← Quay lại trang sách

Chương 1.

Với điệu bộ gắng gượng một cách trịnh trọng, cha Anghen ngồi dậy. Cha dùng những ngón tay xương xẩu dụi mắt, vén tấm màn lên, rồi ngồi yên trên chiếc chiếu sờn, nghĩ ngợi một lát đủ để nhận ra rằng mình còn sống và nhớ ngày cùng tên với vị thành của ngày hôm đó. “Thứ tư ngày mồng bốn tháng mười” cha nghĩ, và sau đó cha nói nhỏ: “Thánh Phrăngxixcô đê Axit”.

Cha mặc quần áo mà chẳng cần phải rửa mặt và cầu kinh. Cha to cao, hồng hào, có dáng vẻ trầm tĩnh của con bò mộng hiền lành, đi lại chậm chạp như một con bò “với điệu bộ nặng nề và buồn bã”. Sau khi đã kiểm tra lại hàng cúc áo thụng với sự chăm chú hờ hững của những ngón tay cha từng gảy đàn thụ cầm, cha rút thanh chắn cửa và mở cửa ăn thông ra sàn. Những cây cam tùng dưới mưa gợi cha nhớ tới lời của một bài hát:

“Biển dâng đầy với chính nước mắt em” – cha thở dài.

Phòng ngủ ăn thông với nhà thờ nhờ một hành lang trong có bày các chậu cảnh và được lát gạch không có vữa nên cỏ tháng mười bắt đầu nhú mầm ngoi lên từ những khe hở ấy. Trước khi bước vào nhà thờ, cha Anghen vào nhà vệ sinh. Cha đái nhiều và vì thế trong lúc đái cha cố nín thở để khỏi ngửi thấy mùi acmônic nồng nặc từng khiến cha phải chảy nước mắt. Sau đó cha bước ra hành lang, vừa đi vừa nhớ: “Con tàu này sẽ đưa ta vào giấc mơ”. Tại cửa hẹp của nhà thờ, lần cuối cùng cha ngửi thấy mùi hoa cam tùng.

Bên trong nhà thờ không khí đượm mùi khó chịu. Gian giữa của nhà thờ là một phòng dài, cũng được lát gạch rời và chỉ có một cửa to ăn thông ra quảng trường. Cha Anghen đi thẳng đến chân tháp chuông. Cha nhìn những quả lắc đồng hồ cách đầu mình chừng hơn một mét và nghĩ rằng dây cót còn đủ sức chạy cả tuần. Những con muỗi xăngcuđô[1] ào đến tấn công cha. Cha đập tay mạnh lên gáy mình giết được một con muỗi và sau đó cha lau máu trên bàn tay mình vào dây chuông. Sau đó cha nghe rõ tiếng động từ bên trong của hộ máy đồng hồ và tiếp đó năm tiếng chuông ngân vang báo năm giờ ngay trong lòng tháp chuông.

Cha chờ cho đến khi tiếng chuông đồng hồ không ngân nữa. Cha cầm lấy dây chuông, cuộn nó quanh cổ tay mình, rồi với thái độ quả quyết và dứt khoát cha kéo dây khiến những quả chuông đồng rung ngân. Cha đã sáu mươi mốt tuổi. Đối với tuổi của cha, công việc kéo chuông hàng ngày là một cực hình nhưng bao giờ cha cũng cố gắng làm và sự cố gắng ấy đã làm lành mạnh thêm đạo đức của cha.

Trong lúc chuông nhà thờ rung ngân, Trinidat đẩy cửa ăn thông ra đường, bước vào rồi đi thẳng đến xó đêm qua có đặt bẫy chuột. Trinidat bắt gặp một cái gì đó vừa khiến cô sợ, vừa khiến cô vui: một con chuột chết.

Cô mở cái bẫy thứ nhất, dùng ngón trỏ và ngón cái nhúm lấy đuôi con vật chết, lôi nó ra rồi ném vào thùng các-tông. Cha Anghen vừa mở cửa nhà thờ ăn thông ra quảng trường.

- Chào cha – Trinidat nói.

Cha vẫn chưa để ý đến tiếng nói trong trẻo và dịu dàng của cô. Quảng trường hiu quạnh, những cây bàng đang gọi mưa, làng vẫn im lim trong buổi bình minh buồn bã của tháng mười, tất cả những thứ ấy gây cho cha cảm giác cô đơn không nơi nương tựa.

Nhưng khi đã làm quen với tiếng mưa rơi, cha đã nhận ra tiếng kèn đồng của Paxto ở phía sau quảng trường, tiếng kèn thổi nghe rụt rè và không được thực lắm.

- Paxto không cùng chơi với nhóm nhạc đêm sao?

- Không ạ! – Trinidat khẳng định với cha. Cô mang chiếc hộp đựng con chuột chết đến gần cha – Nhóm nhạc ấy đang chơi ghi ta ạ.

- Có lẽ họ chơi gần hai giờ cái bài hát ngu ngốc ấy – Cha nói “Biển sẽ dâng trào cùng nước mắt em”. Không đúng thế sao?

- Đó là bài hát mới của Paxto – Trinidat nói.

Đứng im trước cửa nhà thờ, cha cảm nhận cái khoảnh khắc rực rỡ trí thông minh.

Trong rất nhiều năm, cha nghe tiếng kèn của Paxto, người ngồi trên chiếc ghế đẩu dựa lưng vào chuồng chim bồ câu của mình cách nhà thờ bốn ô phố, tập luyện vào lúc năm giờ sáng hàng ngày. Đó chính là cơ chế hoạt động của làng bị đè nén: Trước tiên, năm tiếng chuông báo năm giờ sáng; Sau đó, chuông gọi con chiên đi lễ misa buổi sáng, và cuối cùng là tiếng kèn đồng của Paxto. Ngay ở sân nhà mình, bằng những nốt nhạc trong trẻo và hài hòa, anh thổi kèn làm thanh sạch bầu không khí nặng mùi phân chim bồ câu.

- Nhạc hay lắm – cha phản ứng – nhưng lời rất ngu xuẩn. Lời của nó có thể đảo ngược đảo xuôi mà nhạc vẫn giữ nguyên: “Giấc mơ này sẽ đưa em vào con tàu anh”.

Cha quay nửa vòng, mỉm cười với chiến tích của mình, rồi đi thẳng đến bàn thờ chúa thắp đèn. Trinidat theo sau cha. Cô mặc chiếc áo thụng trắng dài, ống tay áo trùm kín cổ tay. Đôi mắt cô đen láy.

- Cả đêm bọn họ ở gần đây – cha nói.

- Ở chỗ Margôt Ramirêt ạ – Trinidat nói, vẻ thích thú, vừa nói vừa lúc lắc cái hộp các- tông khiến các con chuột chết va phải thành hộp làm vang lên tiếng động ở bên trong…

- Nhưng đêm qua có chuyện còn hay hơn cả buổi chơi nhạc đêm đấy, thưa cha.

Cha dừng lại dõi đôi mắt xanh lặng lẽ nhìn vào mắt cô.

- Gì thế hả?

- Những lời đồn đại – Trinidat trả lời và buông ra một tiếng cười sợ hãi.

Cách đây ba ngôi nhà, Xêxa Môngtêrô đang mơ thấy đàn voi. Ông ta đã nhìn thấy voi trong một bộ phim hôm chủ nhật. Mưa rơi trước lúc phim kết thúc nửa giờ đồng hồ và giờ đây những hình ảnh của bộ phim lại tiếp tục hiện về trong giấc mơ của ông.

Xêxa Môngtêrô xoay toàn bộ tấm thân lực lưỡng của mình về phía tường, trong khi đó những người Anhđiêng hoảng hốt chạy trốn bầy voi. Cô vợ ông khẽ đẩy ông nhưng cả hai không ai thức dậy. “Chúng ta cũng đi thôi”, ông thầm thì nói và nằm lại theo tư thế cũ.

Chính lúc ấy, ông thức dậy. Đó cũng là lúc vang lên hồi chuông thứ hai gọi con chiên đi lễ misa.

Phòng ngủ của ông là một phòng có những khoảng không rộng được chăng dây thép gai. Cửa sổ nhìn ra quãng trường cũng được chăng dây thép gai; có một tấm rèm vải hoa màu vàng. Trên chiếc bàn con có để một chiếc đài xách tay, một ngọn đèn và một chiếc đồng hồ dạ quang. Phía bên kia, đối diện với tường phòng là một chiếc tủ lớn có các cửa gương. Trong lúc đi ủng cưỡi ngựa, Xêxa Môngtêrô nghe thấy tiếng kêu của Paxto. Những chiếc dây giày bằng da thú dính đầy bùn khô. Một bàn tay nắm chắc lấy dây giày còn bàn tay kia cố kéo thẳng nó ra cho bùn khô rụng đi. Sau đó ông tìm cựa thúc ngựa nhưng không thấy chúng ở dưới gầm giường. Ông tiếp tục vận quần áo trong bóng tối, cố không gây tiếng động để khỏi đánh thức vợ dậy. Khi đóng hàng cúc áo, ông liếc mắt nhìn đồng hồ và lại đi tìm cựa thúc ngựa ở dưới gầm giường. Thoạt đầu ông dùng tay sờ tìm. Sau đó ông phải cúi chổng mông để với tay vào sàn trong gầm giường mà khua khoắng. Vợ ông thức dậy.

- Anh tìm gì vậy?

- Cựa thúc ngựa.

- Anh treo chúng ở phía sau tủ gương, chính tay anh treo chúng ở đấy hôm thứ bảy.

Cô vợ vén màn sang một bên rồi thắp đèn. Ông đứng dậy vẻ bẽn lẽn. Ông to cao như hộ pháp, lưng vuông vức và rắn chắc nhưng vẫn lanh lẹn. Ông có một sức khỏe khỏe tàn bạo. Dường như ông không có tuổi. Nhưng da cổ của ông cho ta thấy ông đã ngoài năm mươi tuổi.

- Trời vẫn mưa cô vợ nói trong lúc cảm thấy rằng xương cốt trẻ trung của mình đã thấm đầy hơi ẩm ban đêm – Em cảm thấy mình như một con bọt biển.

Cô vợ người nhỏ nhắn, gầy gò, sống mũi dài, vẫn có vẻ như chưa tỉnh ngủ hẳn. Cô cố tình nhìn mưa qua tấm rèm cửa. Xêxa Môngtêrô vừa đi xong cựa thúc ngựa. Ông đứng dậy, giậm gót ủng vài lần trên sàn nhà. Ngôi nhà rung lên trước những cú đinh thúc ngựa bằng đồng chạm phải nền nhà.

- Tháng mười, bọn họ béo ra – Ông nói.

Nhưng vợ ông không nghe nói, cô vẫn thả tâm hồn mình theo bản nhạc của Paxto. Khi cô vợ quay lại nhìn chồng thì ông đang chải tóc, hai chân chạng ra đầu cúi xuống nhưng thân hình ông vẫn không nằm gọn trong tấm gương.

Cô vợ thầm thì hát theo bài hát của Paxto.

- Cái bài hát ấy cứ i ỉ hát suốt đêm qua – ông nói.

- Bài hát rất hay – có vợ nhận xét.

Cô vợ cởi nút một chiếc dây ở đầu giường và đỡ lấy mái tóc ở sau gáy, thở dài và tỉnh dậy hoàn toàn: “Em sẽ ở lại trong giấc mơ anh cho đến khi chết”. Ông không để ý đến lời bài hát. Ông rút ví tiền để trong ngăn kéo tủ có để vài hạt ngọc, chiếc bút máy và một đồng hồ nữ. Ông rút lấy bốn tờ bạc rồi cất ví vào chỗ cũ. Sau đó ông nhét sáu viên đạn vào túi áo.

- Nếu trời vẫn mưa, thứ bảy này anh không về – ông nói.

Khi mở cửa ăn thông ra sàn, ông dừng lại ít phút trong bóng tối hít thở thứ hương dịu nhẹ của tháng mười trong lúc mắt ông làm quen với bóng tối. Ông sắp đóng cửa lại thì nghe thấy tiếng chuông đồng hồ báo thức vang lên trong phòng ngủ.

Vợ ông bật dậy khỏi giường. Ông ngừng lại, bàn tay đặt vào cái chuông gọi cửa, đợi cho đến khi cô vợ hãm được chuông đồng hồ. Lần đầu tiên ông nhìn vợ vẻ suy tư.

- Đêm qua anh nằm mơ thấy voi đấy em ạ – ông nói.

Sau đó ông đóng cửa lại và đi thẳng lên tầu ngựa để thắng yên.

Mưa to thêm trước lúc hồi chuông thứ ba vang lên.

Cơn gió mạnh cuốn bay nốt những chiếc lá mục dưới cùng của những cây bàng ngoài quảng trường. Đèn đã tắt nhưng các nhà vẫn im ỉm đóng cửa. Xêxa Môngtêrô cho lừa đi vào nhà bếp. Không xuống lừa, ông gọi vợ mang cho chiếc áo mưa. Ông lấy khẩu súng hai nòng vốn đeo ở sau lưng ra rồi buộc nó bên yên lừa. Vợ ông xuất hiện ở nhà ăn mang theo chiếc áo mưa.

- Anh hãy đợi cho đến khi trời tạnh – cô vợ nói.

Ông lặng lẽ mặc áo mưa sau đó ông nhìn ra ngoài sân.

- Đến tháng chạp, trời vẫn chưa tạnh cho – ông nói.

Cô vợ nhìn theo cho đến khi ông đến đầu hè bên kia. Mưa vần vũ trên những tấm tôn rỉ lợp nhà, nhưng ông vẫn ra đi. Trong lúc thúc lừa đi, ông phải cúi mình trên yên để khỏi va đầu vào bản cửa khi ra sân. Những hạt mưa to rơi nặng vào lưng ông cứ như thể ai đó ném sạn vào ông. Từ ngoài cổng không quay đầu lại, ông gào:

- Thứ bảy anh về, chào em!

- Thứ bảy anh về nhé, chào anh.

Cửa duy nhất mở ở quảng trường là cửa của nhà thờ. Xêxa Môngtêrô nhìn lên trời và thấy bầu trời đầy mây, thấp tè. Dường như ở ngay trên đầu ông. Ông phấn chấn hẳn lên, thúc cựa giày vào con lừa, khiến nó phải nhảy cẫng lên xoay người vài vòng quanh hai chân sau cho đến khi con vật đứng vững vàng trên nền đất trơn như xà phòng. Đó cũng là lúc ông nhìn thấy trên cửa nhà mình có tờ giấy dán.

Ông vẫn ngồi yên trên yên lừa đọc tờ giấy. Mưa làm phai màu chữ nhưng vì được viết bằng chì nên ông vẫn có thể đọc được. Xêxa Môngtêrô cho con lừa đi lại gần tường, ông bóc tờ giấy rồi xé vụn nó thành nhiều mảnh.

Ông giật dây cương cho con lừa phi bước ngắn để nó có thể đi nhiều giờ. Ông bỏ quảng trường lại phía sau mình, cho con lừa đi theo một đường hẹp, ngoằn ngoèo có những ngôi nhà tường đất. Ông cảm nhận mùi cà phê. Chỉ khi để lại phía sau mình những ngôi nhà cuối cùng của làng, lúc ấy ông cho con lừa quay lại, phi bước ngắn và dừng lại trước nhà Paxto. Tại đây ông xuống lừa cầm lấy khẩu súng và buộc con lừa vào cọc. Ông làm việc nào ra việc ấy.

Cửa nhà không chèn thang chắn. Xêxa Môngtêrô bước vào nhà qua cửa nhỏ. Ông cảm thấy một nốt nhạc đinh tai và sau đó là im lặng đột ngột. Ông đi qua bốn chiếc ghế xếp ngay ngắn đặt xung quanh một chiếc bàn có hình hoa giấy. Cuối cùng, ông dừng lại trước cửa ăn thông ra sàn, hất ngược chiếc mũ áo mưa ra phía sau, lần tìm chiếc cò súng và bằng giọng bình thản, gần như đáng yêu gọi.

- Paxto ơi!

Paxto xuất hiện ở cửa, đang tháo lưỡi gà chiếc kèn đồng ra. Anh là một chàng trai to lớn, son sẻ, có hàng ria mép tỉa rất gọn. Khi nhìn thấy Xêxa Môngtêrô đứng vững vàng trên nền đất, tay lăm lăm khẩu súng ngang thắt lưng, nòng chĩa về phía mình, Paxto há hốc mồm. Nhưng anh không nói gì. Mặt anh tái nhợt nhưng vẫn mỉm cười. Thoạt đầu. Xêxa Môngtêrô miết chặt gót ủng xuống sàn nhà, sau đó, khuỷu tay miết chặt lấy báng súng, cuối cùng ông nghiến răng lại và ngón tay siết cò súng. Ngôi nhà rung chuyển cùng với tiếng súng nổ, nhưng Xêxa Môngtêrô không biết niềm vui của mình xảy ra trước hay sau khi ông nhìn theo Paxto từ phía bên kia cửa đang lê tấm thân trên đám lông mượt đẫm máu.

Xã trưởng vừa ngủ được vào lúc có tiếng súng nổ. Đã ba đêm nay ngài thức trắng vì đau lợi. Buổi sáng ấy lúc hồi chuông thứ nhất vang lên gọi con chiên đi lễ misa, ngài uống đến viên thuốc giảm đau thứ tám. Cái đau dịu đi. Tiếng mưa rơi đều đều trên mái tôn ru ngài ngủ nhưng cái lợi đau vẫn làm cho ngài khó chịu trong lúc ngủ. Khi nghe thấy tiếng súng, ngài thức dậy ngay, tay vớ lấy chiếc thắt lưng có băng đạn và khẩu súng ngắn mà lúc nào ngài cũng để trên chiếc ghế bên cạnh đầu võng, ngay trong tầm tay phải. Nhưng vì chỉ nghe thấy tiếng mưa rơi đều đều ngài tưởng rằng mình nằm mộng và thế là ngài lại cảm thấy đau lợi.

Ngài sốt nhẹ. Trong gương ngài thấy má mình sưng vù lớn. Ngài mở nắp hộp lấy dầu cao bôi lên cái má sưng vù và không được cạo râu. Qua màn mưa, bỗng ngài nghe thấy người nói ồn ào từ phía xa. Ngài bước ra ban công. Dân chúng ngoài đường, có một số còn mặc đồ ngủ đang chạy ra quảng trường. Một cậu thanh niên quay mặt về phía ngài, giơ tay lên, vừa chạy vừa gào để báo tin cho ngài:

- Xêxa Môngtêrô giết chết Paxto rồi.

Tại quảng trường, Xêxa Môngtêrô tay lăm lăm khẩu súng chĩa về phía đám đông và cho con lừa đi vòng tròn. Khó khăn lắm xã trưởng mới nhận ra Xêxa Môngtêrô. Tay phải ngài nhanh chóng rút súng lục ra và ngài bắt đầu tiến về phía trung tâm quảng trường. Dân chúng dãn ra nhường lối cho ngài. Từ tiệm chơi bi-a, một cảnh sát bước ra với khẩu súng đã lên đạn đang nhắm vào Xêxa Môngtêrô. Xã trưởng nói nhỏ: “Không được bắn, đồ con vật ạ”. Ngài tra súng lục vào bao, tước khẩu súng trường của viên cảnh sát. Ngài tiếp tục tiến vào trung tâm quảng trường, tay cầm khẩu súng trường sẵn sàng nhả đạn. Dân chúng vội vàng chạy về phía các bức tường.

- Hãy trao khẩu súng ấy cho ta mau, Xêxa Môngtêrô – ngài nói.

Cho đến lúc ấy, Xêxa Môngtêrô vẫn chưa nhìn thấy ngài. Ông quay phắt lại phía ngài.

Xã trưởng bám chắc ngón trỏ vào cò súng nhưng chưa bắn.

- Hãy đến mà tìm súng lấy- Xêxa Môngtêrô gào lên.

Bàn tay phải giữ vững khẩu súng, còn bàn tay trái xã trưởng đưa lên dụi mắt. Ngài tính từng bước đi, ngón tay vẫn bám chắc lấy cò súng và mắt vẫn chăm chăm nhìn Xêxa Môngtêrô. Bỗng ngài dừng lại và với giọng dịu dàng thân ái, ngài nói:

- Xêxa, hãy ném khẩu súng xuống đất đi. Đừng đùa nữa.

Xêxa Môngtêrô lùi lại phía sau. Xã trưởng vẫn để ngón trỏ bám chắc cò súng. Ngài điềm tĩnh đứng im chờ đợi cho đến khi Xêxa Môngtêrô hạ súng và ném nó xuống đất. Cho đến lúc này, xã trường mới biết rằng mình vẫn mặc nguyên quần áo ngủ, rằng người mình toát mồ hôi ngay dưới trời mưa và rằng cái lợi không còn đau.

Các nhà mở toang cửa, hai viên cảnh sát, có vũ trang, chạy ra trung tâm quảng trường. Đám đông cũng chạy theo sau hai người này. Bọn cảnh sát quay lại và quát đám đông:

- Quay lại mau.

Xã trưởng với giọng bình tĩnh, chẳng nhìn ai, quát:

- Giải tán mau.

Đám đông giải tán, xã trưởng khám người Xêxa Môngtêrô mà không cần bảo ông bỏ áo mưa ra. Ngài tìm thấy bốn viên đạn trong túi áo và một con dao cạo bọc trong bao da ở túi quần sau. Trong một túi khác ngài còn tìm thấy một cuốn sổ, một chùm chìa khóa và nhiều tờ bạc một trăm đồng pêxô.[2] Xêxa Môngtêrô để cho xã trưởng khám người mình, hai cánh tay giơ lên khuỳnh ra và còn xoay người để việc khám xét được thuận tiện. Khi khám xong, xã trưởng gọi hai viên cảnh sát đến trao cho họ các thứ thu được và ra lệnh:

- Các anh mang ông ta về tầng hai tòa nhà của trụ sở xã. Vì ta, các anh phải tôn trọng ông ta, nghe chưa.

Xêxa Môngtêrô cởi áo mưa ra, trao nó cho một viên cảnh sát. Ông đi giữa đám cảnh sát, phớt lờ trời đang mưa và đám đông tò mò đứng ở quảng trường. Xã trưởng nhìn ông vẻ suy tư. Sau đó ngài quay về phía đám đông, xua tay như xua đàn gà, quát:

- Giải tán ngay.

Lấy cánh tay trần ngài lau mồ hôi mặt, vượt qua quảng trường rồi đi vào nhà Paxto.

Bà mẹ người quá cố ngồi rũ rượi trên chiếc ghế. Vây xung quanh bà là đám đàn bà đang quạt cho bà. Xã trưởng gọi một bà đến “Dãn ra để bà thở”. Người đàn bà quay lại với ngài.

- Bà già vừa ra khỏi nhà đi lễ misa – bà nói.

- Tốt lắm – xã trưởng nói – nhưng bây giờ hãy để cho bà thở.

Paxto ở ngoài hành lang, nằm sấp trên một đống lông chim đẫm máu. Ở đây, nồng nặc mùi hôi của chim bồ câu. Khi xã trưởng đến, một đám đàn ông đang cố gắng dựng thi hài người chết dậy.

- Giải tán ngay – ngài nói.

Bọn đàn ông để tử thì nằm lại trên đống lông theo đúng tư thế họ thấy trước đó và lặng lẽ rút lui. Sau khi khám tử thi, xã trường lật tử thi lại. Ngang thắt lưng có nhiều lông chim bê bết máu tươi bám vào. Xã trưởng lấy tay vuốt hết lông đi. Áo sơ mi rách và chiếc khóa đồng của thắt lưng bị vỡ. Bên trong áo sơ mi ngài thấy ruột gan lòi hẳn ra ngoài. Vết thương đã cầm máu.

- Bị bắn chết bằng khẩu súng săn hổ – một người đàn ông nói.

Xã trưởng đứng dậy. Ngài lau những chiếc lông chim dính máu ở tay mình vào cột chuồng chim, trong lúc làm ngài luôn luôn nhìn tử thi. Sau khi lau máu trên tay lên quần ngủ, ngài nói với đám đông:

- Để nguyên tử thi ở đấy, các anh nhớ chưa nào?

- Cứ để nằm sóng soài như thế – một người đàn ông nói.

- Khi nhấc lên, các anh cần phải nhẹ nhàng và khéo léo.

Ở trong nhà bắt đầu có tiếng khóc của đám đàn bà. Xã trưởng bước đi giữa những tiếng gào và cái mùi ngột ngạt khiến cho không khí trong nhà lạ hẳn đi. Tại cửa ăn thông ra đường cái ngài gặp cha Anghen.

- Đã chết rồi cha kêu lên vẻ thảng thốt.

- Chết như một con lợn – xã trường trả lời cha.

Quanh quảng trường, các nhà đều mở toang cửa. Mưa đã tạnh nhưng bầu trời đầy mây xà thấp xuống ôm lấy các mái nhà. Cha Anghen khoác cánh tay xã trưởng, giữ ngài lại.

- Xêxa Môngtêrô là một người tốt – cha nói – nhưng chuyện này xảy ra là do một khoảnh khắc tức khí mà thôi.

- Tôi biết mà thưa cha – xã trưởng nói vẻ tỉnh khô Xin cha đừng bận lòng vì ông ta sẽ chẳng việc gì đâu. Mời cha vào, mọi người đang cần cha có mặt. Xã trưởng bỏ đi và ra lệnh cho cảnh sát không phải canh gác quảng trường nữa. Đám đông, cho đến lúc này vẫn kiên nhẫn chờ đợi, đã ùa đến nhà Paxto. Xã trưởng bước vào tiệm chơi bi-a, nơi một viên cảnh sát đang đợi để đưa bộ quần áo sạch cho ngài thay. Đó là bộ quân phục thiếu úy.

Theo thường lệ cho đến giờ ấy cửa hàng này vẫn chưa mở cửa. Nhưng ngày hôm ấy vào lúc bảy giờ đã đông nghịt người. Người ngồi trên những chiếc ghế kê quanh bàn, người ngồi dựa lưng vào quầy bán hàng, có một số đang uống cà phê. Phần lớn khách còn mặc áo ngủ và mang dép lê.

Xã trưởng cởi xống áo ngay trước mặt mọi người, lấy quần ngủ lau người rồi lặng lẽ mặc quần áo quân phục, nhưng vẫn chú ý nghe các lời bình phẩm của đám đông. Khi ngài rời khỏi tiệm chơi bi-a, ngài biết khá tường tận về vụ giết người.

- Xin các ông các bà cẩn thận cho – từ cửa tiệm ngài lên tiếng – Ta sẽ tống giam kẻ nào làm cho dân chúng nhốn nháo.

Ngài bước xuống con đường lát gạch mà chẳng chào ai nhưng ngài biết rõ dân chúng đang xôn xao bàn tán. Ngài còn trẻ tuổi, điệu bộ đi đứng nhanh nhẹn hoạt bát, và trong mỗi bước đi ngài cố buộc người khác phải chú ý đến mình.

Vào lúc bảy giờ, những chiếc ca nô thường chuyên chở hành khách, hàng hóa và bưu kiện một tuần ba lần, rúc còi rồi rời bến nhưng không một ai để ý đến chúng như những ngày khác trước đây. Xã trưởng bước xuống dãy hàng quán các thương nhân người Kiri đang trưng bày các hàng hóa sặc sỡ sắc màu. Bác sĩ Octaviô Hiranđô, một vị bác sĩ trẻ trung, hầu như không nhận ra tuổi tác của ông, từ cửa phòng khám đang quan sát những chiếc ca nô khởi hành. Ông cũng mặc áo ngủ và đi dép lê.

- Bác sĩ hãy mặc quần áo chỉnh tề để đi xét nghiệm – xã trưởng nói.

Với vẻ tò mò, bác sĩ quan sát xã trưởng. Ngài phát hiện một hàm trăng trắng và còn chắc. “Vậy là bây giờ chúng ta làm xét nghiệm”, bác sĩ nói và đế thêm:

- Rõ ràng, đây là một bước tiến bộ lớn.

Xã trưởng định cười nhưng cảm giác má đau không cho phép. Ngài lấy tay bưng lấy miệng.

- Ngài làm sao vậy? -Bác sĩ hỏi.

- Một cái lợi đau.

Bác sĩ Hiranđô sẵn sàng tiếp chuyện, nhưng xã trưởng vội đi.

Đến cuối bến cảng, xã trưởng gọi cửa một căn nhà lá tường thưng đố nhưng không trát vữa. Một người đàn bà da xanh nhợt có thai bảy tháng ra mở cửa cho ngài. Cô ta đi chân đất. Xã trưởng gạt cô sang một bên, bước vào ngôi nhà tranh tối tranh sáng.

- Pháp quan đâu? -ngài gọi.

Pháp quan Accađiô xuất hiện ở buồng, vẫn mang dép lê. Ông ta mặc chiếc quần lanh trắng trễ dưới rốn và đôi vai để trần.

- Ông chuẩn bị để làm lễ liệm.

Pháp quan Accađiô thốt lên một tiếng kêu thảng thốt.

- Chuyện lạ ấy xảy ra ở đâu?

Xã trưởng vẫn đi cho đến tận phòng ngủ. “Đây là chuyện khác hẳn”, ngài nói trong lúc tay mở cửa sổ để phòng thoáng đãng hơn. “Tốt hơn hết là cứ phải làm cho thật tử tế”. Ngài lau bàn tay bẩn vào chiếc quần là phẳng phiu rồi hỏi:

- Ông có biết làm lễ liệm không?

- Dĩ nhiên – pháp quan trả lời.

Xã trưởng nhìn đôi bàn tay mình ngay trước cửa sổ. “Hãy gọi viên thư ký của ông cùng đi để hắn ghi lại điều cần phải ghi” ngài nói, lần này vẫn cái giọng tưng tửng. Ngài lại nhìn cô gái đang dang rộng hai cánh tay.

- Tôi có thể rửa mặt ở chỗ nào hả?

- Ở ngoài chum nước.

Xã trưởng ra sân. Cô gái tìm trong rương một chiếc khăn tắm và để miếng xà phòng trong khăn tắm. Cô bước ra sân vào đúng lúc xã trưởng đã trở lại phòng ngủ, vẩy vẩy tay cho ráo nước.

- Em mang xà phòng cho ngài đây – cô nói.

- Tốt lắm – xã trưởng nói, ngài lại nhìn đôi bàn tay mình. Ngài cầm lấy khăn lau, vẻ suy tư lau khô tay. Trong lúc lau ngài nhìn pháp quan Accađiô.

- Tử thi dính đầy lông chim bồ câu – xã trưởng nói.

Xã trưởng ngồi xuống giường, thong thả nhấm nháp cà phê đen đợi cho đến khi pháp quan Accađiô mặc xong quần áo. Cô gái theo sau hai người đến tận cửa phòng khách.

- Chừng nào chưa nhổ chiếc răng sâu đi, má ngài vẫn còn sưng – cô nói với xã trưởng.

Xã trưởng đẩy pháp quan Accađiô ra ngoài đường rồi quay lại nhìn cô gái. Ngón tay trỏ của ngài dí vào cái bụng trống của cô gái, ngài hỏi:

- Thế còn chỗ sưng này, bao giờ nó xẹp đi cho cô?

- Sắp rồi – cô gái nói.

Cha Anghen không đi dạo buổi chiều như thường lệ. Sau lễ an táng, cha dừng lại trong một ngôi nhà thuộc xóm thợ và nói chuyện cho đến tận chiều. Cha cảm thấy khỏe khoắn, bất chấp trời mưa dầm dề lâu ngày khiến cha cảm thấy đau mỏi ở sống lưng. Khi cha về đến nhà, đèn đường đã thắp sáng.

Trinidat đang sửa sang các chậu hoa bày ngoài hành lang. Cha hỏi cô những chiếc bánh thánh chưa cúng cô để đâu và cô trả lời cha rằng cô đặt chúng trên bàn thờ rồi. Khi cha thắp sáng đèn trong phòng, muỗi liền vù vù bay quanh cha. Trước khi đóng cửa phòng, cha hun muỗi. Khi hun khói xong, người cha đẫm mồ hôi. Cha cởi bỏ chiếc áo thụng đen và mặc chiếc áo thụng trắng. Cha mang chiếc áo thụng đen đã sờn rách đi cho Anghêlut.

Khi về đến phòng cha đặt chảo lên bếp lửa và rán một miếng thịt. Trong lúc rán thịt, cha thái củ hành thành nhiều lát mỏng. Sau đó cha để tất cả vào chiếc đĩa có sẵn củ sắn và ít cơm nguội đó là những thức ăn thừa của bữa trưa. Cha mang đĩa cơm và thức ăn vào phòng và ngồi xuống ăn cơm tối.

Cùng một lúc cha ăn tất cả bằng cách dùng con dao và chiếc nĩa thái mỗi thứ một miếng nhỏ rồi cho vào mồm nhai. Hai môi mím lại, cha trệu trạo nhai từng mẩu nhỏ thức ăn. Trong lúc nhai cha để dao và nĩa xuống bên cạnh đĩa thức ăn và chăm chú quan sát căn phòng mình. Trước mặt cha là chiếc tủ đựng những cuốn sách dày cộp ghi tư liệu của giáo khu. Ở xó phòng là một chiếc ghế xích đu có tấm tựa cao. Sau chiếc ghế xích đu là một bức bình phong trên đó có treo tờ lịch quảng cáo thuốc ho. Bên cạnh bức bình phong là phòng ngủ của cha.

Cuối bữa ăn, cha Anghen cảm thấy khó thở. Cha lấy mứt ổi ra để nó trong một cái bát rồi rót nước cho đầy. Sau đó cha ăn mứt và trong lúc ăn mứt cha ngắm nhìn tờ lịch. Cứ mỗi lần ăn một miếng mứt cha lại ngụm một hớp nước, mắt vẫn không rời khỏi tờ lịch. Cuối cùng cha vươn thẳng người, lấy ống tay áo thụng quẹt ngang môi để lau mồm. Đã mười tám năm nay cha ăn như thế, ăn một mình ở trong phòng chẳng bao giờ cha thấy hổ thẹn về nỗi cô đơn của mình.

Sau khi đọc kinh rôsariô xong, Trinidat xin cha cho tiền để mua bả chuột. Lần thứ ba cha từ chối bằng luận điệu cho rằng bẫy chuột là đủ rồi, cần gì phải mua bả. Trinidat cố cãi lại, nói:

- Là vì những con chuột nhỏ cắp bơ đi mà không rơi xuống bẫy. Vì thế cần phải tẩm thuốc độc vào bơ.

Cha thừa nhận rằng Trinidat nói phải lắm. Nhưng trước khi cha có thể nói ra thì tiếng loa phóng thành ồn ỉ trong rạp chiếu bóng phía trước phá tan không khí thanh lặng tại nhà thờ. Tiếp theo tiếng rè của kim chạm vào đĩa hát là bản nhạc dân ca được mở đầu bằng tiếng kèn đồng nghe chói tai.

- Có chiếu phim à? – cha hỏi.

Trinidat trả lời cha rằng hôm nay có chiếu phim.

- Con có biết chiếu phim gì không?

- Tacgiăng và Nữ thần xanh ạ – Trinidat nói – Chính bộ phim bị bỏ dở hôm chủ nhật vì trời mưa. Đó là bộ phim có lợi cho tất cả.

Cha Anghen đi ngay ra chân tháp chuông kêu liền mười hai tiếng chuông cấm chiếu phim. Trinidat lấy làm thảng thốt.

- Thưa cha, cha nhầm rồi – cô nói, hai bàn tay hua hua mãi với ánh mắt đầy cảm kích. -

Đó là bộ phim tốt, mọi người có thể xem: Xin cha nhớ cho là hôm chủ nhật cha đã cho phép chiếu rồi.

- Nhưng hôm nay mà chiếu phim là vô lễ với làng ta – cha nói trong lúc lau mồ hôi cổ. Cha thở hổn hển – Đó là một sự thiếu tôn trọng làng.

Trinidat hiểu ra vấn đề.

- Cần phải nhìn nó với sự kiện đám ma hồi chiều – cha nói Tất cả bọn đàn ông đánh lộn nhau để được khiêng quan tài.

San đó cha tạm biệt Trinidat, đóng cửa nhà thờ ăn thông ra quảng trường hiu quạnh và tắt đèn trong nhà thờ. Tại hành lang trên đường trở về phòng ngủ, cha vỗ nhẹ tay lên trán khi nhớ ra rằng mình quên không đưa tiền cho cô gái để mua bả chuột. Nhưng cha lại quên ngay trước khi về đến phòng ngủ.

Sau đó ít lâu, cha ngồi vào bàn với quyết tâm viết cho xong bức thư đêm trước viết dở.

Cha phanh cúc áo thụng đến tận bụng, sắp xếp giấy, lọ mực, cái thấm mực và lục tìm trong túi cặp kính lão. Sau đó cha nhớ rằng mình để nó trong túi chiếc áo thụng mặc đi làm lễ an táng người chết và cha đứng dậy đi tìm. Cha đọc lại phần viết đêm qua và bắt đầu viết đoạn mới. Chính lúc ấy vang lên ba tiếng chuông gọi cửa.

- Mời vào.

Đó là ông chủ rạp chiếu bóng. Ông ta là một người đàn ông nhỏ con, da xanh, mày râu nhẵn nhụi nhưng dáng vẻ khổ sở lắm. Ông ta vận bộ đồ lanh trắng, đi đôi giày hai màu.

Cha Anghen chỉ cho ông ta chiếc ghế xích đu và bảo ông ta ngồi, nhưng ông ta rút khăn tay ra lau ghế rồi mới ngồi trong tư thế hai chân chạng ra. Lúc đó cha mới nhận ra cái vật ông ta mang trên thắt lưng không phải là khẩu súng ngắn mà là chiếc đèn pin.

- Ông có chuyện gì nào? Tôi nghe ông đây – cha nói.

- Thưa cha, cha hãy thứ lỗi cho con vì con đã dúng mũi vào công việc của cha. Nhưng đêm nay có lẽ cha đã phạm một sai lầm chăng?

Cha Anghen gật đầu và chờ đợi.

- Tacgiăng và Nữ thần xanh là một bộ phim lành mạnh cho tất cả mọi người – ông chủ rạp phim nói tiếp Chủ nhật trước, chính cha đã thừa nhận rồi.

Cha định ngăn ông ta lại nhưng ông chủ rạp giơ tay ra hiệu rằng mình nói chưa xong.

- Con đã chấp nhận ngay việc kéo chuông cấm chiếu phim vì quả thật có những bộ phim có hại cho đạo đức. Nhưng bộ phim này chẳng có pha nào gây cấn cả. Chúng con nghĩ đến cả việc cho thiếu nhi xem bộ phim này.

Lúc này, cha Anghen giải thích rằng bộ phim ấy lành mạnh. Nhưng hôm nay mà chiếu phim thì đó là một khiếm khuyết đối với làng vừa có đám tang và đó cũng thuộc về đạo đức.

Ông chủ rạp chiếu bóng nhìn cha.

- Năm ngoái chính cảnh sát giết người trong rạp và khi vừa mang tử thi ra khỏi rạp thì phim được chiếu ngay đấy thôi.

- Bây giờ khác rồi – cha nói -Xã trưởng đương nhiệm là người đã đổi mới rồi.

- Khi nào có tuyển cử lại xảy ra chuyện giết người – chủ rạp cãi lại Từ khi làng là làng, luôn luôn xảy ra chỉ một chuyện ấy thôi.

- Chúng ta sẽ cùng xem xét – cha nói.

Với ánh mắt nặng nề, chủ rạp chiếu bóng nhìn cha. Khi ông ta nói, ông ta rung chiếc áo để quạt mát phần ngực mình, và giọng ông ta trở nên có vẻ van nài.

- Đó là một trong số ba bộ phim lành mạnh được chiếu đưa về địa phương ta trong năm nay. Ngày chủ nhật vừa rồi, vì trời mưa nên còn ba cuốn nữa chưa chiếu. Rất nhiều khán giả muốn xem để biết bộ phim kết thúc như thế nào.

- Nhưng chuông cấm chiếu đã vang lên rồi – cha nói. Nghe vậy chủ rạp phim thất vọng hoàn toàn.

- Vậy là chẳng còn gì để làm nữa phải không ạ?

Cha Anghen lắc đầu. Chủ rạp vỗ nhẹ lên gối rồi đứng dậy.

- Được thôi – ông ta nói – Chúng con biết làm gì cha bây giờ.

Ông ta gấp khăn tay, lau mồ hôi cổ, rồi nhìn kĩ phòng ở của cha với vẻ cay cú.

- Chỗ này là một địa ngục – ông ta nói.

Cha tiễn chân ông ra đến cửa. Cha cài then cửa rồi ngồi viết nốt bức thư. Sau khi đọc lại một lần nữa kể từ đoạn đầu và cha kết thúc cái đoạn bị bỏ dở rồi cha ngừng lại để suy nghĩ. Giữa lúc ấy, âm nhạc trên loa phóng thanh ngừng hẳn. “Xin thông báo để quý vị khán giả biết rằng buổi chiếu hôm nay hoãn lại vì rạp ta muốn cùng chia sẻ với thân quyến người vừa quá cố sáng nay”. Cha Anghen mỉm cười nhận ra giọng nói của ông chủ rạp chiếu bóng.

Không khí trong phòng ngày càng nóng thêm. Cha vẫn tiếp tục viết, thi thoảng lại ngừng bút để lau mồ hôi và để đọc lại đoạn vừa viết xong, cuối cùng cha cũng viết kín đặc cả hai tờ giấy. Cha vừa ký tên xong thì trời đổ mưa. Một làn hơi ấm ùa vào phòng. Cha Anghen đề bì thư, đóng nắp lọ mực và gấp bức thư lại. Nhưng trước khi nhét thư vào bì cha đọc lại đoạn cuối. Thế là cha mở nắp lọ mực, viết thêm đoạn tái bút: “Lại mưa. Với mùa đông này và những chuyện tôi kể trên tôi nghĩ rằng những ngày cay đắng đang chờ đón chúng ta.”

Ngày thứ sáu thức dậy trong không khí dịu nhẹ và khô ráo. Pháp quan Accađiô, người lấy làm kiêu hãnh kể từ lần đầu tiên làm tình đến nay, đêm nào cũng dư sức làm tình với vợ tới ba lần. Buổi sáng hôm ấy đã làm đứt tung dây màn và cùng với vợ ngã xuống sàn nhà vào đúng lúc hứng thú nhất, cả hai người cuộn trong chiếc màn.

- Thây kệ nó – cô vợ nói – sau đấy em sẽ thu dọn lo gì.

Cả hai anh chị hoàn toàn lõa lồ trong tấm màn bị đứt dây rơi xuống trùm lên người.

Pháp quan Accađiô đến chiếc rương tìm chiếc quần đùi sạch. Khi trở lại cô vợ đã mặc lại quần áo, đang cuốn màn. Không nhìn vợ, ông đi thẳng đến đầu giường bên kia, ngồi xuống đi giày tất với vẻ thảng thốt và sung mãn của ái tình.

Cô vợ theo sát ông. Cô tì cái bụng trống tròn lẳn và căng mọng lên cánh tay ông và hàm răng cô tìm kiếm cái tai ông để cắn yêu. Ông nhẹ nhàng và thân ái né tránh cô.

- Để anh yên nào, cưng – Ông nói.

Cô vợ bật ra một tiếng cười giòn giã tỏ rõ mình có sức khỏe tốt. Cô theo chồng đến đầu phòng bên kia, lấy ngón trỏ chọc vào vùng thận của ông. “Con lừa thân yêu, hãy cày đi nào” cô nói. Ông nhẩy cẫng lên vì buồn cười và gạt phắt tay cô vợ ra. Cô tha cho ông để cho ông yên và cô lại cười nhưng bỗng cô nghiêm nghị và gào toáng lên:

- Ôi! Lạy chúa tôi.

- Gì thế em? -ông hỏi.

- Cửa mở toang kia kìa. Ôi, thế thì dơ lắm, anh ạ. Nói xong cô vào buồng tắm, cười như nắc nẻ.

Pháp quan Accađiô không đợi uống cà phê. Nhờ đánh răng ông đã tỉnh táo rồi. Ông ra đường. Mặt trời đỏ vàng như đồng. Những người Xiri ngồi trước quầy hàng của mình đang ngắm nhìn dòng sông phẳng lặng.

Khi đi qua phòng khám bệnh của bác sĩ Hiranđô, pháp quan Accađiô dùng móng tay cào lên tấm lưới thép chắn cửa và gọi to:

- Bác sĩ ơi, phương thuốc nào tốt nhất để trị đau đầu hả?

- Không uống rượu vào buổi đêm! – từ bên trong bác sĩ trả lời.

Tại bến cảng, một nhóm đàn bà tụ tập đang sôi nổi bàn tán về nội dung tờ rời được dán tường đêm qua. Vì ngày thức dậy rạng rỡ và không mưa nên các bà phụ nữ đi lễ misa lúc năm giờ đã đọc tờ rời và giờ đây cả làng đều tường tận nội dung của nó. Pháp quan Accađiô không dừng chân. Ông cảm thấy mình như một con bò mộng, mũi đã buộc thừng, chúi đầu đi về phía tiệm chơi bi-a. Tại đây một chai bia lạnh và thuốc giảm đau đầu. Đồng hồ vừa điểm chín giờ mà tiệm đã đông nghịt người.

- Cả làng đau đầu, thế mới lạ chứ! – pháp quan nói.

Ông mang chai bia đến bàn có ba khách ngồi và ngồi xuống chiếc ghế trống.

- Vẫn chuyện tờ rời phải không? – pháp quan hỏi.

- Hôm nay, làng thức dậy đã thấy bốn tờ rời.

- Có một tờ được cả thiên hạ đọc – một người nói – Đó là tờ nói về cô Raken Côngtrêrat.

Pháp quan nhai thuốc và uống bia. Ngụm bia đầu khiến ông ngán nhưng sau đó dạ dày dễ chịu, và ông cảm thấy khoan khoái.

- Nó nói gi?

- Chuyện dớ dẩn thôi – người ban nãy tiếp lời – Nó nói rằng những chuyến đi xa trong năm nay của bà ta không phải là đi trồng răng như bà ta nói mà là để trục thai ra.

- Chẳng nên mất công đi viết những tờ rời – pháp quan nói – Điều đó cả thiên hạ đều nói thế.

Mặc dù nắng gay gắt làm chói mắt khi ra khỏi tiệm, pháp quan không biểu lộ nỗi bực dọc của mình trước buổi sáng ấy. Ông ta đi thẳng về trụ sở tòa án. Viên thư ký của ông, một ông già gầy gò đang vặt lông gà với ánh mắt nghi ngờ ngước lên phía trên gọng kính đón chào ông.

- Và cái phép màu ấy thế nào?

- Cần phải thôi ngay chuyện dớ dẩn ấy – pháp quan nói.

Viên thư ký lê đôi dép bước ra sau và qua hàng rào trao con gà bị vặt lông dở dang cho bà đầu bếp của khách sạn. Mười một tháng sau khi nhậm chức, đây là lần đầu tiên pháp quan Accađiô ra lệnh ở trong văn phòng của mình.

Văn phòng luộm thuộm này được ngăn đỡ nhờ một tấm bình phong gỗ. Phòng ngoài có một chiếc ghế dài có tấm tựa cũng bằng gỗ kê ở bên dưới bức tranh Thần công lý bị bịt mắt tay cầm một cán cân. Phòng trong có hai bàn viết đối diện nhau, một tủ để những cuốn sách phủ đầy bụi và một chiếc máy chữ. Trên tường, phía trên bàn làm việc của pháp quan, có treo một bức tượng đồng tạc chúa Giêsu bị đóng đinh câu rút. Trên bức tường đối diện một bức ảnh chân dung: một người đàn ông tươi cười, béo và hói, ngực quàng tấm đai tổng thống và ở bên dưới có hàng chữ mạ vàng: Hòa bình và công lý. Bức ảnh chân dung là cái mới duy nhất trong phòng làm việc.

Viên thư kí lấy khăn mặt ướt bịt mũi lại rồi lấy cái phất trần quét bụi trên hai bàn làm việc. “Nếu không bịt mũi lại thì sẽ bị ho”, ông ta nói. Văn phòng không được chăm nom tử tế. Phán quan Accađiô ngồi trên chiếc ghế lò xo ngả người ra phía sau. Ông duỗi thẳng hai chân để thử lò xo.

- Liệu có ngã được không nhỉ? – ông ta hỏi.

Viên thư kí lắc đầu để trả lời không ngã được. “Khi người ta giết pháp quan Vitêla – ông ta nói – thì những chiếc lò xo này tuột ra hết. Nhưng giờ đây, ghế đã được sửa lại rồi”

Vẫn không cởi chiếc khăn bịt mũi lại, ông ta nói thêm:

- Chính ngài xã trưởng ra lệnh chữa lại chiếc ghế này khi chính phủ thay đổi và có nhiều quan thanh tra đặc nhiệm được phái đi khắp nơi.

- Và ngài xã trưởng muốn rằng văn phòng này phải làm việc – pháp quan nói.

Viên thư ký mở ngăn kéo trung tâm lấy ra một chùm chìa khóa rồi ông ta dùng hết chiếc này đến chiếc kia tra vào ổ khóa của từng ngăn tủ một. Các ngăn tủ đều đầy giấy tờ, với thái độ hững hờ, ông kiểm tra từng tài liệu và bằng cách dương ngón tay trỏ lên ra ra hiện rằng chẳng có gì phải chú ý lắm rồi sau đó đóng các ngăn tủ lại. Sau cùng viên thư ký đặt lên bàn viết những thứ cần dùng: một lọ mực thủy tinh trong đựng mực đỏ và một lọ mực xanh, và mỗi lọ này ông tra vào một chiếc bút lông chim. Mực trong lọ đã cạn rồi.

- Ngài có vẻ hợp với ngài xã trưởng – viên thư ký nói.

Ngồi đung đưa trên chiếc ghế lò xo, pháp quan theo dõi viên thư ký lau chùi tay vịn hàng lan can. Viên thư ký ngắm nhìn pháp quan như thể sẽ chẳng bao giờ quên ông ta trong chính thứ ánh sáng ấy, trong chính giây phút ấy và trong chính tư thế ấy và cuối cùng với ngón tay trỏ ông ta chỉ cho pháp quan biết:

- Pháp quan Vitêla đã ngồi đúng như lúc này ngài đang ngồi khi ông ta bị đạn xăm lỗ chỗ khắp người.

Pháp quan Accađiô sờ lên hai thái đương đang giần giật máu chảy trong các huyết quản. Ông ta lại đau đầu mà.

- Tôi đứng ở đây – viên thư ký tiếp tục kể. Trong lúc chỉ tay về phía chiếc máy chữ, ông ta đi về phía sau hàng chấn song. Vẫn không ngừng kể chuyện, ông ta đặt cái phất trần lên tay vịn lan can giả làm khẩu súng hướng nòng về phía pháp quan Accađiô. Lúc này ông ta giống như một tên cướp bưu điện trong bộ phim cao bồi.

- Ba viên cảnh sát đứng như thế này – viên thư ký tiếp tục kể – Hầu như pháp quan Vitêla vừa nhìn thấy họ, hai tay giơ lên nói chậm rãi từng chữ một: “Đừng giết ta”. Nhưng ngay lập tức chiếc ghế đổ về một bên, người nát nhừ vì đạn.

Pháp quan Accađiô đưa hai tay lên ôm lấy đầu. Ông cảm thấy trong đầu nhức như búa bổ. Viên thư ký cởi khăn mặt ra và treo cái phất trần lên phía sau cánh cửa. “Tất cả chỉ vì trong lúc say rượu, ngài đã nói rằng ngài có mặt ở đây là để bảo vệ tính trong sạch của cuộc bầu phiếu mà thôi”, viên thư ký nói. Ông ta ngừng lại nhìn viên pháp quan đang gục xuống bàn hai tay ôm lấy bụng.

- Ngài khó chịu lắm phải không?

Pháp quan trả lời rằng đúng thế. Đêm qua pháp quan đã nói với viên thư ký và bảo ông ta mang đến tiệm chơi bi-a thuốc đau đầu và hai chai bia lạnh. Khi uống hết chai bia đầu tiên, pháp quan Accađiô không thấy trong trái tim mình có dấu hiệu nhỏ nào của sự ân hận. Ông đang hứng chí mà.

Viên thư ký ngồi trước chiếc máy đánh chữ.

- Bây giờ chúng ta làm gì nào?

- Không làm gì cả.

- Vậy, nếu ngài cho phép, tôi sẽ đi tìm Maria để giúp bà ta vặt lông gà.

Pháp quan phản đối. “Đây là phòng trông coi công lí chứ không phải là nơi vặt lông gà”, pháp quan nói. Ông ta xét nét người dưới quyền mình từ đầu cho đến chân, rồi nói:

- Ngoài ra ông cần phải ném đôi lê đi và từ này trở đi ông đến cơ quan phải mang giày cẩn thận, nghe chưa.

Trời càng đến trưa càng nóng dữ. Khi đồng hồ điểm chuông báo mười hai giờ. Pháp quan Accađiô đã uống hết một tá bia lạnh. Ông bơi trong những kí ức. Trong nỗi khao khát ông nói về một quá khứ buông thả, những ngày chủ nhật dài triền miên trôi đi bên bãi tắm và với những gái lai không bao giờ thỏa cơn khát dục đứng làm tình ngay sau cánh cửa.

“Cuộc sống thời ấy là như thế chứ”, pháp quan nói đồng thời bật ngón cái vào ngón trỏ kêu tách một tiếng rất to ngay trước mặt viên thư ký hiền lành chỉ biết gật đầu tán thưởng. Pháp quan Accađiô cảm thấy đã mệt nhưng càng uống ông càng sống hơn trong kí ức của mình.

Khi đồng hồ trên tháp chuông điểm một giờ, viên thư kí tỏ vẻ lo lắng, nói:

- Ấy chết, súp nguội mất rồi – ông ta nói.

Pháp quan vẫn không chịu để ông đứng đậy. “Không phải lúc nào ở những cái làng này người ta cũng gặp được người có tài” pháp quan nói và viên thư ký chỉ còn biết cảm ơn, chỉ còn biết nhẫn nhục chịu đựng cái nóng hầm hập, chỉ còn biết thay đổi tư thế ngồi trên ghế.

Đó là một ngày thứ sáu dài lê thê tưởng như không bao giờ kết thúc. Bên dưới mái tôn nóng, hai người đàn ông nói chuyện thêm nửa giờ trong lúc nhân vật vờ ngủ trưa trong không khí nóng như ở lò nung. Trong lúc quá mệt mỏi, viên thư ký nói về những lời đồn nhảm được viết trên từ rơi. Pháp quan Accađiô nhún vai.

- Cả cậu nữa cũng dúng mũi vào chuyện dớ dẩn ấy sao – pháp quan lần đầu tiên ăn nói thân tình với người dưới quyền mình.

Viên thư kí không thích tiếp tục nói chuyện nữa vì ông ta đang đói mềm và đang phải chịu đựng oi nóng nhưng ông ta không tin rằng những lời bịa đặt viết trên từ rơi là chuyện ngu xuẩn. “Ở làng này đã xảy ra một vụ giết người đầu tiên vì những lời bịa đặt viết trên tờ rơi, ông ta nói, nếu cứ tiếp tục như thế này thì chúng ta “sẽ có một thời kỳ nguy hiểm”.

Ông kể chuyện một làng bị những lời bịa đặt viết trên tờ rơi tiêu diệt chỉ trong bảy ngày. Dân chúng của làng ấy giết chết lẫn nhau. Những kẻ sống sót bỏ làng ra đi mang theo mình hài cốt người thân để khẳng định rằng sẽ chẳng bao giờ trở về quê hương nữa.

Pháp quan nghe ông ta kể với thái độ mai mỉa và trong lúc người kia nói ông ta từ từ cởi cúc áo. Pháp quan nghĩ rằng viên thư kí của mình là một người thích kể chuyện rùng rợn.

- Đây là trường hợp quá đơn giản của tiểu thuyết trinh thám – pháp quan nói.

Kẻ dưới quyền lắc đầu không thừa nhận. Pháp quan Accađiô kể rằng tại trường đại học ông tham gia một tổ chức chuyên giải những điều khó hiểu trong truyện trinh thám. Mỗi thành viên đọc một cuốn tiểu thuyết khó hiểu vì kì bí và cố nắm cho được chiếc chìa khóa vững chắc. Ngày thứ bảy mọi người họp lại đề giải mã điều bí hiểm. “Chẳng bao giờ tôi nói sai cả”, pháp quan nói. “Dĩ nhiên những tri thức của các nhà cổ điển, những người đã phát hiện ra một lô-gích cuộc sống đủ sức đi sâu vào bất kì điều kì bí nào, đã giúp tôi rất nhiều”. Pháp quan đưa ra một điều bí hiểm: lúc mười giờ đêm, một khách trọ về đến khách sạn. Ông ta vào phòng ngủ của mình. Sáng hôm sau, cô hầu phòng mang cà phê vào phòng cho ông ta thì thấy ông ta đã chết và thối rữa ngay trên giường nằm. Khám nghiệm tử thi cho biết rằng vị khách về đến khách sạn đêm qua đã chết được tám ngày rồi.

Viên thư kí đứng dậy mà xương hốc kêu roàn roạt.

- Nghĩa là khi về đến khách sạn ông ta đã chết được bảy ngày -viên thư kí nói.

- Câu chuyện được viết cách đây mười hai năm – pháp quan Accađiô nói – nhưng chìa khóa đã được Hêraclit đưa ra từ thế kỉ thứ V trước Công nguyên.

Pháp quan sẵn sàng giải thích điều đó nhưng viên thư kí lại quá thất vọng. “Không đời nào. Từ khi thế giới là thế giới, những kẻ bịa chuyện viết những tờ rơi đã bị lộ chân tướng”, ông ta kết luận trong ngữ điệu bất bình. Với hai con mắt trợn ngược, pháp quan Accađiô ngắm nhìn viên thư kí của mình

- Cậu có dám thách tôi tìm ra không nào? – pháp quan hỏi.

- Thách đấy.

Rêberca đê Axit đang ngạt thở trong phòng ngủ oi nóng của ngôi nhà đối diện với trụ sở tòa án. Đầu cô chìm sâu trong chiếc gối, cố ngủ một giấc ngủ trưa không thể ngủ được. Hai thái dương cô dịt lá thuốc được hơ lửa.

- Rôbertô ơi, nếu anh không mở cửa số thì chúng mình chết vì nóng mất – cô nói với chồng.

Rôbertô mở cửa số vào đúng lúc pháp quan Accađiô ra khỏi văn phòng làm việc của mình.

- Cố mà ngủ đi em ạ – Rôbertô van nài người vợ to béo đang nằm trong tư thế hai cánh tay dang ra bên dưới tấm đình màn, hoàn toàn khỏa thân trong chiếc áo ngủ bằng vải ni lông mỏng – Anh hứa với em rằng anh sẽ quên đi tất cả mà.

Cô vợ thở dài não ruột.

Rôbertô Axit, người đêm qua trằn trọc trong phòng ngủ, châm hết điếu thuốc này đến điếu khác, suýt nữa bắt quả tang kẻ đi dán tờ rơi. Anh nghe thấy tiếng giấy kêu sột soạt và tiếng tay người dán giấy lên tường ở ngoài cửa nhà mình. Nhưng anh hiểu ra quá muộn và thế là tờ rơi đã được dán lên tường. Khi anh mở cửa sổ, quảng trường vắng tanh vắng ngắt.

Từ đó trở đi cho đến lúc hai giờ chiều, khi anh hứa với vợ rằng sẽ quên chuyện tờ rơi, cô vợ tìm hết cách xoa dịu anh. Cuối cùng chỉ có biện pháp cô sẽ xưng tội với cha Anghen ngay trước mặt chồng và coi đây là bằng chứng cuối cùng cho sự vô tội của mình. Chỉ có biện pháp nhẫn nhục ấy mới có sức thuyết phục. Dù đang hoang mang, anh chồng không dám làm gì thêm.

- Tốt hơn hết là nói sang chuyện khác – cô vợ nói mà vẫn không mở mắt – Sẽ là một thảm họa nếu anh cứ lầm lì giận dữ.

Khi ra khỏi phòng ngủ anh khép kín cửa. Trong ngôi nhà rộng rãi, lờ mờ tối vì được đóng kín các cửa lại, anh nghe rõ tiếng chạy ro ro của chiếc quạt điện của mẹ đẻ, người đang ngủ trưa trong nhà bên cạnh. Anh uống một cốc nước chanh ướp lạnh ngay trước mắt cô người ở da đen.

Từ trong phòng ngủ, cô vợ hỏi anh có muốn ăn trưa không. Anh mở vung nồi canh. Một con rùa chổng bốn vó lên trời đang nối lềnh bềnh trên mặt nước sôi. Lần đầu tiên anh không thấy rùng mình kinh rợn trước ý nghĩ rằng con vật bị ném sống vào nước sôi và rằng trái tim vẫn tiếp tục nhịp đập bình thường khi người ta đưa con vật lên thớt chặt ra thành từng khúc.

- Anh không thấy đói. – Anh nói trong lúc đậy vung lại. Rồi từ cửa anh nói thêm: – Mẹ cũng không ăn đâu. Mẹ đau đầu cả ngày.

Hai ngôi nhà ăn thông với nhau nhờ một hành lang lát gạch men xanh. Từ hành lang có thể nhìn thấy chuồng gà mắc lưới thép ở ngoài sân chung, ở phía đầu hành lang nhà bà mẹ có vài chuồng chim treo đầu hồi và có rất nhiều chậu cây cảnh đang nở hoa sặc sỡ.

Từ trên chiếc ghế rộng đứa con gái bảy tuổi vui vẻ ồn ĩ chào anh. Nó vừa ngủ trưa dậy. Trên má nó vẫn còn hằn nhiều vết chiếu.

- Sắp ba giờ chiều rồi – anh nói với nó bằng giọng nhỏ nhẹ. Con cũng nên lo học hiểu dần đi.

- Cha ơi, con vừa mơ thấy một chú mèo bằng thủy tinh.

Anh không thể kìm nổi cú rùng mình.

- Như thế nào?

- Hoàn toàn bằng thủy tinh – bé gái nói, hai tay làm điệu bộ mô tả tầm cỡ của con vật nó mơ thấy, – như một con chim bằng thủy tinh, nhưng lại là con mèo, cha ạ.

Anh cảm thấy mình bị lạc trong một thành phố lạ ngay giữa lúc đang trưa. “Hãy quên nó đi con ạ”, anh thầm thì nói. “Một chuyện như thế chẳng đáng nhớ làm gì”. Giữa lúc ấy, anh nhìn thấy mẹ mình đứng ở cửa phòng ngủ và anh cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm hẳn đi.

- Mẹ khá hơn rồi đó – anh nói.

Bà quả phụ Axit trả lời anh bằng điệu bộ mang vẻ cay đắng “Vâng, càng ngày tôi càng khá hơn để có thể ném ra khỏi nhà” bà cụ ca thán. Cụ đi thay nước cho các lồng chim.

Rôbertô Axit nằm vật xuống chiếc ghế con anh vừa ngủ. Hai bàn tay chắp lại gối sau gáy, và bằng ánh mắt mệt mỏi, anh dõi nhìn người đàn bà gầy vận đồ đen đang nói chuyện với những con chim. Bọn chim thi nhau uống nước và bằng đôi cánh vui chúng vẫy cả nước lên mặt người đàn bà. Sau khi cho chim uống nước xong, bà quả phụ quay lại nói chuyện với con trai.

- Con không lên núi làm việc à?

- Hôm nay, con nghỉ để ở nhà làm một số việc cần.

- Con nghĩ đến thứ hai chứ?

Bằng ánh mắt anh trả lời mẹ rằng đúng thế, một cô hầu da đen, đi chân đất, đi qua phòng dắt bé gái đi học. Bà quả phụ Axit đứng ở hành lang chờ cho bọn họ ra khỏi nhà. Sau đó bà ra hiệu cho con trai. Thế là anh theo bà cụ vào trong phòng ngủ rộng rãi có chiếc quạt điện đang chạy ro ro. Bà cụ ngồi xuống chiếc ghế xích đu mây, ngay trước quạt điện, với vẻ mệt mỏi thực sự. Trên những bức tường quét vôi trắng, có treo những bức ảnh trẻ em lồng trong khung đồng. Rôbertô Axit ngồi xuống chiếc giường lâu đời mà một số trẻ em trong các bức ảnh kia đã chết, chết vì già hoặc vì tức khí, trong số đó có cả bố anh người vừa quá cố trong mùa đông năm trước.

- Có chuyện gì hả con? – Bà quả phụ hỏi.

- Mẹ có tin lời đám đông nói không? – Anh hỏi mẹ.

- Ở tuổi mẹ, cần phải tin hết con ạ – bà mẹ nói – Họ nói gì nào?

- Họ đồn rằng Rêberca Isaben không phải là con của con.

Bà quả phụ bắt đầu đung đưa chiếc ghế xích đu. “Nó có cái mũi của những Axit nhà ta”, bà cụ nói. Sau một lúc suy nghĩ, cụ lại hỏi: “Ai nói?”. Rôbertô Axit cắn móng tay.

- Họ viết thành tờ rơi, mẹ ạ!

Chỉ đến lúc ấy bà quả phụ hiểu rằng tai con trai mình cũng nghe ra vấn đề đấy chứ.

- Tờ rơi không phải là dư luận của đám đông – cụ kết luận.

- Nhưng chúng chỉ nói điều dân chúng bàn tán – Rôbertô Axit nói – dù cho có người không biết.

Tuy nhiên, cụ biết tất cả những gì dân làng nói về gia đình mình trong rất nhiều năm nay. Trong một ngôi nhà như ngôi nhà của cụ, đông đúc bọn người hầu kẻ ở, bọn con nuôi, con đỡ đầu thuộc đủ mọi lứa tuổi, thật khó lòng mà ngăn được những lời đồn đại từ ngoài đường vào nhà, cho dù có đóng cửa ở trong phòng ngủ cả ngày cụ vẫn nghe được dư luận của đám đông. Những Axit hiếu động, vốn là những người sáng lập ra làng này, cũng có máu thích nghe lời đồn.

- Không phải những gì họ đồn đại đều đúng cả, cho dù có người biết – cụ nói.

- Cả làng đều biết rằng Rôsariô đê Môngtêrô ngủ với Paxto. Bài hát cuối cùng của anh ta là dành tặng cho cô ấy, mẹ ạ.

- Cả thiên hạ đều nói nhưng không ai biết chắc chắn cả. Bà góa bác lại – Trái lại, giờ đây người ta biết rằng bài hát ấy được tặng riêng cho Margôt Ramirêt. Bọn họ sẽ cưới nhau và chỉ có bọn họ và bà mẹ Paxto biết rõ mà thôi. Tốt hơn hết đối với bọn họ là chẳng nên quá lo lắng giữ kín điều bí mật duy nhất ấy ở cái làng này. Đó chính là nguyên nhân của nỗi bất hạnh của họ.

Với ánh mắt sáng rực, Rôbertô đê xit nhìn mẹ mình. “Sáng nay, đã có lúc con nghĩ mình sẽ chết đấy mẹ ạ”, anh nói. Bà quả phụ hình như không để lộ nỗi xúc động của mình.

- Những Axit nhà này là chúa hay ghen – cụ nói – Điều đó là nỗi bất hạnh lớn nhất của nhà này.

Cả hai mẹ c