← Quay lại trang sách

Chương thứ nhứt

Hai năm sau, Iordan được thả ra. Hắn định trở về nơi hắn đã ở hồi hai mươi bảy năm về trước. Trước khi ra đi, hắn ghé qua làng Fântâna lần cuối cùng, để bán nhà.

Viên quản đồn hiến binh đi qua một đường nhỏ trong làng, cạnh nhà ngói đỏ, thấy cửa nẻo đều mở bét, thường khi thì đóng kín, mới vô nhà để xem coi sự gì.

Iordan đang đóng thùng dọn đồ ở sau nhà, viên quản nói:

- Ông giàu thiệt mà! Chắc ông tốn tiền nhiều mới ra khỏi khám mau như vậy.

Gã hộ pháp ngó anh ta và đáp cộc lốc:

- Tôi không hiểu.

Viên quản cắt nghĩa:

- Tôi hỏi ông vậy chớ ông trả bao nhiêu mới khỏi ở tù? Tội ông ít nhứt cũng mười năm.

Iordan bỏ búa, móc túi lấy miếng giấy đưa cho viên quản, và tiếp tục vừa đóng đinh, vừa nói, gằn từng tiếng:

- Tao đưa cho mầy coi để mầy biết tao là ai. Trong vài ngày nữa, tao sẽ mặc sắc phục hạ sĩ quan S.S. Tao là công dân Đức và tao sẽ phụng sự tổ quốc tao. Bây giờ chắc hẳn mầy biết tại sao tao được ra khỏi khám. Không phải như ý mầy tưởng đâu!

Viên quản lấy giấy gọi nhập ngũ và đọc.

Y biết rằng tất cả công dân Đức bị ở tù, đều được ân xá, nếu bằng lòng trở về nước và sung vào quân đội. Y bèn xếp tờ giấy lại, mỉm cười trả cho Iordan.

Hắn lại lấy ra một miếng khác và nói:

- Đây, còn cái này nữa, đọc đi!

Đó là bức thơ cám ơn. Hắn đã dưng hết gia tài cho quân đội Đức để mua một chiếc xe thiết giáp. Lãnh sự Đức ở Bucarest có gởi vô khám một bức thơ cám ơn hắn. Viên quản giở tờ giấy ra, nhưng không biết đọc, vì viết chữ Đức. Y trầm trồ ngắm bức thơ, trên đầu giấy có hình con ó với chữ Vạn, và có dấu đóng. Y hỏi:

- Ông bán hay giữ cái nhà này?

Iordan không trả lời theo câu hỏi, lại nói:

- Xe thiết giáp mới mua bằng tiền của tôi, vừa được xuất trận lần đầu. Tôi sẽ đi theo nó lập tức. Tôi không còn trẻ, nhưng Chánh phủ Đại Đức quốc sẽ chấp thuận tôi.

Iordan xếp giấy tờ bỏ vô túi, lấy búa lo đóng mấy thùng đồ, không ngó viên quản nữa. Khi người này chào hắn ra đi, hắn cũng không ngước mặt lên, mà chỉ lẩm bẩm trong miệng mấy tiếng mẹ đẻ.

(20)

Viên quản ra khỏi nhà Iordan thì tạt qua quán rượu. Trời tháng năm. Y đi giữa lộ, sợ bụi dính giày. Y muốn giày luôn luôn bóng như gương. Y cũng ưa thích đàn bà và rượu. Rượu thì có tên Do Thái chủ quán cho y uống, khỏi phải trả tiền. Y nghĩ thầm: “Nếu thỉnh thoảng không lập thêm một luật mới thì chắc mấy viên hiến binh chết khát”. Chánh phủ thật đã chu đáo lo việc ấy. Hôm tháng giêng lịnh truyền cho y phải gởi mấy người Do Thái trong làng đi trại làm việc. Ở Fântâna chỉ có một người, là Goldenberg, tên chủ quán. Y có đưa tờ trát cho chủ quán xem. Tờ trát cơ mật, y hối hận đã đưa cho người khác xem. Nhưng, suy nghĩ kỹ, y cho là y làm đúng. Từ đây, cứ ba tháng, y gởi một giấy thầy thuốc chứng nhận chủ quán bịnh tật, không đi trại được. Như vậy, mỗi tháng y được chủ quán đưa ba ngàn “lơ”. Lương của y được lên xấp hai. Y sống dư dả và có cảm tưởng mình làm một việc phải nữa. Lão chủ quán già ở yên buôn bán, hơn là đi trại làm xâu, khổ cực dường nào.

Khi nốc xong cốc rượu, viên quản vén màn ngó qua cửa kiếng căn phòng chủ quán, cốt để chào Rosa, con gái chủ quán, như thường bữa. Rosa có làn da trắng mịn. Và khi véo cánh tay nàng, y có cảm giác như rờ vô nhung. Da của Rosa không phải như da mấy mụ nhà quê trong làng. Thường khi, nàng ngồi gần cửa sổ, đọc tiểu thuyết. bữa nay, lại có một thanh niên ngồi gần nói chuyện với nàng. Viên quản gắt gỏng hỏi chủ quán:

- Ai đó vậy?

Chủ quán ngập ngừng, không biết có nên nói thật hay không, nhưng rồi cũng phải nói:

- Thằng Marcou, con tôi, vừa ở Ba Lê về.

- Ông giới thiệu với tôi đi!

Y chưa hề gặp người nào đi Ba Lê về. Chắc có thể học hỏi được nhiều chuyện lạ với những người đã ở Ba Lê. Nhưng Marcou cộc cằn quá, phải gợi hỏi chuyện mà không thấy gã trả lời nhiều. Y tưởng người du học ở Ba Lê chắc khác, y lại thất vọng. Gã này bản tính cộc cằn, không cảm tình được. Lại còn không thèm uống ly rượu của y mời nữa. Tuy vậy, trước khi về, y cũng nói với Marcou:

- Chiều nay đến đồn chơi. Ta đánh một ván cờ.

Ra khỏi quán, y nghĩ lão già Goldenberg phí của cho con đi Ba Lê ăn học, thật như quăng tiền qua cửa sổ. (21)

Đi ngang nhà Moritz, viên quản ngừng lại. Suzanna đang nhồi đất làm gạch ngoài sân. Moritz cất nhà đã hai năm. Hai vợ chồng làm việc suốt ngày đêm. Nhà thật đẹp, lại có bao-lơn nữa.

Viên quản hỏi Suzanna:

- Nhà cất rồi, mầy còn làm gạch chi vậy?

Y muốn vô sân, nhưng cửa ngõ đã khóa. Suzanna đáp:

- Chúng tôi cất chuồng bò.

Nàng tiếp tục nhồi đất bằng chân. Viên quản thấy bắp đùi nàng trắng trong. Y hỏi:

- Chồng mầy không có ở nhà hả?

Suzanna cười đáp:

- Iani vô nhà máy xay.

Hai đứa con của Moritz dan nắng ở cuối sân. Đứa nằm trong nôi, đứa chơi vọc cát. Suzanna ngó chừng chúng nó, và chế nước vô đất sét nhồi thêm. Nàng mặc áo chẽn nổi lộ thân hình tròn trĩnh của cặp đùi nàng.

Viên quản thử mở cửa một lần nữa. Y hỏi:

- Mầy không mở cửa cho tao sao?

- Ông ở đó được rồi.

- Chẳng lúc nào tao gặp được mầy một mình. Và bây giờ chồng mầy đi khỏi mà mầy cũng không chịu mở cửa cho tao nữa!

- Vậy chớ sao! Ông đứng trước cửa lâu rồi. Thôi đi đi, để tôi yên!

- Mở cửa giùm một chút đi, đừng ác mà!

- Iani sắp về. Nếu anh gặp ông ở đây, anh sẽ bửa đầu ông đa!

- Mầy tiếc nó lắm sao?

- Ông thiệt khôn nhứt đời mới hỏi tôi câu này. Im ông đi! Ông về cho rảnh mắt tôi. Moritz sắp về bây giờ!

- Tao hỏi mầy một chuyện thôi, rồi tao về.

- Hỏi đi.

Suzanna ngừng nhồi đất, đứng chống nạnh chờ.

- Nếu mầy không chờ chồng mầy thì mầy có mở cửa cho tao không?

Suzanna lại nhồi đất, và đáp:

- Ông muốn biết nhiều quá!

Nàng chưa hề nghĩ đến phải làm cách nào, nếu một ngày kia, Moritz đi xa, và viên quản đến nhà nàng.

- Mầy có chồng rồi, sợ gì?

Suzanna giận dữ:

- Để tôi yên! Ông có đi đi không.

- Mầy trả lời, rồi tao mới đi.

Suzanna nói cụt ngủn:

- Không biết!

- Nếu mầy không nói: chịu hay không, tao cứ ở đây hoài.

Y chống hai tay dựa cửa ngõ, chờ đợi. Suzanna nói:

- Sao ông cứ muốn biết hoài vậy. Iani không bao giờ xa nhà.

- Nếu nó đi thì sao?

- Ông có gan làm thử coi! Iani không đi đâu hết. Chúng tôi còn lo cất chuồng bò, đào giếng. Đi đâu mà công việc còn mê mê như vậy?

Mắt viên quản sáng lên. Y vừa đi vừa lẩm bẩm: “Tao biết mầy đảm đang lắm”. Y huýt sáo, đi khỏi xa. Suzanna ngưng làm. Nàng sợ hãi, rút chân ra khỏi đất sét và chạy lại hai đứa con. Nàng ôm đứa lớn vào lòng. Nàng cảm thấy như đã phạm một tội nặng, như đã làm một việc gì nghiêm trọng có thể gây tai vạ cho Moritz và hai con. Rồi nàng lại nghĩ: “Nhưng kỳ thật, ta có làm gì tội lỗi đâu? Cứ sợ vô lý!”. Nàng bỏ đứa con xuống đất, chạy lại xăn áo lên, làm tiếp công việc... (22)

Tuần lễ sau, một viên hiến binh đến gõ cửa nhà Moritz. Anh đang ngồi ăn, thấy dạng nón lính ngoài cửa sổ, bèn nói: “Để ra coi chú lính này muốn gì”.

Anh ra sân. Lúc trở vào, tay cầm một miếng giấy. Anh ngồi lại ăn tiếp. Suzanna hỏi:

- Giấy gì vậy?

Moritz nuốt xong, trả lời:

- Một lịnh sung công. Để ăn rồi sẽ đọc, coi Chánh phủ muốn đòi gì nữa đây.

Anh vẫn điềm tĩnh vì biết tất cả nông dân đều được những lịnh sung công như vậy. Sung công ngựa, xe, và súc vật. Anh không có ngựa, cũng không có xe. Bây giờ anh hết tiếc không có mua mấy thứ này. Chánh phủ sẽ lấy hết và anh cũng vẫn đi bộ như thường. Anh nghĩ thầm: “Hay Chánh phủ muốn ta cho một bao bắp hoặc lúa mì!”. Anh biết rõ, lúa mì cũng bị sung công.

Ăn xong, anh lau tay để khỏi dính dơ tờ giấy, và giở ra đọc. Suzanna nhìn thấy mặt anh từ đỏ sang trắng, rồi xanh dờn.

Nàng hỏi:

- Giấy nói gì ở trỏng vậy anh?

Hai đứa nhỏ nhìn cha. Moritz nằm dài trên giường, hai tay lót đầu. Suzanna hỏi dồn: “Anh không nói coi chuyện gì vậy?”.

Sự im lặng của Moritz chắc là báo điềm bất thường. Moritz đáp:

- Dầu có nói, em cũng không hiểu. Chính anh đây cũng không hiểu.

- Chuyện dữ hay sao anh?

- Viên hạ sĩ quan lo việc sung công chắc lộn hay sao chớ. Mấy ông này thường hay nghĩ chuyện khác khi ngồi viết lắm!

Moritz đưa tờ giấy cho Suzanna rồi nói:

- Em coi, đây là một lịnh sung công. Mình đã nhận hai tấm rồi. Lần đầu về lúa mì, lần sau, về mấy bao đựng đồ mua của anh Porfirie. Bây giờ, lịnh sung công không phải đồ vật nữa mà là anh đây! Làm sao họ lại sung công người ta? Em hiểu được không?

Suzanna đọc chậm chậm từng chữ. Moritz nổi nóng, giựt tờ giấy lại, đọc to lên, rồi nói:

- Tại làm sao họ lại sung công tôi? Tôi là người đây mà! Họ có thể sung công ngựa, nhà cửa, bò cái, bao bị, chớ sung công người ta sao được! Em coi họ viết tên anh vô đây rành rành. Viên phó quản cơ chắc điên rồi!

Suzanna hỏi:

- Bây giờ anh tính sao?

- Mai sáng lối bảy giờ anh đến sở hiến binh hỏi lại.

- Chắc anh có lý, họ lầm rồi!

- “Thì chắc chắn họ lầm”. Moritz trả lời, nhưng lại đâm ra nghi ngờ: Nếu họ không lầm thì sao?

Anh phải sửa soạn ra đi như đi nhập ngũ. Nếu lịnh không sai, thì có thể anh bị giữ lại một hoặc hai tháng không chừng. (23)

Suốt buổi chiều, Moritz kiếm chuyện gây với Suzanna, nhưng nàng không giận. Nàng biết anh quạu quọ vì tờ giấy kia.

Chiều đến, Moritz lấy giấy nhựt trình gói tờ trát lại cho khỏi dơ và bỏ vô túi áo. Anh đi ra sân và nói với Suzanna:

- Anh đem giấy này cho mục sư coi.

Đến nơi chỉ có bà mục sư ở nhà. Ông đi ra tỉnh trọn ngày nay. Moritz muốn thuật cho bà nghe, nhưng lại thôi. Anh chào bà ra về.

Ngoài đường chó sủa vang. Trời tối dần, Moritz vấp cục đá, chửi thề om. Anh bước mau về nhà.

(24)

Thật là một đêm vô cùng khổ tâm khổ trí. Vừa nằm xuống, Moritz bị vấn vít những ý nghĩ đen tối. Suzanna xích lại ôm cổ anh, muốn cho anh quên nỗi buồn đi. Nhưng Moritz gỡ tay nàng, xây lưng lại, dang xa nàng, không thiết đến chuyện ấy. Muôn ngàn lo lắng xâm chiếm đầu óc anh. Còn bao nhiêu là công chuyện phải làm. Làm cả ngày lẫn đêm cũng chưa hết. Nếu ra đi thình lình, không biết là bao lâu, mà phải bỏ cả công việc, thì đáng lo ngại thật. Anh tuyệt vọng. Anh như sắp chết. Còn biết bao công chuyện phải thu xếp, một khi ra đi. Anh bị ám ảnh về những ý nghĩ này. Anh vừa mua tại rừng mười thước cây. Tiền trả rồi, cây đã đốn và sắp thành từng đống để tại rừng, chỉ còn có việc chở đem về nhà. Thế mà phải bỏ hết. Đó là mớ cây danh mộc, đắt tiền, dùng để cất nhà. Anh nóng lòng chờ nó được đem xong về sân anh. Anh đã tính chỗ cất nó, dựa hàng rào, vì toàn là cây lớn. Và bây giờ anh phải ra đi. Moritz day qua Suzanna. Anh không thể để cây trong rừng. Suzanna chưa biết chuyện mua cây, và cũng không biết cây chất chỗ nào. Khó kiếm chỗ đó lắm. Nhưng Suzanna đã ngủ. Moritz lắc vai nàng, nghĩ thầm: “Ta phải chỉ cho nàng biết cây để ở sau chỗ vựa cây trong rừng, cách bờ rạch vài trăm thước. Tại đó cũng có cây của người khác. Nếu không chỉ rành thì kiếm không ra”.

Suzanna nghe tay Moritz nắm vai mình nên mỉm cười trong giấc ngủ. Trăng tròn tỏ rạng rọi vào phòng, sáng như ban ngày. Moritz biết một mình Suzanna không thể đem cây về nhà được, vì không phải công việc của đàn bà. Phải mượn ông già Artimie đi với nàng mới kiếm được cây. Cần phải cho nàng biết trước cây đã mua rồi, và phải đến xem tại chỗ. Thế nào cũng phải nói chuyện với nàng.

Moritz lắc mạnh vai Suzanna. Nàng lại mỉm cười. Dưới ánh trăng soi, nàng tươi cười le lưỡi liếm môi. Moritz thấy thương hại nàng, không dám đánh thức nàng dậy. Suzanna ngủ ngon như đứa trẻ. Anh nghĩ: “Thôi để mai sáng, dậy sớm, rồi sẽ cho nàng hay”. Anh bèn rút tay lại, và nằm ngửa ra. Thường thường anh nằm ngửa như vậy thì ngủ mau lắm. Nhưng đêm nay anh không ngủ được. Anh nhớ tới giấy đòi anh. Mảng lo chuyện cây mà quên lửng nó đi. Anh tức mình nổi giận lên. Anh đã đi quân dịch, làm lính giữ biên giới. Anh có học tiếng Serbe. Anh biết rành luật quân sự, luật không thể thay đổi nay mai, mau lẹ được. Người ta không thể bị sung công như xe, bò cái, cày bừa, hay xe cam-nhông.

Moritz xoa màng tang, cố quên chuyện này, vì nội ngày mai thì sẽ biết rõ. Có thể đằng cơ binh lầm, thì có phải lo lắng vô ích không? Chắc viên hạ sĩ quan nào muốn phá anh nên mới gởi lịnh sung công thay vì lịnh gọi nhập ngũ.

Vừa tạm yên để ngủ thì anh lại trực nhớ Balta còn thiếu anh 500 “lơ”. Anh không biết phải vắng nhà bao lâu, và chắc Suzanna sẽ có chuyện cần tiền. Anh day qua Suzanna. Nàng đang ngủ mê, nằm nghiêng, tay ôm gối. Anh tự hỏi: “Không biết nàng mơ gì đây?” và một lần nữa, anh không dám đánh thức nàng. Mai sáng anh sẽ nói cho nàng biết.

Anh nhớ tới mùa mưa sắp đến, vách giếng sẽ sụp nếu không sửa lại. “Nhưng có thể mình trở về trước mùa mưa”. Anh tự nói thầm như thế, và không lo đến cái giếng nữa. Bây giờ anh lại nhớ tới gạch làm chuồng bò, chưa nung. Gần tám trăm viên gạch chất chồng phơi gần vách nhà. Phải nung nó mới được, nếu để khô quá, gạch sẽ nứt và bể vụn thì hoài công. Nghĩ đến chuyện này, anh băn khoăn, lăn qua, trở lại. Anh ngó Suzanna một lần nữa. Anh muốn hỏi ý kiến nàng, nhưng nàng đang ngủ, đầu vùi trong gối. Moritz biết nàng không giúp ích được chút nào. Có kêu nàng thức dậy cũng như không. Đó là công việc của đàn ông. Anh nhớ đến mấy bạn quen trong làng, nhưng không tìm được ai để nhờ nung gạch giúp. Ai cũng có nhà và công việc riêng. Nếu ban ngày thì anh đi hỏi thử từng người. Bây giờ đang lúc nửa đêm, người ta ngủ hết, anh không thể kêu họ dậy để nói chuyện gạch của anh. Moritz tự nói: “Thôi mình lấy rơm và lá bắp đậy nó lại, gạch sẽ lâu khô, có thể để thêm được vài tuần nữa. Chừng đó mình chắc về được rồi”. Anh chỗi dậy. Cửa trong nhà còn mở, anh ra sân, mình trần truồng. Anh muốn trở vô mặc áo quần, nhưng sợ vợ thức giấc. Anh lại thôi. Anh cầm viên gạch và xem dưới ánh trăng khuya. Gạch cần phải nung liền, trễ lắm là vài ba ngày nữa, để lâu không được.

Anh đi lại giếng, rồi rảo khắp sân. Anh quên mình trần truồng, đứng ngó vách tường, mái nhà. Anh thấy rõ ràng, vì trăng sáng như ban ngày. Đã lâu không có trăng sáng như đêm nay. Moritz quên chuyện phải ra đi. Anh dự tính cất chuồng bò, mua một cái xe với ngựa và một con bò cái. Anh đi lại đống rơm ở cuối sân, ôm một mớ sắp dựa đống gạch. Chuyện này mai Suzanna làm được, nhưng anh đã đứng gần đống rơm, tốt hơn anh nên làm để nàng khỏi thất công. Anh ôm lá bắp, phủ lên gạch. Anh làm việc mau lẹ, anh thấy nực; gà gáy sáng, anh giựt mình. Anh đã quên mất hết, giờ mới nhớ lại mình sắp ra đi. Anh mắc cỡ thấy mình trần truồng ở ngoài sân. Anh đi vô phòng, Suzanna còn ngủ. Moritz nằm kế bên, không đánh thức nàng dậy. Nàng không hay biết gì, lại đưa chân gác trên chân anh. Anh chợp mắt một lát, lại giựt mình thức giấc ngó chung quanh. Suzanna vẫn ngủ. Mặt trăng xế qua thành cửa sổ, giống như cái nón của viên hiến binh móc nơi đó. Moritz ngó sửng mặt trăng, và không thể nhắm mắt được, nằm thức luôn tới sáng. (25)

Sáng bữa sau, Moritz đi đến đồn. Dọc đường anh gặp người làng đi làm việc vô nhà máy xay, ra đồng áng, và vô rừng. Anh ngó lơ để không thấy họ. Phần anh, anh cũng phải vô nhà máy xay và vô rừng nhưng anh lại phải bỏ hết ra đi. Anh bị sung công. Ý tưởng trốn tránh thoáng qua đầu anh. Nếu anh trốn trong rừng, hiến binh không thể tìm được anh và bắt anh sung công. Nhưng anh cố nhịn, và đi thẳng vô đồn, đứng sựng tại ngạch cửa. Anh có vợ, có con, có nhà cửa, làm sao trốn được. Anh bước vô sân, thấy viên quản đồn đang cạo râu trong phòng. Moritz đứng chờ để hỏi xem lịnh đòi anh có sai lầm chăng? Một mùi sữa khét xông lên. Có người đập vai anh. Anh xây lại, thì ra một người lính, không phải người đem giấy hôm qua, mà một người khác. Bên mặt người lính là gã Marcou, con của tên Do Thái Goldenberg ở làng Fântâna. Moritz không hay họ đến. Họ làm như dưới đất chun lên, cặp mắt thù hằn. Người lính nắm cổ áo Moritz kéo anh đứng dựng như xách một bao đồ. Anh tuân theo, tưởng người lính phá mình chơi, nhưng dòm thấy Marcou bị còng tay, anh chợt hiểu.

Tên lính ra lịnh: “Đứng kế gần nhau!” Moritz nghĩ: “Nếu Marcou bị còng tay không phải chuyện chơi”. Anh đứng xích lại gần tên Do Thái, và đâm sợ. Mỗi lần thấy người bị còng thì anh đều sợ hãi. Sau lưng anh, tên lính gác lên cò súng. Dầu không thấy, Moritz cũng biết rõ, vì anh đã có đi lính. Viên hiến binh gắn lưỡi lê vô súng. Anh đã biết chuyện gì rồi, anh nhắm mắt lại. Khi ra khỏi sân, anh ngó vô cửa sổ phòng văn. Viên quản còn để kiếng dựa cửa sổ cạo râu. Người đi đường đứng lại dòm họ. Đàn bà chạy ra cửa ngó theo.

Trước nhà Porfirie, một đám phụ nữ đi gánh nước về, lật đật để thùng nước xuống giữa lộ và làm dấu thánh giá. Moritz nhắm mắt lại. Lồng ngực anh như có cái gì tan vỡ. Anh biết đàn bà thường làm dấu thánh giá khi thấy người bị còng tay, có lính bồng súng kề hông dẫn đi. Anh nghe tiếng giày của tên lính đi sau anh. Tất cả đều êm lặng, ngoài tiếng chân đi ăn nhịp. Moritz bước theo điệu bước với Marcou. Bộ giò anh không còn thuộc về anh nữa. Nó đi một mình nó. Cả da thịt và tinh thần anh cũng không còn là của anh. Nó thành xa lạ với anh. Cho đến thân hình anh, và tư tưởng anh. Tất cả tư tưởng của anh. Tất cả những vật ấy hiện giờ thuộc về một người khác. Anh không còn gì là của anh hết. (26)

Viên quản cạo râu xong, bước ra sân huýt sáo. Trời bữa nay thật đẹp. Một người lính xối nước cho y rửa mặt. Anh này thấy y cạo râu kỹ lưỡng lắm, cạo đi cạo lại hai lần, nên vừa cười, vừa nói:

- Một người mới hả “Sếp”?

Anh lính đoán chắc viên quản sắp đi thăm một người đàn bà. Viên quản nháy mắt mà không đáp. Lau mặt xong, y mặc sắc phục mới và đi vô phòng làm việc. Y lật hồ sơ, lấy bản lưu của tờ phúc trình y vừa gởi vô thành lính, hồi sớm mai này, với hai tội nhân, và đọc:

“Chúng tôi hân hạnh xin gởi theo đây do lính hộ tống, hai tên: Marcou Goldenberg, tấn sĩ luật, ba mươi tuổi, và Moritz Ion, nông dân, hai mươi tám tuổi, phạm luật, chiếu theo lịnh trước về việc bắt sung công và đem vào trại giam, những người Do Thái hay người tình nghi trong làng chúng tôi”

Ký tên: Nicolae Dobresco

Chánh quản cơ, quản đồn Hiến binh làng Fântâna

Viên quản cất tờ phúc trình vào hồ sơ, tỏ vẻ bằng lòng. Y vuốt râu cho láng, lấy kiếng nhỏ ra soi. Đoạn y đứng dậy, vác súng lên vai và đi thẳng lại nhà Moritz.

Bây giờ Suzanna còn có một mình. Y chờ cơ hội này đã hai năm nay.

Y huýt sáo miệng.

(27)

Một giờ sau, viên quản trở về đồn. Trước khi đi, y có cho hay sẽ vắng mặt trọn ngày, mà bây giờ y lại ngồi trong phòng giấy. Vẻ mặt y giận dữ, không biết lấy cái gì để dằn cơn giận xuống. Nhìn thấy hồ sơ thơ từ, dở ra đọc lại tờ phúc trình gởi vô thành lính hồi sớm mai, với hai tội nhân, y càng giận dữ thêm. Y muốn xé tờ phúc trình ra muôn mảnh, vì nó không ích lợi cho y được việc gì. Tuy có một mình, Suzanna cũng không chịu tiếp y. Và khi y cố sức mở cửa ngõ, thì Suzanna lấy rựa hăm bửa đầu y. Và đó không phải là lời nói dọa đâu. Y biết rõ không đùa với đàn bà được. Nếu y bước vô sân, thế nào nàng cũng chém y. Y đành nhượng bộ, quay trở về, mà lòng căm tức cực điểm. Y toan mưu, tính kế để bắt Moritz và chiếm đoạt người đàn bà, nhưng hoài công. Y đã thức suốt đêm để thảo tờ phúc trình.

Y tự nghĩ: “Ta đã phí giấy mực vô ích, chẳng ra gì”. Y nghĩ đến Moritz và chửi thề om sòm. (28)

Trong sân thành lính, đoàn người tù đã sẵn sàng để lên đường. Moritz dòm từng người.

Thấy có nhiều người mặc quần áo tốt, xách va-li da. Anh đã mệt, hai chân mỏi và đau. Marcou thì lầm lì suốt dọc đường không nói một lời. Y cũng mệt lã và muốn ngồi xuống. Sau lưng họ cửa đã mở. Đoàn tù khởi sự ra đi. Họ ra khỏi sân. Một sĩ quan, tay cầm xấp giấy, đi ngang qua, ngó Moritz và vẻ mặt xanh xao của Marcou, đoạn hỏi viên hiến binh:

- Cả thảy đều là Do Thái phải không?

Rồi không đợi trả lời, hắn giựt bao thơ vàng trên tay người lính và chỉ đoàn người đang đi ra cửa cho Moritz, hắn bảo:

- Sắp hàng tư!

Moritz ngó viên sĩ quan, không hiểu. Viên trung úy bèn chụp vai anh, xây như con vụ, và đá anh nhào vô trong hàng người đang đi. Moritz đi ăn nhịp với họ; ra khỏi sân, anh quay đầu lại, thấy Marcou theo sau anh. (29)

Đi như vầy đến chiều. Khi ngừng nghỉ thì họ đã đến gần thành phố. Marcou lại gần Moritz và nói:

- Mở giùm tay tôi đi.

Rồi xây lưng cho Moritz. Bàn tay Marcou trắng và nhỏ, cổ tay có lằn đỏ rướm máu. Moritz mở trói xong, Marcou nói: “Cám ơn” mà không cười, cũng không ngó ngay mặt Moritz. Y ngồi xuống cỏ, nhìn chân trời với đôi mắt lạnh lùng. Moritz ngồi kề, muốn gợi chuyện, nên đưa sợi dây vừa mở trói cho y và hỏi:

- Anh cần dùng dây này không? Cho tôi nghe?

Marcou đáp:

- Anh cứ giữ lấy.

Giọng y bớt cứng xẵng. Moritz quấn sợi dây lại và cất kỹ lưỡng vào túi quần, nói lẩm bẩm: “Có một sợi dây trong mình càng tốt. Biết đâu chẳng có chuyện cần dùng”.

Marcou mỉm cười. Đây là lần thứ nhứt Moritz thấy y cười. (30)

Chiều hôm ấy, đoàn tù Do Thái đi đến bờ rạch Topolitza. Lòng rạch cạn khô, hai bên bờ toàn cây liễu và những bụi cây cằn cỗi rậm rạp.

Chính tại đây đoàn Do Thái phải đào một con kinh. Xa xa thấp thoáng mấy nóc nhà. Không có làng nào ở kế cận. Chỉ có trơ hai chuồng ngựa bỏ hoang như canh giữ vùng đất hẻo lánh này. Lúc trước, khi còn tu viện, thì chuồng cất để nuôi ngựa giống. Chuồng ở ven rừng. Một xe cam-nhông chở đầy cuốc, cúp, xuổng, mai và một cái chảo đụn để nấu ăn, đến đậu gần đoàn tù. Họ đều ngó xe, vì không có gì khác để xem.

Đêm ấy, tù ngủ trong chuồng ngựa. Moritz nằm dài trên cỏ, ngoài trời. Đất im mát, nên anh ngủ liền. Nhưng trong đêm, anh thức giấc mấy lần. Trăng đẹp sáng như ban ngày. Moritz tưởng như còn ở nhà. Chừng thấy mấy người nằm kề bên anh, mình quấn trong áo choàng, anh mới biết đã xa làng Fântâna, và anh nhắm mắt lại.

Ngày mai đoàn tù Do Thái bị chia làm hai hàng để điểm số. Moritz và Marcou ở cạnh nhau. Moritz chào y thì y gật đầu, và như mỉm cười.

Một viên phó quản đứng giữa hai hàng người và phát cúp xuổng cho họ. Mười người khiêng một cái chảo đụn xuống xe cam-nhông, đặt tại gốc cây, trước chuồng ngựa. Xong đâu đấy, viên phó quản có răng bịt bạc và bộ râu đen mới diễn giải cho họ nghe, đại ý nói người Do Thái phải lo đào kinh này để bảo vệ tổ quốc. Hắn còn tự giới thiệu rằng hắn ta, - viên phó quản cơ đây, - là chúa tể của Do Thái, và hễ nói chuyện gì thì đến thánh Moïse trên trời cũng phải công nhận. Y còn cho biết tên y là Constantin, có hai con, đứa làm trạng sư, đứa làm sĩ quan. Đoàn tù lặng trang nghe y nói. Có vài người cười, nhưng họ đều sợ y. Constantin nói tiếp:

- “Bữa nay không có gì ăn, vì bếp chưa sắp đặt xong. Kể từ ngày mai sẽ có trà và cháo đậu, mỗi ngày hai lần, thêm nửa ổ bánh mì”.

Công chuyện làm bắt đầu. Mỗi người phải đào bao nhiêu diện tích đất mỗi ngày. Nếu làm xong thì được nghỉ tới tối. Nếu không rồi thì bị phạm tội phá hoại, bị còng đem xử ở Tòa án Binh như kẻ thù của tổ quốc. Viên phó quản đã quả quyết như vậy, và tù binh phải tin nghe theo.

Moritz ra khỏi hàng mình đứng, nói với viên phó quản rằng anh không phải là Do Thái. Y trả lời chưa xem xét được, trước khi đặt phòng văn của y. Moritz trở về hàng ngũ, cạnh Marcou và chờ đợi. Anh biết trong cơ binh, phải tập lần biết chờ đợi mới được.

Mười ngày sau, phòng giấy mới làm xong. Một nhà tròn nhỏ bằng cây, có vài bàn ghế và giường cho lính canh. Khi Moritz đến cửa trình diện, thì viên phó quản bảo tuần sau trở lại, vì y chưa có thì giờ xem xét những vụ kêu nài. (31)

Lúc cuốc đất đào kinh, Moritz gợi chuyện hỏi tên người làm phía bên mặt anh. Anh ưa nói chuyện với người chung quanh, vì anh nghĩ: “Ai mà không nói chuyện thường nuôi nấng sự căm hờn”. Người ấy hỏi:

- Bộ anh thẹn mà không nói tiếng Do Thái sao?

Anh đáp:

- Tôi không biết tiếng Do Thái!

Tên Do Thái bèn khạc dưới đất, ngó lảng nơi khác và nói:

- Thế thì nhục lắm!

Moritz day qua người bên trái để phân trần thì người này lại đáp:

- Anh cứ nói bằng tiếng Do Thái với tôi đi.

Moritz trả lời:

- Thì chính vì thế mà tôi mới cắt nghĩa cho anh nghe. Tôi không biết tiếng ấy.

Mấy người Do Thái đều ngó anh một cách thù hằn. Moritz ngưng làm và cố giải thích nhưng không ai thèm nghe. Anh tự nghĩ: “Họ giao ước chỉ nói tiếng Do Thái với nhau, đó là theo ý họ. Họ là dân Do Thái thì họ nói tiếng mẹ đẻ của họ. Còn mình, sao lại phải nói tiếng đó?”.

Có người bảo anh:

- Thì anh nói tiếng Hébreu, nếu anh quên tiếng Do Thái.

Moritz ngẩng đầu lên, định trả lời. Tất cả đều ngưng làm, để ngó anh, rồi cười rộ lên.

Moritz giận đỏ mặt, không nhịn được nữa, bèn nói:

- Đó là ngôn ngữ lạ đối với tôi. Chính tôi đây mới có quyền cười chớ không phải các anh! Tôi biết rành bốn thứ tiếng (rồi quay qua người bên mặt, anh hỏi): “Còn anh, anh biết mấy thứ tiếng?”

Người này trả lời thật mau:

- Tôi biết tiếng Do Thái.

Moritz cắm mạnh vá xuống đất. Anh biết tụi Do Thái chế nhạo anh. Họ đều biết tiếng Roumain, thế mà họ không nói.

Khi công việc xong, ông già Lengyel cầm đầu đoàn tù, kêu Moritz ra riêng nói:

- Do Thái chúng ta đang trải qua một tình thế khó khăn. Và chỉ có chúng ta ở chung với nhau thì tốt hơn ta nên nói tiếng mẹ đẻ.

Moritz đáp:

- Nhưng tôi không phải dân Do Thái.

- Anh còn giấu gì nữa, khi anh đã ở đây rồi! Trước khi bị bắt, anh có thể trốn được, và như vậy càng tốt cho anh. Còn bây giờ anh ở đây, thì không còn gì nữa. Nếu anh cố mà nói dối, đối với chúng tôi, thì anh là một tên phản bội.

Giọng Moritz run run:

- Nhưng, thưa ông Lengyel, tôi không phải Do Thái.

Ông già đáp:

- Đó là tự nơi anh... nếu anh muốn làm người phản bội.

Moritz đứng một mình. Không ai tin anh không phải là Do Thái. Ai ai cũng cho anh dối trá, kiếm chuyện để ra khỏi trại giam. Họ chắc chắn anh không phải dân Roumain. Trong quyển sổ tên do ông già Lengyel giữ, người ta ghi anh là người Do Thái, tên là Moritz Jacob.

Ông Lengyel quả quyết nói:

- Không có ai dân Do Thái mà tên Iohann cả! Tên Do Thái là Jacob, và từ đây, anh phải mang tên này. Còn Ion, cũng không phải tên anh nữa. Nó là tên Jacob dịch ra tiếng Roumain.

Bạn trong trại lại kêu tên anh bằng Yankel, anh cũng không cãi, nhưng anh tập nghe tên mới này rất khó khăn. Anh nói:

- Các anh kêu tôi bằng Jacob hay Yankel cũng được, nhưng tôi lấy làm buồn khổ sao các anh không tin tôi. (32)

Moritz được biết các người Do Thái trong trại giam này đều có giấy sung công. Bây giờ anh mới hiểu Chánh phủ sung công Do Thái như sung công ngựa, xe, và bột mì... nhưng anh không phải Do Thái. Nên anh muốn nói với viên phó quản. Không còn ai khác để anh có thể nói được. Song viên phó quản không bao giờ rảnh. Một hôm anh tìm cơ hội nói được, thì viên phó quản nổi giận lên:

- Đã bốn tháng nay, anh cứ làm phiền tôi. Anh là phần tử phá rối trật tự. Hễ mỗi lần mở cửa phòng văn là thấy anh ngồi chờ rồi. Bữa nào anh cũng có chuyện kêu nài! Anh ăn không đủ? Anh không làm việc được? Anh không thể xa vợ anh được?

Moritz đã định sẵn những gì phải nói với viên phó quản và mỗi ngày lặp đi lặp lại một mình cho thuộc. Anh sắp kể hết chuyện mình cho ông ấy nghe, nhưng ông ta lại gắt:

- Nói vắn tắt đủ hiểu thôi!

Moritz nói:

- Tôi muốn ra khỏi nơi đây, vì tôi không phải Do Thái.

Viên phó quản ngó xéo anh, rồi hỏi:

- Anh không phải Do Thái hả?

Y lấy cuốn sổ tội nhân để trên bàn, lật nơi chữ “M” và đọc:

- Moritz Jacob, hai mươi tám tuổi, có vợ hai con, ở tại làng Fântâna. Vợ tên là Suzanna. Phải anh không?

- Phải!

- Vậy sao anh lại nói anh không phải Do Thái?

- Thật tên tuổi tôi, nhưng tôi không phải dân Do Thái.

- Anh nói chuyện này quan hệ lắm đấy, anh biết không? Nói láo thì bị tù, biết chưa? Những gì viết ở đây, - và đây là công văn quân vụ, - mà anh cho là sai hết! Anh biết sự gì đang chờ anh, khi anh quả quyết anh không phải Do Thái chăng?

- Thật tôi không phải Do Thái.

- Vậy anh làm gì ở đây?

- Tôi cũng không biết!

- Tại sao bây giờ anh mới nói cho tôi hay. Tôi đã viết và ký tên trên tất cả giấy tờ công văn rằng: hai trăm năm mươi người đào kinh, dưới quyền tôi đều là Do Thái cả. Bây giờ anh nói anh không phải Do Thái. Vậy ra tôi nói và ký tên sai sao? Thế thì tôi phải ngồi tù à?

Viên phó quản đỏ mặt, giận dữ, nói tiếp:

- Tôi muốn tát anh vài phát cho anh ù tai năm bảy ngày cho biết chừng tôi. Nhưng thôi, tôi cũng ghi lời khai của anh, vì chuyện này rất quan hệ. Vậy anh viết tờ khai và ký tên đi. Ai mà gởi anh tới đây sẽ bị tù, nếu anh không phải là dân Do Thái. Còn nếu anh là Do Thái thì anh sẽ ra khỏi trại để đi đày, anh biết chưa?

Moritz đứng gần cửa chờ viên phó quản viết tờ khai, rồi đưa cho anh ký tên. Trong tờ khai nói anh không phải dân Do Thái, và vì thế anh xin được thả về.

Viên phó quản nói:

- Anh về đi. Mai tôi gởi tờ này, rồi chúng ta chờ trả lời.

Moritz vừa đi ra vừa mỉm cười, tưởng chừng được thả về nhà trong nay mai.

Người lính gác chạy theo anh, kêu trở lại cho viên phó quản nói thêm:

- Anh Moritz à! Anh nghe tôi nói đây nhé! Tôi làm việc hơn hai mươi lăm năm rồi. Tôi là cha trong một gia đình, tôi không thể bỏ nghề nghiệp tôi vì lời khai của anh. Chuyện này không phải dễ như anh tưởng đâu? Anh tên Moritz. Nếu không phải Do Thái thì sao anh lại tên Moritz. Đó là một điều. Anh nói tiếng Do Thái, đó là hai điều. Anh có thấy người Roumain nào nói tiếng Do Thái không? Tôi đây, tôi đâu có nói tiếng đó?

Moritz đáp:

- Tôi mới học khi vào trại này! Tôi biết tiếng Đức nên khi mỗi ngày nghe tiếng Do Thái, thì tôi thuộc nó, vì không mấy khó.

Viên phó quản bèn nói:

- Đây này: thứ nhứt, anh có một tên Do Thái; thứ hai, anh nói tiếng Do Thái; thứ ba, giấy tờ của anh cũng ghi rõ anh là Do Thái. Làm sao tôi tin anh là người Roumain được?

Viên phó quản cầm tờ khai của Moritz vừa ký và quăng trên bàn viết, như quăng vào sọt giấy.

Moritz không ra khỏi phòng. Anh nghẹn ngào nói:

- Tôi thề các đấng thiêng liêng rằng tôi không phải Do Thái, ông à.

- Thì rồi sẽ rõ! Bây giờ tôi giữ tờ khai của anh đây, và làm phúc trình những nhận xét của tôi. Tôi là một người công bình và suốt đời tôi đều luôn luôn như vậy. Ngoài tờ khai của anh, tôi ghi thêm anh có một tên Do Thái mà anh không biết nguồn gốc ra sao. Anh nói tiếng Do Thái, song khai rằng anh vừa học ở trại, có chứng có cớ. Vậy trước khi anh tới đây, anh chưa biết tiếng đó phải không?

- Dạ không.

- Còn chuyện khác nữa. Anh đạo nào?

- Dạ, đạo chính thống.

Viên phó quản ngó anh một cách nghi ngờ rồi hỏi:

- Anh biết dân Do Thái làm lễ theo đạo của họ ra làm sao không?

- Dạ biết.

- Vậy anh không phải như họ sao?

- Tôi không có như vậy.

- Chắc không?

- Dạ, chắc ông à.

- Lại đứng gần cửa sổ, chỗ ánh sáng để cho tôi xem anh có phải như họ không!

Moritz đến gần cửa sổ; mở nút quần cổi ra, rồi đứng trần truồng ngó viên phó quản.

Ông này quở:

- Chuyện gì mà mắc cỡ đỏ mặt như đàn bà vậy? Đứng ra chỗ ánh sáng coi! Tôi muốn thấy tận mắt để biết rõ, đặng phúc trình.

Viên phó quản bước khỏi bàn giấy, đến quỳ xuống trước Moritz để xem xét kỹ lưỡng chỗ cắt da quanh quy đầu (theo lễ tục Do Thái). Y so sánh chỗ mắt thấy với chỗ đã thấy trước kia hoặc nghe nói lại, nhưng rồi y cũng không phân biệt được ra làm sao? Trong phúc trình lại phải nói cho rành rẽ. Y giận đỏ mặt, đứng dậy đốt điếu thuốc hút, rồi nói:

- Anh thật là làm lắm chuyện bận rộn! Bộ anh tưởng chánh phủ gởi tôi tới đây để xem cái này của anh sao? Tôi là một quân nhân, chuyện này không phải chuyện của tôi, nhưng tôi làm như thế là vì tôi muốn cho công bình. Biết đâu anh không phải Do Thái, mà tôi giữ anh ở đây làm gì?

Viên phó quản mở cửa hông, kêu Strul, tên lính gác, và biểu:

- Anh xét coi Moritz có bị cắt như của anh không?

Tên lính gác trước kia làm việc trong ngân hàng, nên việc gì cũng kỹ lưỡng rành rẽ và chăm chỉ như tính toán con số. Y quỳ trước Moritz, đưa tay rờ rẫm và xem tỉ mỉ. Chặp lâu, anh đứng dậy, ngay thẳng theo điệu nhà binh, nói:

- Nếu có chịu lễ cắt, thì chỉ sơ sơ ở ngoài thôi.

Viên phó quản hỏi:

- Sơ sơ là sao? Nói cho rành coi? Có hay không vậy là đủ rồi!

- Tôi không thể nói rõ ràng được. Hình như có dấu cắt một phần, nhưng không dám quả quyết là dấu của pháp sư Do Thái hay dấu do nguyên nhân nào khác gây nên.

Viên phó quản nói với Moritz:

- Anh thấy chưa? Chuyện anh rắc rối quá! Nhưng tôi cũng chuyển giấy tờ cho. Anh về đi. Strul ở lại giúp tôi thảo phúc trình.

Moritz đi ra, vừa nghĩ ngợi vừa gài nút quần. (33)

Sau khi Moritz bị bắt, mục sư Koruga đi tỉnh thành trở về, liền tới đồn hiến binh. Lúc ấy lối chín giờ sáng. Viên quản cũng vừa đi ra làng trở về. Y còn giận dữ, nên trả lời với mục sư:

- Tôi được lịnh sung công thì tôi cứ thi hành. Tôi không thể chỉ dẫn hơn được nữa. Tôi không biết gì hơn ông. Ông cứ đến tỉnh mà hỏi.

Mục sư nói:

- Moritz bị giam ở đồn hiến binh tỉnh sao?

- Không phải vậy. Tôi không biết. Nếu tôi biết cũng không nói với ông được. Đó là mật vụ quân sự. Sung công đàn ông để làm pháo lũy thì không được tiết lộ chỗ họ ở.

Mục sư đứng dậy, cám ơn rồi ra về. Buổi chiều, ông đi hỏi đồn hiến binh tỉnh. Moritz không có tại đó. Không ai nghe đến tên Moritz cả. Một viên sĩ quan hỏi mục sư:

- Người ấy phải dân Do Thái không?

- Anh ấy có đạo chính thống và là người trong giáo khu thuộc quyền tôi.

- Vậy thì không có gởi đến chúng tôi rồi. Ông về làng hỏi lại viên quản xem giấy tờ gởi người ấy số hiệu mấy? Hôm qua và bữa nay chúng tôi chỉ có nhận được mấy đoàn người Do Thái thôi. Người của ông không phải Do Thái thì không có trong số này.

Mục sư quả quyết:

- Anh ấy không phải là Do Thái.

Bữa sau, ông trở lại với số hiệu tờ phúc trình. Viên sĩ quan hôm qua kiếm trong sổ và trả lời:

- Rất tiếc tôi không cho ông được biết sự này vì là một hồ sơ cơ mật. Phải có Bộ Chiến tranh cho phép mới được.

Mục sư nói:

- Tôi chỉ muốn biết coi Moritz có bị bắt hay không, và chỗ ở hiện giờ của anh mà thôi. Chuyện ấy chắc đâu phải là cơ mật.

Viên sĩ quan đáp:

- Anh ấy bị bắt, nhưng chúng tôi không được phép cho biết là bị đem đi đâu. Vả lại, chúng tôi cũng không rõ nữa. Anh ấy đã bị giao qua Bộ Tham mưu, và Bộ Tham mưu không cho chúng tôi biết nơi họ đã gởi mấy người của chúng tôi giao cho, hoặc họ đã sử dụng mấy người ấy như thế nào.

Giọng nói của viên sĩ quan trở thành gắt gỏng, khi y thấy có tên Moritz trong sổ tù. Y ngó mục sư một cách khinh bỉ.

Mục sư ra về. Viên sĩ quan nói lớn sau lưng ông:

- Đó là một mục sư mà lại nói láo như anh chàng nhổ răng dạo. Hắn nói tên ấy có đạo chính thống ở trong giáo khu của hắn, thế mà trong sổ lại biên rõ tên ấy là Do Thái. Nếu hắn có trở lại, đuổi hắn ra ngoài. (34)

Mục sư viết thơ cho Traian để thuật chuyện Moritz bị bắt và yêu cầu con ông đến Bộ Chiến tranh biện hộ giùm. Ông tiếp được thơ của Traian trả lời đã vận động cùng khắp những nơi nào có thể được, và chỗ nào cũng hứa rằng Moritz sẽ được thả ra.

Sau khi nhận thơ ấy, hai, ba rồi bốn tuần lễ qua. Rồi hai tháng. Mùa hè đã hết, sang thu. Moritz vẫn chưa thấy về. Mục sư đến viếng ông quận. Dọc đường, ông gặp lão già Goldenberg, cha của Marcou, và mời lão lên xe đi. Lão Do Thái gầy ốm nhiều.

Lão quán nói:

- Từ ngày Marcou bị bắt đến nay, tôi không có tin tức gì của nó hết. (Lão thở dài). Tôi phí cả một gia tài để cho con đi học ở Đại Học đường Bucarest và Paris. Nó đậu tấn sĩ vừa mới về nhà, thì họ bắt nó và gởi đi đào hầm đào kinh. Làm như đi đào hầm mà nó phải học tới tấn sĩ luật!

Mục sư lấy ra ổ bánh mì nóng, cắt làm hai và đưa cho Goldenberg một phần. Hai người lẳng lặng ăn. Đường lên dốc, ngựa đi từng bước. Tới đỉnh đồi, lão Do Thái nói:

- Họ sung công nhà của tôi. Trong vài ngày nữa, tôi phải đi. Nếu không thì hiến binh tống cổ tôi ra. Cái nhà mà tôi cất với mồ hôi, công khó của tôi đó. Ban đầu Marcou bị sung công, bây giờ là nhà cửa. Tôi có tội gì vậy, ông mục sư?

Lão Do Thái ngưng nói. Con ngựa đứng lại.

Ông lão lại nói tiếp:

- Tôi chắc phải tự ải quá. Tôi kiệt sức rồi!

Con ngựa lại bước đi. Vô tới tỉnh thành, Goldenberg xuống xe. Mục sư thấy lão mất dạng trong những đường hẻm chật hẹp của xóm người Do Thái. (35)

Khi phân tay lão Goldenberg, mục sư đi thẳng lại dinh quận trưởng. Ông cho ngựa đi thong thả để ngó xem nhà cửa hai bên đường, nhà phố đông ken chồng chất, mấy từng lầu cao vòi vọi, cứ cao mãi lên...

Đến trước dinh quận, con ngựa tự ngừng một mình. Cứ mỗi tuần, mục sư đều đi đến đây để dò nghe tin tức Moritz. Con ngựa của ông đã quen thuộc đường lối mỗi khi ông lên tỉnh, nên khi tới trước dinh quận thì nó ngừng lại. Ông quận trưởng không mấy khi có tại văn phòng. Và lúc nào có thì ông lại mắc việc luôn. Mục sư Koruga chẳng khi nào được tiếp chuyện với ông. Mấy viên thơ ký và người gác cửa đều biết mục sư, nên mỗi lần đều mỉm cười chào ông, như để chia sự chờ đợi với ông. Hôm nay, viên thơ ký ngó ông cười, khác hơn mọi lần, và nói:

- Ông quận trưởng sẽ tiếp ông. Ông chờ chừng nửa giờ thì tới phiên ông.

Một giờ sau, mục sư mới gặp được ông quận trưởng. Ông bèn trình bày:

- Một thanh niên trong giáo khu tôi bị bắt, hơn sáu tháng nay. Tôi ước ao được biết chỗ anh ở hiện giờ tại đâu, và tại sao anh bị bắt? Tôi nghe nói anh ấy ở chung trại giam với người Do Thái. Nhưng anh ấy là dân Roumain và có đạo chính thống. Chính tôi làm lễ thánh cho anh ta. Tôi ước ao muốn xin cho anh ta được thả.

Ông quận trưởng nói:

- Theo lệ, tôi không chịu xét tới những vụ can thiệp.

- Nhưng người tôi nói đây không có tội gì hết.

Ông quận trưởng cãi lại:

- Song ông vừa mới nói người ấy ở trong trại giam Do Thái đây!

- Nhưng nó không phải dân Do Thái.

- Thì cũng vậy. Khi anh ấy ở trong trại giam Do Thái, thì anh đã ở trong luật hình và thể thức riêng biệt không thuộc quyền của tôi. Đó là điều thứ nhứt. Còn điều thứ nhì mà tôi cho là quan trọng hơn, bởi đó nên tôi mới tiếp ông đây, tôi nói cho ông biết: tôi không thích các mục sư trong vùng của tôi, thay vì lo chuyện trong giáo khu mình, lại lo chạy chọt, can thiệp luôn luôn với nhà cầm quyền đủ thứ điều yêu sách. Ta ở trong tình trạng chiến tranh thì mỗi người phải ở trong chức vụ mình. Đây là lời tôi chánh thức cảnh cáo ông. Tôi không muốn bắt buộc phải thi hành những biện pháp trừng trị đối với ông.

Mục sư nói:

- Làm việc ích lợi cho người và cho Công lý, tức là làm việc cho Giáo hội và cho Chúa. Tôi can thiệp cho Moritz tức là can thiệp cho Giáo hội và cho Chúa. Đó là nhiệm vụ mục sư của tôi. Những chuyện xảy đến cho Moritz thật là bất công.

- “Chỉ bất công trong trí tưởng tượng của ông mà thôi”. Giọng của ông quận trưởng trở thành gắt gỏng: “Chúng ta đang ở vào tình trạng chiến tranh. Chúng ta chiến đấu vì Tổ quốc, và Giáo hội chiến đấu chống quỷ vương phản đối Cơ Đốc giáo. Gởi một kẻ vô danh đi làm pháo lũy để phụng sự cho mục đích tối cao của chúng ta mà ông quả quyết cho là bất công à?”

Mục sư đáp:

- Tên ấy là một con người. Con người ấy bị bắt và bị đày đi khổ sai mà không có tội gì; vả lại, cũng không có lên án xử nữa.

- Chuyện nhảm! Thưa Cha, nếu phải lo đến từng người riêng rẽ, thì làn sóng đỏ sẽ tràn ngập ta và rồi ta sẽ bị chết treo trên một sợi dây, mà Cha là người trước tiên vậy. Chúng tôi đang quyết tâm chiến đấu cho Thập tự giá đây!

- Kẻ nào không kể đến một mạng người thì không thể tự cho rằng chiến đấu cho Thập tự giá được. Không ai vừa là người bảo vệ, vừa là kẻ thù của Thập tự giá.

- Bộ Cha muốn chúng tôi thả Moritz ra và để cho bọn Cộng sản tràn vô xứ sở, đốt phá nhà thờ, cưỡng bức đàn bà và xiềng xích chúng ta sao? Cha hiểu chiến đấu cho Giáo hội là như thế đó à?

- Dầu một lý tưởng cao cả đến đâu, quốc gia, xã hội hay tôn giáo, cũng không thể tha thứ được chuyện bất công đối với một người. Nhân danh Chúa mà bắt người vô tội làm tôi mọi, thật là một tội ác đối với Chúa.

- Cha có chắc chắn người ấy không phải Do Thái chăng?

- Tôi chắc chắn là không.

- Thế thì đó là một chuyện hết sức vô liêm sỉ. Kẻ thủ phạm sẽ bị trừng trị. Ai ra lịnh sung công vậy?

- Tôi không biết. Từ sáu tháng nay, tôi đi hỏi cùng khắp các cơ quan chánh quyền: nơi cảnh sát cuộc, sở hiến binh và trong quân đội. Đâu đâu cũng không ai chịu nói cho tôi biết. Họ đều trả lời với tôi là một cơ mật.

- Đó là lẽ dĩ nhiên. Các chuyện ấy là tối cơ mật. Tôi đây, tôi cũng không thể làm sao nói cho Cha biết được nữa. Trước hết Cha phải đến Bộ Tham mưu. Khi có giấy phép, Cha đem lại đây, chúng tôi sẽ lục trong hồ sơ và chừng đó mới biết ai ký giấy sung công. Nếu là một sự lạm quyền, thì chắc chắn người nào đó sẽ bị nghiêm trị để làm gương. Nhưng trước khi có tờ giấy phép chính thức cho Cha lo vụ này, thì chúng tôi không thể nói gì thêm được nữa!

Ông quận trưởng đứng dậy, chỉ nghĩa là cuộc tiếp kiến chấm dứt. Mục sư vẫn ngồi yên, nói:

- Thưa ông quận trưởng, có thể nào con người đi đến một mức độ vô giác lãnh đạm như một cái máy, mà làm ngơ như không nghe tiếng kêu cứu của đồng loại mình hay sao? Tôi không tưởng tượng được ông không hiểu lời yêu cầu của tôi. Ông là một Người. Con Người thì có cảm giác, có tâm hồn. Một Người đâu thể là một cái máy. Và thật tình, ông có nhận định chuyện oan ức của Moritz không?

- Thưa Cha, thành thật mà nói, tôi xin thú nhận rằng tôi lấy làm tiếc không thể làm hơn được nữa với Cha. Tôi tin Cha có lý. Tôi nói như thế vì tôi là con của một mục sư. Theo lẽ thì tôi không quan tâm đến vấn đề Do Thái, đảng Franc-Maçon hay những kẻ giữ ngục, vì đó là những chuyện nguy hiểm, mó đến có thể gây vạ cho mình. Tôi là một công chức, và tôi không muốn làm hỏng đời công chức của tôi. Tôi không muốn xen vô, chỉ có thế thôi.

Mục sư đứng dậy. Ông quận trưởng bắt tay ông và nói:

- Tôi rất tiếc không làm được việc gì cho người của Cha. Anh ấy tên gì? Ờ, tên Moritz. Chuyện nào khác Cha cứ đến, tôi sẽ hết lòng. (36)

Ra khỏi tỉnh thành, mục sư ghé vào một ngôi nhà thờ. Ông nghĩ đến mọi người, từ viên quản ở làng Fântâna, ông quận trưởng, viên sĩ quan trẻ tuổi ở đồn hiến binh, mấy người lính cảnh sát, đến các công chức đã bắt ông chờ ngoài cửa, và giam giữ Moritz tong tù. Ông giở nón ra, và đọc câu cầu nguyện của W. H. Auden:

“Và bây giờ xin cầu nguyện cho những người có nắm được một chút uy quyền, cầu nguyện cho những ai, mà qua tay họ, chúng ta phải chịu nỗi chuyên chế tàn bạo chung của quốc gia, cầu nguyện cho những người điều tra hết sức rồi còn thẩm vấn lại, cầu nguyện cho tất cả những người cấp giấy phép và ban bố lịnh cấm ngăn, cầu nguyện cho họ không đến đỗi coi chữ viết và con số là thật sự hơn máu và thịt... Xin Chúa ban phước cho chúng con, những công dân trên trần, cho chúng con đừng lầm lẫn người với chức vụ của họ. Chúa ban cho chúng con luôn luôn được sáng suốt để nhận định rằng chính do tật nóng nảy hay tật lười biếng, do sự lạm quyền hay lòng lo sợ tự do, do những chuyện bất công của chúng con mà phát sinh ra Quốc gia này, cái quốc gia mà chúng con phải gánh chịu để được giải thoát và được ân xá tội lỗi của chúng con!”.

Mục sư đội nón lên đầu bạc phơ, ra xe, lên đường trở về Fântâna. Đến ngã tư, ông gặp lão Goldenberg cũng đi lên tỉnh về. Tới ngang lão Do Thái, con ngựa dừng bước. Nó biết lão và cũng biết chủ nó luôn luôn cho lão lên xe, khi gặp dọc đường. (37)

Viên quản tại Fântâna được lịnh làm một bảng kê khai tài sản của các dân Do Thái trong làng. Y đã khai những gì Goldenberg có, nhưng chưa gởi đi. Y biết Moritz cũng ở trong trại Do Thái. Lúc gởi Moritz với lịnh sung công cho sở hiến binh tỉnh, y không nói Moritz là Do Thái. Nếu khai như thế thì thành ra giả mạo, vì Moritz là dân Roumain. Lịnh sung công đi làm nhắm vào dân Do Thái và hạng bất hảo. Y liệt Moritz vào hạng sau này! Đó là hợp pháp. Ai cũng có thể bị y cho là một phần tử bất hảo. Vì luật pháp không quy định rõ rệt về điểm này. Nhưng tại sở hiến binh tỉnh thì Moritz bị ghi vào sổ dân Do Thái. Đó là lỗi nơi sở hiến binh, hay đúng hơn, lỗi của Moritz, vì anh ta có một cái tên Do Thái. Viên quản bắt đầu hối hận chuyện đã xảy ra. Y tưởng đâu Moritz bị giữ chừng vài tuần lễ thôi. Nhưng sáu tháng đã qua. Bây giờ lại được lịnh kê khai tài sản dân Do Thái. Theo lẽ công bình thì nhà Moritz không bị sung công. Nhưng trong sổ sở hiến binh gởi đến thì có tên hai người Do Thái trong làng: Goldenberg và Moritz.

Viên quản nát óc tìm một giải pháp. Nếu khai Moritz không phải Do Thái, và vì thế, không thể biên vô tờ kê khai tài sản nhà cửa Moritz, thì chắc sẽ có một lịnh tra xét coi tại sao Moritz bị bắt. Y không muốn bị điều tra. Y muốn bỏ qua, vì Suzanna có thể thưa y. Phải tìm kế khác. Y hỏi ý kiến Goldenberg.

Lão chỉ dẫn:

- Nếu Suzanna chịu ly dị, thì nàng có quyền giữ nhà cửa. Không có chứng cớ nàng là Do Thái. Vả lại, ở thành, mấy người Do Thái có vợ có đạo đều làm như vậy.

Viên quản suy nghĩ chắc không khi nào Suzanna chịu ly dị. Nàng biết Moritz không phải Do Thái, thì thế nào cũng vỡ lở to chuyện. Nhứt là khi nàng mướn trạng sư. Thế nào y cũng bị tra xét.

Lão Goldenberg nói:

- Cuộc ly dị dễ lắm. Miễn có chữ ký của người đàn bà khai rằng mình xin ly dị vì “lý do chủng tộc”. Đơn xin sẽ được chấp thuận liền, khỏi có phiên thẩm vấn. Giấy tờ gởi theo hệ thống hành chánh là đủ. Đó là luật mới. (38)

Viên quản viết đơn xin ly dị như chính Suzanna đứng xin, rồi đến nhà nàng để lấy chữ ký tên. Y nói với Suzanna:

- Chồng mầy ở trong trại giam Do Thái. Tao được lịnh sung công nhà cửa mầy vì trong giấy tờ thì Moritz là dân Do Thái. Nhưng tao biết nó không phải Do Thái. Bị cái tên nó hại nó. Tại sao nó lại có tên Moritz?

Suzanna đứng nghe, cằm dựa vào cửa rào. Nàng ngó sửng viên quản rồi hai hàng nước mắt tuôn dầm dề. Nàng nói:

- Ông bắt chồng tôi, ông lại muốn lấy luôn nhà cửa tôi nữa. Tôi sẽ giết ông, dẫu ông là hiến binh! Ông không lấy được nhà của tôi đâu!

Suzanna cúi lượm một viên đá lớn, liệng bổng ra ngoài cửa. Viên quản nhảy trái một bên, nói:

- Tao đâu có lấy nhà của mầy. Tao đem cái giấy này cho mầy ký tên để có thể giữ cái nhà mầy lại.

Y đưa tờ giấy và cây viết máy cho Suzanna. Nàng cầm mà không đọc được, vì còn đầy nước mắt. Nàng hỏi:

- Giấy viết gì ở trỏng?

- Đơn xin ly dị. Chỉ là một thể thức để mầy có thể giữ cái nhà mầy mà thôi.

Nàng la lớn:

- Mầy muốn buộc tao ly dị hả?

Nàng như con hổ cái, muốn xé viên quản ra từng mảnh. Lòn tay qua cửa, y nắm tay nàng để trấn tĩnh nàng. Y nói:

- Không phải ly dị thật, chỉ làm cho có lệ thôi. Nếu mầy không ký tên thì trong vài ngày nữa tao buộc phải đuổi mầy ra khỏi nhà. Rồi mầy đi đâu, trong lúc trời đông lạnh lẽo này, mầy với mấy đứa con, tay dắt tay bồng?

Suzanna không thèm nghe, nói tiếp:

- Iani là chồng tôi. Thà chết chớ không lìa xa chàng!

Viên quản đứng ngoài cửa chờ hơn một giờ. Suzanna mệt mỏi vì đã khóc nhiều. Nàng vô nhà. Rồi nàng trở ra cửa. Nàng lượm đá liệng y. Nàng xách rựa ra hăm dọa y. Sau cùng, nàng nghĩ: “Thà ký tên một cái giấy hơn là bị đuổi ra khỏi nhà. Chừng Moritz về tất sẽ hiểu và tha thứ cho mình. Moritz sẽ thấy mình còn chung thủy và lo làm ăn, giữ được nhà cửa và săn sóc con cái. Mình là vợ chàng và chỉ có một mình chàng mà thôi!”

Thế là nàng ký tên.

Viên quản bỏ tờ giấy vô túi, đi về. Bây giờ y có thể ngủ yên: hết còn lo sợ điều tra!

Nếu đại úy có đến điều tra, y có thể bị câu lưu vài ba ngày thôi, không có gì nguy hiểm nữa. Y mỉm cười, huýt sáo. (39)

Tù ở trại giam Moritz có thể trốn được, vì chỉ có năm người lính gác. Nhưng họ biết rồi một ngày kia cũng bị bắt lại nên không ai muốn trốn.

Marcou đã trốn, nhưng dọc đường lại gặp viên phó quản trại giam. Bây giờ anh đã trở lại tù. Viên phó quản tụ họp tù binh trước giờ đi làm và hỏi:

- Bây giờ ta phải làm sao? Giam Marcou giao cho Tòa án quân sự, hay để nó ở đây? Mấy người chịu bảo đảm giữ gìn nó đừng vượt ngục nữa chăng?

Bọn tù chịu lãnh trách nhiệm giữ Marcou. Từ trước đến giờ, hắn không có lúc nào đào kinh, vì cứ bịnh hoạn luôn, và được để ở phòng giấy coi về lương thực. Bây giờ ông già Lengyel đưa cho anh một cái xuổng và chỉ phần đất cho anh ta đào.

Marcou từ chối. Thà bị chặt tay hơn đào một tấc đất nào. Hắn nói:

- Việc này phản lại với chủ nghĩa chánh trị của tôi.

Bọn tù bao chung quanh hắn, không ai đào kinh vì chủ nghĩa chánh trị bao giờ. Vì vậy họ tò mò nóng nghe. Marcou bèn giải thích:

- Kinh này đào để chận làn sóng Cộng sản. Tôi là một đảng viên cộng sản. Tôi không muốn ngăn đường đi của đồng chí tôi!

Bọn tù khen cử chỉ can đảm của Marcou. Họ đều tán thành. Nhưng khi nghe nói phần đất mà Marcou không đào, thì họ phải đào, nhiệt tình của họ liền hạ xuống ngay, họ liền hết hoan nghinh. Ông già Lengyel ra lịnh đi làm việc và hứa sẽ thu xếp việc này.

Khi ai nấy khởi đào đất, thì ông Lengyel đến gần Marcou đang đứng gần mé kinh, hai tay thọc túi quần, ông nói:

- Do Thái chúng ta có một đức tính mà không một dân tộc Tây phương nào sánh kịp. Chúng ta biết nhân nhượng hòa giải nhau. Dân tộc ta cũng khá khôn ngoan để quý trọng sự thỏa hiệp và khinh khi cử chỉ quyết liệt. Đó là một đức tính cổ truyền Đông phương anh biết chớ? Kẻ nào biết dung hòa hai bên là một nhà hiền triết. Anh đã khinh thường sự khôn ngoan ấy và bày tỏ lập trường, quên rằng cử chỉ ấy là đặc tính của dân lạc hậu, dân háo chiến sao? Dân tộc văn minh và tinh nhã có thể có nhiều thái độ cùng một lúc, và có quyền lựa chọn trong các thái độ ấy, cái nào phù hợp với hoàn cảnh mình hơn. Nếu anh không muốn đếm xỉa đến lối khôn ngoan ấy, đó là tự nơi anh. Chúng tôi cũng hiểu rằng anh không muốn đào kinh.

Marcou quả quyết: “Không khi nào!”

- Nhưng phần đất của anh, mỗi ngày phải có người đào, suốt thời gian anh ở đây. Từ trước, anh nằm nhà thương. Kể từ hôm nay...

Marcou ngắt lời ông:

- Tôi biết, nhưng tôi không đào!

- Nếu anh không làm, thì chúng tôi phải làm thế anh. Bữa nay đã làm rồi. Không lẽ anh cứ ở không, thọc tay vô túi, trong lúc chúng tôi làm công việc của anh sao?

Marcou trả lời, giọng khinh bỉ:

- Nào tôi có xin làm đâu! Nếu các người muốn làm thì tự ý các người. Nếu