← Quay lại trang sách

1 - Tình yêu thương - Truyền Thống Của Dân Việt

Từ ngàn xưa, theo một số các nhà sử học, Việt tộc đã có chế độ mẫu hệ. Từ trước năm Chu, các bộ lạc du mục từ phía Bắc tràn qua sông Dương Từ, với sức mạnh săn bắn khống chế súc vật, đã lấn át được các chi bộ Bạch Việt, đem phong tục của họ áp đặt trộn lẫn với văn hóa Bách Việt làm của mình.

Sẵn tính độc tài, anh hùng cá nhân, họ đưa ra những ước lệ tự tôn. Hoàng Đế có tam cung lạc viện, các quý tộc quan lại có nhiều thê thiếp và thị nữ phục vụ. Giá trị của người đàn bà thời đó bị hạ thấp xuống đến một mức tồi tệ. Đại triết gia Khổng Phu Tử đưa ra học thuyết Quân Sư Phụ và Tam Tòng Từ Đức. Ảnh hưởng lan rộng, chế độ mẩu hệ mai một từ đó.

Ngược lại, chúng ta hãy tìm hiểu tổ tiên ta khi lập ra chế độ mẫu hệ cũng có nhiều lý do. Thứ nhất, người đàn bà nhiều tình cảm và bộc lộ nhiều hơn đàn ông. Người đàn bà hay chiều chồng con, ăn nói nhỏ nhẹ, răn dậy cảm hóa con bằng tình thương, nên ta thường thấy nhiều gia đình con cái yêu mẹ hơn cha, kính sợ cha hơn mẹ. Mỗi khi yếu, buồn khổ điều gì, hay cần tiền, vẫn nói hay than thở với mẹ trước vì vẫn tin mẹ sẽ che chở, giúp đỡ. Người con nào cũng tin vào sự bao dung của người mẹ.

Tình mẹ thương con không bờ bến. Người mẹ còn đem nước mắt ra cảm hóa chồng, dù người chồng có lầm lỡ hay lạc đường. Người đàn bà đã đem tình yêu thương mà cảm hóa, thu phục và thứ tha. Theo truyền thuyết, tổ tiên ta là Rồng Tiên. Rồng biểu hiệu cho ý chí cương quyết, hùng mạnh. Tiên là biểu tượng cho quả tim không thù hận, có nhiều tình cảm, nặng lòng yêu thương, hay tha thứ. Có lẽ đó cũng là một lý do phát xuất ra chế độ mẫu hệ.

Tình yêu thương của dân Việt là một truyền thống. Dân ta giàu tình cảm, tuy không bộc lộ ra ngoài nhiều. Từ một ông vua quyền uy nhất nước tới người cùng đinh nghèo nàn, dốt nát, đều biết đến tình yêu thương. Từ phạm vi nhỏ hẹp nhất trong gia đình với bà mẹ nghèo nhà quê khi bóc khoai đã nhường cho con ăn ruột còn mình ăn vỏ.

Người cha không có học, ăn đầu tôm nhường thân tôm ngon cho con ăn. Đó chẳng phải là tình yêu hay sao? Tình yêu thương lan tràn tới xóm làng. Hàng xóm giúp đỡ lẫn nhau. Mỗi khi có đám ma chay, cưới hỏi, ăn khao… người ta tự động kẻ ít người nhiều đem tiền gạo, đồ vật để mừng, phúng điếu, giúp nhau một cách gián tiếp, để phòng khi nay người, mai ta.

Những khách bộ hành nhỡ độ đường đêm hôm khuya tối, không gặp quán trọ dọc đường (thôn quê rất hiếm quán trọ) gõ cửa xin tá túc qua đêm, khách ít khi bị từ chối. Chủ nhà nhiều khi còn lo bữa ăn cho khách độ đường, rất chu đáo. Về thời nhà Lý, vua Thái Tông một hôm khi tiết trời vào đông, mưa phùn gió bấc, rét căm căm, quay lại thấy công chúa đứng hầu bên cạnh mặc đồ ngự hàn còn cảm thấy lạnh, ngài chạnh lòng thương, ái ngại cho những tù nhân phải giam cầm trong ngục liền phán: “Ta yêu dân như yêu con.” Rồi truyền thị vệ mang áo ấm phát cho tù nhân.

Có yêu thương là có tha thứ. Dùng sức mạnh mà trị người không bằng lấy ân đức mà cảm hóa người. Dầu người ở ác ta vẫn lấy điều thiện mà xử thế. Tình yêu thương mở rộng cánh cửa, mở rộng vòng tay để đón kẻ sai lầm về chốn bình an, tốt lành. Tình yêu có sức mạnh lớn lao mà không có gì có thể cương nổi. Tổ tiên ta gần năm ngàn năm dựng nước, bảo tồn nòi giống với căn bản đùm bọc yêu thương. Thời nào có tình yêu là thời thịnh trị, dân được an cư lạc nghiệp.