Huy Giáp, Kỳ bộ Việt Minh... cũng đã bị mật vụ của Ngô Ðình Nhu thủ tiêu mặc dù khi Ngô Ðình Diệm bị các khó khăn lúc mới về nước chính Vũ Tam Anh và Nguyễn Bảo Toàn đã giúp ông Diệm giữ vững vị trí. Những nhân vật đặc biệt khác ngoài Vũ Tam Anh như Hồ Hán Sơn hoặc Phạm Xuân Giá, Hoàng Văn Thụ... của Phật giáo Hòa Hảo cũng đã bị ám hại do các chỉ thị của Ngô Ðình Nhu. Những nhân vật danh tiếng miền Trung như Tạ Chương Phùng, thường được gọi Cụ Cử Tạ là người đã có công vận động để ông Ngô Ðình Diệm về chấp chánh và đã có mặt cạnh ông Diệm khi ông trở về Việt Nam cũng đã bị Ngô Ðình Nhu bỏ tù sau này. Cháu cụ cử Tạ là giáo sư Tạ Chí Diệp, một người hăng hái hoạt động trong Phong trào Ðại Ðoàn kết và Hòa Bình của Ngô Ðình Nhu cũng đã bị Nhu cho đi tù năm năm ở trại Tam Hiệp và đã bị mờ ám sát hại. Khi Cao Xuân Vỹ vặn hỏi vì sao lại giết Tạ Chí Diệp, Nhu đã cho là việc này là một “accident” (lỡ tay)!
Trường hợp Tướng Ba Cụt, Hòa Hảo bị bắt và xử tử là giọt nước cuối cùng đã làm tràn ly nước mất tín nhiệm của Triệu đối với Ngô Ðình Diệm và Ngô Ðình Nhu. Ba Cụt hay Lê Quang Vinh là người Triệu khâm phục từ thuở đầu kháng chiến. Tuy xuất thân là một nông dân nhưng với tấm lòng yêu nước, can đảm và mưu lược, Ba Cụt đã được Ðức Thầy Huỳnh Phú Sổ tín nhiệm đưa lên cấp bậc chỉ huy. Ba Cụt là một viên chỉ huy quân sự đã có quá trình duy nhất là đã đánh Pháp, đánh Việt Minh và đánh cả với quân đội Quốc gia! Ngô Ðình Diệm đã phải triệu hồi Ðại sứ Nguyễn Ngọc Thơ về để chiêu dụ Ba Cụt ra hàng, qua trung gian ông Cậu của Ba Cụt là người đã từng dạy dỗ Cụt trước kia. Biết được vùng đang hoạt động của Ba Cụt, Ngô Ðình Nhu đã giăng bắt Ba Cụt. Thủ tục xử án Ba Cụt với hai bản án tử hình cũng có những điều quái lạ. Từ ngày khởi tố đến ngày hành quyết việc xử án được tiến hành chỉ vỏn vẹn trong vòng 26 ngày! Ðây là một kỷ lục trong lịch sử xử án của Tòa án Việt Nam. Lê Quang Vinh là một Trung Tá chánh thức trong quân đội Quốc gia, ngày phong chức đã được ghi trên Công Báo. Lê Quang Vinh đã yêu cầu được xử bắn vì là một sĩ quan nhưng ông Diệm đã đưa lên máy chém để hù dọa tín đồ Hòa Hảo. Thân xác Ba Cụt đã được phân tán nơi nào không ai biết, giống như việc Cộng sản Việt Minh đã ám hại và phân tán thi thể Ðức Thầy Huỳnh Phú Sổ năm 1946. Dân miền Nam đã coi việc này là một việc làm thất tín của Ngô Ðình Diệm: chiêu dụ người ra hàng để bắt xử tử!
Bàn luận và kiểm điểm các sự việc trên với các bạn khiến hai anh y sĩ N.V.Ð. và H.V.N. đã chán nản quyết định bỏ xứ, về lại Pháp qua ngả Ðồn Ðiền Michelin. Triệu thì tự nhủ: Dầu gì đi nữa, trong một chế độ dân cử, có ngày Ngô Ðình Diệm cũng sẽ bị thay thế. Ý nghĩ đó cũng được một bạn khác, N.P.Q. tán thành. Triệu cũng không ngờ là về sau chính anh N.P.Q. đã âm thầm tham gia việc lật đổ nhà Ngô với các anh em Thủy Quân Lục Chiến năm 1963. Ngay trong giờ đầu, N.P.Q. là người đã đột nhập đài phát thanh Sài Gòn và đọc lời hiệu triệu đầu tiên của tổ chức quân nhân đã đảo chánh thành công chế độ Ngô Ðình Diệm.
Việc Ngô Ðình Nhu bị chán ghét vì các thủ đoạn, âm mưu thâm độc đã khiến ông Ngô Ðình Diệm đã phải gánh chịu cái chết thê thảm của cả hai.
Riêng Triệu đã có được hai lần giáp mặt Ngô Ðình Nhu. Mặc dầu không có cảm tình với ông Nhu vì các việc làm của ông để củng cố quyền lực nhưng cái chết của ông là việc Triệu không ngờ vì Triệu chủ trương các thay đổi chánh trị phải theo thể thức bầu cử dân chủ.
Lần đầu tiên gặp ông Nhu là nhân lễ bế mạc khóa huấn luyện sĩ quan Tâm Lý Chiến. Triệu được Hải Quân gởi đi học và đã đỗ thủ khoa của khóa. Trường này thành lập do sáng kiến của ông Nhu và được ông theo dõi rất kỹ. Triệu biết được việc ấy vì khi bắt tay tặng bằng tốt nghiệp, ông Nhu đã nói với Triệu: “Tôi có theo dõi các thảo luận của các anh, thấy anh là người biết nhiều sách vở về Marx”. Các anh em sĩ quan tham dự trong hội trường tưởng là Triệu rất vinh hạnh được ông Nhu bắt tay. Không ai ngờ là khi bắt tay ông Nhu, Triệu đang tự nghĩ là phải bắt một bàn tay đã vấy máu nhiều nhân vật cách mạng. Thường ngày, Triệu vẫn ghét một người đã nhẫn tâm giết hại cả một thế hệ những người ái quốc ở miền Nam theo chỉ thị của đảng Cộng sản Ðệ Tam. Ðó là Trần Văn Giàu khi khởi đầu kháng chiến chống Pháp. Ðối với Triệu, bàn tay Trần Văn Giàu đã vấy máu anh em cách mạng, nhưng đây là việc làm ồ ạt trong một thời gian của Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai và Nguyễn Văn Trấn. Ông Nhu cũng thanh toán đối lập như Giàu nhưng theo những tính toán, những âm mưu âm thầm trong một thời gian thật lâu dài.
Lần thứ hai Triệu được giáp mặt ông Nhu nhân một buổi đi săn ở Tánh Linh, Bình Tuy. Triệu được một anh bạn tên Võ Văn T. rủ đi săn nai vì anh là người thường cung cấp thịt rừng cho anh em trong cư xá Hải Quân. T. là sĩ quan cơ khí làm việc ở Hải Quân Công Xưởng nên đã chuẩn bị cưa chẻ chữ X lên các đầu đạn Garant M1 để khi trúng đạn, thú sẽ quỵ tại chỗ, không lê lết đi xa.
T. vốn quen thân với Quận trưởng Tánh Linh. Lính tráng ở đây đều biết mặt T. nên T. đi vào vùng này rất dễ dàng. Trưa hôm đó T. và Triệu đã gặp ông Nhu và một người bạn cùng đi săn với toán hộ vệ. Ông đã ra lịnh tịch thu hai khẩu Garant M1 của T. và Triệu, hai khẩu súng cũ kỹ, nghèo nàn so với các súng quý, đắt tiền của ông. Khi người hộ vệ đưa giấy ghi tên tuổi của T. và Triệu cho ông Nhu, ông đã sực nhớ ra Triệu là thủ khoa khóa trường Tâm Lý Chiến và đã bắt đầu thân mật hỏi han. Trong giây phút đó người bạn của ông đã nói với ông: “Thôi, mình đi săn, các ảnh cũng đi săn. Xin ông Cố vấn trả lại súng cho họ”. Ông Nhu đã đồng ý và Triệu đã thoát nạn. Sau này hồi tưởng lại, Triệu tự hỏi: không biết có phải tình cờ, Triệu đã gặp ông Nhu ở Tánh Linh khi ông định tiếp xúc với người của Mặt trận Giải phóng miền Nam không? Nếu gặp trường hợp đó, chắc Triệu có thể cũng đã bị thủ tiêu rồi chăng, thay vì được thả về?
Trong năm đầu về lại xứ, Duy Thảo chưa học xong còn ở lại Pháp, Triệu sống một mình với cương vị một y sĩ nên đã có được dịp tham dự một phần nào vào lối sống dân trung lưu thời bấy giờ. Tình hình nam Việt Nam sau Hiệp định Genève khá thanh bình. Dân chúng có thể di chuyển xa một cách an toàn. Các quán ăn, phòng trà hoạt động náo nức. Ðó là thời những ca sĩ như Thanh Thúy mới bắt đầu vào nghề, từ Ðà Lạt xuống Sài Gòn hát ở quán Ðức Quỳnh, thời của bản hát Nắng Chiều của Lê Trọng Nguyễn được trình diễn ở các vũ trường theo những nhịp điệu mới như Cha Cha Cha... Triệu đã tháp tùng các bạn mới, thường đến vũ trường Ma cabane để nghe tiếng hát nam ca sĩ Elvis Phương.
Duy Thảo về nước một năm sau và bắt đầu dạy ở Ðại học Khoa học. Nay có thêm được phần lương của Duy Thảo nên đời sống của cả hai mới được thoải mái một phần nào. Nhưng vì phải khởi đầu từ con số không nên phải hơn hai năm sau, gia đình Triệu mới sắm được một tủ lạnh cũng như một bàn máy may!
Tình cờ một bạn quen từ Pháp về, có chân giáo sư ở Ðại học Khoa học, cho Triệu biết trường có nhận được văn thư “Mật”, chỉ thị phải theo dõi hành vi chánh trị của Duy Thảo vì các hoạt động của Duy Thảo khi ở Pháp. Với tư cách là một y sĩ đàn anh trong nghành Quân Y, so với T.K.T., trưởng ngành tình báo của Tổng thống Diệm, Triệu xin được gặp T.K.T. Triệu được T. tiếp xúc rất thân thiện. Triệu bảo T.: “Hai vợ chồng chúng tôi đã từng hoạt động trong thời kháng chiến, sang Pháp vẫn tiếp tục chống chủ trương thực dân nhưng chúng tôi không phải người cộng sản Ðệ tam. Chúng tôi đã từng đọc các sách như “Retour de l’URSS” của André Gide..., đã tiếp cận với nhiều bạn sinh viên da màu và đã được họ tường thuật những gì họ đã chứng kiến về đời sống thực sự của dân chúng ở Nga. Họ đã vỡ mộng sau những ngày được các đảng Cộng sản cho họ du học ở Nga... Chúng tôi đã ý thức rõ về chủ trương hoạt động thực sự của Cộng sản. Chúng tôi về nước mong góp sức được phần nào vào việc xây dựng xứ sở. Nếu chánh quyền còn nghi kỵ, chúng tôi có thể sẽ trở lại Pháp”. T. đã rất thành thật cho biết các tin tức của cơ quan anh đã thâu thập và bảo: “Xin anh chị đừng lo ngại, chúng tôi đã có đặt trước một thời gian ngắn để tìm biết hoạt động của anh chị mà thôi”.