← Quay lại trang sách

13 - Một Kinh Nghiệm Năm Ất Dậu

Trong cuộc sống máy móc và hiu quạnh ở xứ người, ngoài niềm an ủi bên cạnh con cháu, tôi vẫn có niềm vui nho nhỏ mỗi khi nhận được thư ở bên nhà. Những cánh thư mỏng dính nhưng mang nặng tình người. Vui khi cầm thư nhưng những giòng chữ, những mẩu tin trong thư thường làm tôi buồn bã và bận tâm rất nhiều. Mỗi dòng chữ như nhắc nhở rằng tôi đầy đủ quá, rằng tôi may mắn quá. Còn những người ở lại? Riêng lá thư ngày hôm nay của một vị cao niên gởi sang từ miền Bắc đã làm tôi bâng khuâng và buồn bã. Trong thư ngài nhắc đến tình hình đói khổ ở miền Bắc, có đoạn như sau:

“Ở bên này kỳ vừa qua vì mất mùa hai vụ liền, nhân dân đói lắm, có nhà từng tuần không được một bữa cơm chỉ có ăn rau, nhiều nhà ba, bốn ngày mới được một bữa cơm, còn nguyên ăn sắn, ăn khoai.”

Cái nghèo, cái đói bao giờ cũng đi liền với nhau. Nhớ đến những lời lẽ trong thư tôi thấy gai người. Tôi vẫn còn nhớ như in trận đói năm Ất Dậu 1945 ở quê nhà miền Bắc mà số người tử vong lên đến 2,000,000 người.

Khoảng thời gian đó, miền Bắc mất mùa, cả vụ chiêm lẩn vụ mùa. Sợ quân đội Mỹ và đồng minh đổ bộ lên Việt Nam sau khi chiếm Phu Luật Tân, Nhật Hoàng hạ lệnh cho thực dân Pháp thu mua lúa gạo để quân đội Nhật tích trữ trên vùng núi và nhiều nhất là trên vùng Chinê. Nhật đòi thực dân Pháp nộp cây đay và các cây kỹ nghệ phục vụ nhu cầu chiến tranh. Chính phủ Pháp ra lệnh hủy bỏ ruộng lúa để trồng đay thay vào đó. Tất cả chiếm hơn một triệu mẫu đất. Pháp dựa trên sự đòi hỏi của Nhật, thu gấp bội lúa gạo.

Các tổng lý, cường hào ác bá dựa vào lệnh thu mua lúa gạo của quan đội Nhật và Pháp đã chèn ép dân nghèo bằng cách áp dụng triệt để lệnh thu mua để làm giầu. Các kho lúa gạo do các nhà giầu tích trữ đều vơi dần vì Nhật và Pháp thu mua lúa gạo dựa trên diện tích trồng cây. Trong khi đó, Mỹ và đồng minh phong tỏa miền biển Trung Hoa (Mer de Chine) bằng cách không tập, phá các cầu cống trên đường xe lửa Xuyên Việt. Các tầu ngầm Mỹ ở ngoài khơi phong tỏa vận tải bằng đường biển. Kết quả là trong miền Nam không có than đốt phải dùng lúa gạo thay than đốt các nồi xúp de nhà máy đèn Chợ Quán. Trong khi ngoài Bắc thừa than đốt nhưng lại thiếu lúa gạo.

Chính phủ Pháp đã áp dụng chính sách kìm kẹp người dân Việt bằng cách gây nạn đói. Từ ngày quân đội Nhật Hoàng xâm nhập Trung Hoa qua ngả Lạng Sơn 1940, trong khoảng năm 1943 tới năm 1945, với ý đồ kìm hãm và khống chế người quốc gia có tư tưởng chống Pháp. Pháp đã dùng “cái đói” làm khí giới trị dân. “Chính sách dạ dầy” thành hình dưới bàn tay quân Pháp để trị dân Việt. Khi đã đói người ta chỉ nghĩ đến cơm gạo, sức đâu mà nghĩ đến việc dành lại chủ quyền.

Thế nhưng cũng chính trong giai đoạn đen tối đó, “Phong trào cứu đói” đã được lập nên. Từ các miền quê, người ta kéo ra các tỉnh, nhất là Hà Nội, nơi có phong trào khất thực do các đoàn thể hướng đạo và thanh thiếu niên chủ trương. Họ đi quyên cơm gạo ở các nhà khá giả rồi phân phát cho người đói khổ. Riêng tại vùng duyên hải Bắc Việt, miền quê tôi, tôi đã chứng kiến rất nhiều chết vì rét, vì đói. Tôi còn nhớ, theo các cụ lớn tuổi dạo đó thì chưa có năm nào mùa đông lại lạnh như năm đó. Các gia đình khá giả bảo nhau tự động rút phần ăn bữa. Phần còn lại, nắm làm nhiều nắm nhỏ, lén lút đem chia cho các em nhỏ hay người già cả.

Lý do thật giản dị nhưng cũng đáng thương, những người còn khỏe cứ trông thấy cơm, gạo, ngô, khoai, bất kỳ cái gì có thể ăn được, họ đều xô vào cướp giật. Tình cảnh thật thảm thương. Các đoàn thể, các tôn giáo họp lại lập ủy ban cứu tế. Các anh em hướng đạo sinh và thanh niên lập đoàn khất thực. Nhiều nhà nấu cháo để phân phát. Nhưng vì số người đói khổ quá đông và để tránh sự xô đẩy, tránh cướp, nên mỗi khi phân chia họ phải đóng cổng, khoét một ô nhỏ chỉ vừa đủ đưa lọt bát cháo cho từng người.

Sang đầu năm 1945, nạn đói tới giai đoạn khủng khiếp nhất. Ngoài đường phố, hai bên vỉa hè, trẻ con, người lớn, già, trẻ, rách rưới, tiều tụy, nằm, ngồi la liệt trước cửa từng nhà kêu khóc. Thảm cảnh chưa từng thấy. Và cứ thế, mỗi ngày số người chết đói, chết rét càng tăng. Có ngày khoảng trên hai cây số, dọc theo đường phố, anh em hướng đạo sinh đã thu nhặt tới 70 xác chết. Có nhiều hôm số tử vong lên quá nhanh, chôn không kịp, mùi hôi bay đi khắp nơi, càng thêm vẻ thê lương và kinh hoàng. Các anh em trong ban khất thực còn khỏe mạnh phụ giúp khiêng xác chết đem chôn tập thể.

Một hôm, tôi nhớ không rõ, các thanh niên phát giác có một thuyền buồm chở gạo từ trong Nam ra qua cửa đồn Kim Đài. Các thanh niên thuộc ủy ban cứu đói kéo nhau tới phủ áp lực viên tri phủ Tr.N.T. tịch thu số gạo đó. (Sau ngày 9-3, quân đội Nhật đánh úp quân Pháp, trao quyền cho chính phủ Trần Trọng Kim, sự kiểm soát của người Pháp không còn nữa). Các thanh niên thu được 100 tạ gạo cộng với số lúa quyên được của các nhà giầu. Tuy nhiên với số lúa gạo này mà đem phân phát cho số người trong hàng trăm làng thì chẳng khác gì muối bỏ biển.

Một phương pháp hữu hiệu nhưng cũng được chọn với rất nhiều đắn đo, suy tính; anh đoàn trưởng của ủy ban cứu đói quyết định đưa ý kiến nên cứu sống một số thanh niên còn khỏe với lý do: để đến mùa gặt tới còn có người đi gặt lúa vì chỉ còn hai tháng nữa là đến mùa gặt. Với số lượng lúa gạo hiện có, họ trù tính có thể cứu sống chung, 1,000 người cho đến mùa gặt.

Muốn thế phải tập trung họ lại để nuôi. Vì nếu phát gạo về từng nhà, họ sẽ đành lòng ăn một mình, sẽ nhường phần cho cả cha mẹ, vợ con, vợ rồi đành chịu chết cả. Các anh suy tính nếu những người này không chịu chết cả. Các anh suy tính nếu những người này không được cứu kịp thì chỉ trong vòng một, hai tuần lễ sẽ chết cả. Theo như kế hoạch, ủy ban thanh niên cứu đói chia nhau đi vào các làng tuyển chọn những người tương đối còn khỏe mạnh đưa về tập trung trong trại lập ở khu giáo xứ P.D.

Các thanh niên này sức khỏe kém nhiều vì quá đói. Ngày đầu chỉ cho ăn cháo loãng sau đó là cháo đặc, một vài ngày sau mới cho ăn cơm. Khi họ đã lại sức, ủy ban bắt đầu phân chia công việc. Buổi sáng tập thể dục, chia nhau đi tát ao, bắt cá ở những ao được chủ cho phép. Hoặc đi rỡ nhà mà ủy ban đã mua về để làm củi và cất thêm nhà cho những người tới sau. Một số thì xay lúa, giã gạo. Gạo để nuôi người lớn, tấm cám nuôi trẻ em. Riêng trại trẻ em đặt ở khu chợ Nam Dân. Tổng số trại viên của hai trại khoảng 1,000 người lớn, 300 trẻ em (cả trai lẫn gái). Tất cả được nuôi và bảo bọc cho tới vụ gặt tháng 5 mới giải tán.

Chính sách thực dân của quân Pháp thật dã man và tàn bạo, để lại cho trong lòng dân Việt nỗi oán hờn khó quên. Thực dân Pháp và cộng sản quá là giống nhau. Chính quyền cộng sản nói là đem tự do, no cơm ấm áo cho dân. Thế nhưng thử hỏi, bước chân cộng sản đi đến đâu dân đói khổ đến đó. Tự do, no ấm chỉ có trên đầu miệng lưỡi của người cộng sản, chỉ là chiếc bánh vẽ để dụ người dân.

Dân miền Bắc một lần mặc vào tròng Cộng Sản, cái tròng càng ngày càng thắt chặt, và để rồi 21 năm sau dân miền Nam cũng lại cùng nhau số phận với miền Bắc. Đấy lá “thống nhất” và “giải phóng” theo kiểu Cộng Sản. “Thống nhất” để dân miền Nam cũng khổ như miền Bắc. “Giải phóng” để miền Nam không còn tự do nữa mà phải chịu kìm kẹp dưới gông cùm cộng sản như miền Bắc. Xem thế đủ biết chính quyền cộng sản đã sao y nguyên văn “chính sách dạ dầy” để trị dân của người Pháp để lại.