← Quay lại trang sách

Chương 9

Khi đó, tôi cảm thấy thời gian trôi qua vô cùng chậm chạp, nhìn lại như thể ngày tháng dính liền vào nhau. Tôi bồn chồn và hồi hộp, không thể tập trung vào bất cứ việc gì. Trên chuyến bay sang Moscow, vì không có việc gì khác nên tôi đọc đi đọc lại kế hoạch mà chúng tôi phải thực hiện. Khi xuống máy bay, tôi đã thuộc lòng từng chi tiết của cuộc hành trình dài:

* Mục tiêu: Tiêu diệt chuyến bay số 858 của Hãng Hàng không Nam Hàn; máy bay xuất phát từ Baghdad ngày 29-11 và bay qua Băng Cốc về Hán Thành.

* Tổ hành động: điệp viên đặc biệt Kim Song Ir, trưởng đoàn; điệp viên Kim Okhva, trợ thủ.

* Tổ trợ thủ: điệp viên đặc biệt Chu Jong Su, trưởng đoàn; điệp viên Cho Hong Nark.

* Diễn tiến cuộc chiến đấu: Khởi hành hồi 8 giờ 30 phút ngày 12-11-1987 từ sân bay Sunan (Bình Nhưỡng) sang Moscow. Ở hai ngày tại tòa đại sứ Bắc Triều Tiên ở Moscow, mua vé máy bay hãng Aeroflot - chuyến bay sang Budapest, khởi hành hồi 9 giờ ngày 15-11-1987.

* Ngày 15-11: Khởi hành từ Moscow, đến Budapest lúc 11 giờ 4 phút. Ở ngày tại Budapest tại căn cứ an toàn của cơ quan tình báo ngoại quốc, đi tiếp sang Áo. Nhập cảnh Áo mà không cần hộ chiếu, với sự trợ giúp của các điệp viên địa phương. tại Vienna, tổ hành động sẽ ngụ tại Khách sạn Ampak, và liên lạc bằng mật khẩu Nakayama. Ở Vienna, tổ hành động dùng hộ chiếu Nhật tại mọi nơi mọi chỗ, và mua hai bộ vé máy bay khác nhau:

1. Vé thứ nhất theo lộ trình Vienna - Beograde - Baghdad - Abu Dhhabi - Băng Cốc - Hán Thành.

2. Vé thứ hai theo lộ trình Vienna - Beograde - Baghdad - Abu Dhhabi - Bahrein. Những vé này chỉ được dùng trong trường hợp bị bắt buộc hoặc nguy hiểm, để đánh lạc hướng.

Những vé lượt về qua Amman và Roma sẽ được mua riêng tại Abu Dhabi. Sau khi mua được bộ vé thứ nhất, tổ hành động gọi điện cho điệp viên đặc biệt Cho tại Baghdad. Trong thời gian còn lại ở Vienna, các thành viên nhóm hành động đóng vai hai du khách Nhật.

* Ngày 24-11: Đi từ Vienna lúc 11 giờ và đến Beograde vào hồi 14 giờ. Ở bốn đêm tại Khách sạn Matropolitan. Các thành viên tổ hành động lại nhập vai du khách.

* Ngày 28-11: Khởi hành từ Beograde lúc 14 giờ 30 phút, đến Baghdad 20 giờ 30 phút. Tổ hành động chờ chuyến bay số 858 của Hãng Hàng không Nam Hàn Giữa chừng, tổ hành động gạp gỡ tổ trợ thủ và nhận bom nổ chậm để tiêu hủy máy bay. Sau cuộc gặp mặt, cần đặt trái bom sao cho nó nổ sau đấy 9 tiếng, nhưng điều này còn phụ thuộc vào tình hình thực tế. Bom sẽ do Kim Song Ir đặt định giờ, nhưng nếu vì lý do gì đó mà Song Ir bị ngăn cản thì Kim Okhva cần thực hiện việc này.

Lúc 23 giờ 45 phút, sau khi lên chuyến bay số 858, tổ hành động đặt bom ở ngăn đựng hành lý phía trên ghế ngồi. Tổ hành động xuống máy bay tại Abu Dhabi, để lại bom trên máy bay. Nếu bom bị phát hiện trước khi tổ hành động xuống máy bay, cần trả lời rằng bom không phải của tổ hành động.

* Ngày 29-11: Đến Abu Dhabi vào hồi 2 giờ 50 phút sáng, chuyển sang chuyến bay tuyến Amman - Roma. Tại Roma, tổ hành động đăng ký một khách sạn và trong vài ngày lại thủ vai du khách Nhật.

* Ngày 1-11: Khởi hành từ Roma sang Vienna. Tổ hành động cự ngụ nhiều ngày một cách bí mật tại tòa đại sứ Bắc Triều Tiên, rồi theo hướng dẫn của bộ phận địa phương, sẽ trở về Bình Nhưỡng.

Sau khi đã học thuộc lộ trình, tôi chuyển sang học cách đặt giờ cho trái bom nổ chậm.

Chỉ dẫn đặt nổ (loại đài Panasonic loại RF-082):

* Cách đặt giờ trái bom nổ chậm để bom nổ sau đó 9 giờ:

1. Hãy xoay 4 nút ở dưới đáy chiếc đồng hồ kỹ thuật số, ở bên phải quả bom - đài.

2. Hãy xoay nút báo động về giữa từ Radio để bom nổ 9 tiếng sau khi được đặt giờ.

* Đặt giờ để bom nổ sau một khoảng thời gian nhất định khác:

1. Làm theo như điểm 1.

2. Chỉnh thời gian chính xác bằng cách bấm 3 nút ở dưới chiếc đồng hồ kỹ thuật số.

3. Bấm nút Màn hình ở phía bên phải đồng hồ kỹ thuật số.

4. Chỉnh thời điểm muốn cho bom nổ bằng cách bấm 3 nút nằm ở phía bên phải.

5. Làm theo điểm 2 ở phần trên.

Trên máy bay, có cả một điệp viên của cơ quan tình báo ngoại quốc; giữa đường, ông này đã gọi tôi và Song Ir lên đầu khoang ông ta ngồi để bàn bạc thêm một lần nữa về những chi tiết của "phi vụ" này. Chúng tôi đi máy bay riêng, hầu như trống rỗng, và sau khoang dành cho phi công có một phòng để trò chuyện, được bày biện thoải mái, có quán bar và đầu máy video.

Tên điệp viên đó là Chhon. Ông ta trạc năm mươi, béo lùn phục phịch, mái đầu bạc và hói và gương mặt khá tức cười, như thể lúc nào cũng mủm mỉm. Thoạt tiên, chúng tôi nhắc lại lộ trình mà trước đó mấy phút tôi đã nghiền ngẫm lại. Nhưng sau đó, ông ta nói thêm về một số chuyện đáng lo ngại mà đến nay vẫn chưa ai đả động tới.

- Chính phủ hoàn toàn tin tưởng vào các đồng chí - Chhon nói. - Tuy nhiên, không thể hoàn toàn loại trừ khả năng thất bại, cho dù khả năng này nhỏ đến mức nào đi nữa. - Ông ta rút ra 2 bao Marlboro rồi đưa cho Song Ir và tôi. - Các đồng chí sẽ thấy, trong hai bao thuốc là sẽ có 2 điếu được đánh dấu bằng mực đen. Ở phần lọc của hai điếu đó, được tẩm một loại chất độc lỏng. Nếu các đồng chí cắn vỡ điếu thuốc, chất này sẽ biến thành hơi và lập tức lùa vào tuần hoàn máu của các đồng chí. Hầu như các đồng chí sẽ chết tức khắc! - Ôn ta liếc nhìn tôi và tất cả những chyưện này có vẻ như một trò đùa. - Nếu bất cứ ai trong hai đồng chí bị bắt, lập tức phải cắn điếu thuốc độc này, trước khi bị hỏi cung. Bằng mọi giá, các đồng chí phải giữ bí mật nhiệm vụ này. Các đồng chí hiểu không?(NCTG) Tôi cảm thấy lòng dạ bị khuấy đảo khi liếc nhìn điếu thuốc được giơ ra, chứa trong mình cái chết đột ngột. Kim Song Ir gật đầu, và điệp viên Chhon tiếp tục thông báo.

- Các đồng chí sẽ nhận 10 ngàn USD để trang trải mọi chi phí. Các đồng chí phải tiêu xài một cách sáng suốt. Nữ đồng chí Okhva, tôi giao cho đồng chí nhiệm vụ chỉ đạo phần tài chính của nhiệm vụ này. Đồng chí hãy cất giữ tiền ở nơi đảm bảo và khi nào cần, hãy đổi ra các loại ngoại tệ khác. – Thò tay vào túi, ông ta rút ra một tập tiền toàn 100 USD dày cộp. Tôi thận trọng cầm lấy xấp tiền và cho vào túi xắc.

- Cuối cùng – Chhon nói – Okhva, đồng chí còn có nhiệm vụ kiểm tra xem đồng chí Kim Song Ir có uống thuốc chưa. – Lúc đó, ông ta mới nở nụ cười thực sự và quay sang nhìn người chiến sĩ lão thành. – Tôi biết, đồng chí ngán vị thuốc lắm, Song Ir ạ, nên tôi không hề tin tưởng vào đồng chí. Mà chúng tôi thì cần đến sức khỏe của đồng chí.

Kim cười, nhún vai. Ông quay về phía tôi.

- Okhva, cô để chúng tôi trao đổi riêng một phút nhé?

- Vâng, tất nhiên – tôi đáp. Tôi đứng lên và trở về chỗ của mình. Trong phòng, tôi nghe thấy hai người tranh luận to tiếng. Nếu tôi hiểu đúng, Song Ir chê lộ trình.

- Ngu xuẩn! – ông nói to. – Chúng tôi sẽ lọt vào giữa vùng chiến địa chó chết. Iran và Iraq vẫn đang tuyên chiến với nhau, không sao đem bom vào phi trường Baghdad được. Nếu có gì xảy ra, chẳng những tôi và Okhva gặp nguy hiểm. Cả dân tộc sẽ trở thành trò cười! Đồng chí không hiểu hay sao?

- Đồng chí ạ - Chhon vạc lại -, tôi được nhận lệnh như thế. Nếu đồng chí muốn kêu ca gì, hãy gặp giám đốc mà kêu.

- Nhảm nhí! – Kim lẩm nhẩm trong họng. – Tôi đã bảo ngay từ lúc ở Trung tâm. Bây giờ thì chịu rồi. - Một phút sau, ông trở về chỗ ngồi. Trước khi chúng tôi lên đường, Kim bị mổ dạ dày; người ta đồn là ông bị ung thư. Khuôn mặt ông trong nhợt nhạt và ốm yếu, dáng đi của ông cũng hơi loạng choạng. Ông tiến đến nhà tắm ở cuối máy bay rồi đóng sầm cửa lại.

Khi ấy, đồng chí Chhon đến chỗ tôi, ngồi xuống bên tôi và nói nhỏ:

- Trong chuyến đi này, nhiệm vụ quan trọng nhất của đồng chí là chăm sóc sức khỏe cho Kim Song Ir. Nếu có gì xảy ra với đồng chí ấy, đồng chí phải thay thế để tiếp tục nhiệm vụ.

- Song Ir đứng còn không vững nữa là… - tôi thì thầm.

- Một phần, là vì đồng chí ấy đang phải điều trị - Chhon giải thích. - Đồng chí Kim có lẽ sẽ còn sống được nhiều năm nữa, có điều nhiệm vụ này đã khiến đồng chí ấy mệt mỏi. Và vì thế, sức khỏe đồng chí ấy suy sụp. Hãy chăm sóc đồng chí ấy, Okhva ạ. Đồng chí ấy sẽ cần đến cô…

Tôi gật đầu.

- Đồng chí chớ lo, tôi sẽ giải quyết được. – Tôi nói một cách quả quyết hơn nhiều, so với sự tự tin mà tôi có trong mình.

Ông nhìn tôi một lượt, trước khi đứng dậy, cơ mặt giật giật và trở lại phòng trò chuyện. Vài phút sau, Kim cũng về chỗ, mặt mũi nhợt nhạt hơn bao giờ hết và ngồi xuống chiếc ghế đầu của hàng hai.

- Bọn chết tiệt! – ông lẩm nhẩm rồi nhắm mắt và ngả đầu ra ghế dựa.

Tôi cố gắng ngủ nhưng không sao chợp mắt được. Càng ngày, tôi lại càng nhớ lại những giây khắc trước giờ khởi hành, tại Bình Nhưỡng, khi tôi và Kim thực hiện lời tuyên thệ trung thành bắt buộc trong những dịp như vậy.

Cả dân tộc ta được bao trùm bởi đỉnh cao trí tuệ của chủ nghĩa xã hội. Tại Nam Triều Tiên, bất cứ lúc nào, có thể nổ ra cuộc cách mạng XHCN, kẻ thù của chúng ta đang sống những giờ tận thế. Nhận nhiệm vụ này, chúng tôi xin thề:

Trong khi làm nhiệm vụ, không một phút nào chúng tôi dám quên niềm tin của đảng dành cho chúng tôi, sự quan tâm của đảng với chúng tôi. Chúng tôi xin thề sẽ tuân thủ những quy luật của cách mạng, và toàn tâm toàn ý cùng nhau thực hiện mục tiêu của chuyến đi này.

Dù phải hy sinh, chúng tôi cũng nguyện bảo vệ sự bất khả xâm phạm của Lãnh tụ Kính yêu.

Kim và tôi phải đọc to lời thề này, và còn phải ký vào văn bản.

Tôi mở mắt và liếc sang Kim. Dường như ông đang ngủ, thở qua miệng, tiếng thở khá to. Đột ngột, tôi cảm thấy thương ông vô cùng, tôi muốn phải xoa gương mặt ông.

Kim Song Ir là cha của bảy đứa con. Con gái trẻ nhất của ông cũng đã 30 tuổi, đã có chồng. Từ năm 1984, Song Ir đã về hưu và chấm dứt hoạt động tại cơ quan tình báo đối ngoại, nhưng đầu năm nay người ta lại đề nghị ông làm tiếp. Những năm gần đây, ông bị căn bệnh sỏi mật hành hạ, nhưng trong chuyến đi đầu tiên của chúng tôi năm 1984, ông còn tương đối khỏe. Vài ngày nay, ông hay kể về những ngày về hưu, ông làm gì, và câu cá mỗi sáng ở ao chứa nước gần nhà như thế nào. Tôi biết rằng ông cũng hạnh phúc đến mức nào nếu qua được chuyến đi này, hệt như tôi.

Rồi tôi lại chợt nhớ đến hôm tôi rời trại ra đi. Tôi phải thu xếp đồ đạc rất nhanh, hầu như chả còn thời gian để chào hỏi. Tôi chúc Sukhi nhiều may mắn với hy vọng sẽ còn được thấy nhau, rồi đi tìm Vulchi. Bà nấu bếp ra phòng khách và thoạt tiên, bà ôm chầm Song Ir, tình cảm.

- Ông à, cố gắng bảo trọng mà về nhé! - bà nói, mắt đẫm lệ. Rồi bà quay sang tôi, nhìn tôi thật lâu. Cuối cùng bà nói: - Okhva, hãy sống hạnh phúc cháu nhé. Bác sẽ rất nhớ cháu!

Câu nói ấy hơi khiến tôi sợ hãi.

- Nhưng có phải cháu đi mãi không về đâu bác?

Bà nắm tay tôi, đưa tôi vào bếp sau khi đã bảo đám đàn ông hãy chờ đợi. Khi chỉ còn hai bác cháu, bà ôm ghì tôi:

- Okhva ạ, bác nghĩ rằng nếu cháu không đẹp thế này, đời cháu sẽ dễ chịu hơn. Có điều, cháu vừa đẹp, vừa thông minh nên làm sao họ bỏ qua cho cháu được! Nhưng bác hy vọng rằng, sẽ có ngày người ta cho phép cháu đi lấy chồng và được sống yên lành. - Bà thả tôi ra và nhìn vào mắt tôi. - Bác cháu mình sẽ không còn bao giờ gặp nhau nữa. Chúc cháu may mắn!

Khi ấy tôi cũng rơm rớm nước mắt, không nói được lời nào, cứ thế tôi đứng im lặng cho đến khi đi ra. Tôi biết, nếu còn ở lại dù chỉ một phút, tôi sẽ không còn chút tự chủ nào.

Những suy nghĩ lại đưa tôi về hiện tại, tôi thở dài thật to. Những năm tháng qua, tôi đã quen bao người tuyệt vời. Điều này càng thúc giục tôi phải thực hiện thật tốt nhiệm vụ được giao. Tôi hy vọng sẽ đủ khả năng để thỏa mãn sự mong đợi của các đồng chí. Dường như cả cuộc đời tôi, từ giây phút chào đời đến phút ấy, chỉ còn phụ thuộc vào thành công của nhiệm vụ này…

Vài ngày sau đó trôi đi thật chậm chạm đến mức não lòng. Đâu đó trong lãnh thổ Liên Xô, giữa đêm, chúng tôi dừng lại để tiếp nhiên liệu. Tuyết phủ trắng đường xá, chỉ vài ngọn đèn của thành phố nhỏ lập lòe về phía chúng tôi khiến tất cả nơi này càng trở nên hoang vu. Rồi chúng tôi đi tiếp đến Moscow, tại đó chúng tôi chỉ ở lại một ngày phiền muộn duy nhất trước khi đi tiếp sang Budapest.

Cũng như Moscow, Budapest đang trong tiết giữa đông. Chúng tôi đến vào đêm khuya, hóa ra không ai tại tòa đại sứ ở đó biết đến chúng tôi. Rõ ràng là nhiệm vụ của chúng tôi bí mật đến mức chỉ rất ít người được biết tới nó. Kim gọi điện đến tòa đại sứ, ông nói mật khẩu và được trò chuyện với một điệp viên. Nửa giờ sau, một người lái xe đến từ tòa đại sứ, ông ta có nhiệm vụ đưa chúng tôi đến một nơi an toàn mà chúng tôi sẽ ở đó trong vài ngày sau đó. Tuy nhiên, ít phút sau, ông tài xế thú nhận rằng ông là “lính mới” và không mấy thạo phố xá Budapest. Tuyết rơi vần vũ, chúng tôi thì mò mẫm nhiều giờ trong những phố xá vắng vẻ cho đến khi tìm được ngôi nhà an toàn. Lúc ấy đã là 3 giờ đêm. Kim và tôi lập tức lăn ra ngủ.

Vài ngày ở Budapest nhàm chán đến mức không thể chịu nổi. Kim Song Ir yếu và mệt đến mức hầu như ông không đi đâu nổi, và vì khi ấy chúng tôi chưa phải nhập vai du khách, chúng tôi chả có việc gì hay ho phải làm. Đôi lúc tôi đi dạo ở gần nhà để cảm thấy bầu không khí của một thành phố mới, nhưng thời tiết quá khắc nghiệt và bất giác, sự rã rời lại ngự trị tôi. Vô tuyến cũng không làm tôi vui lên, tôi chả hiểu chút gì tiếng Hung cả.

Điệp viên có nhiệm vụ lo cho chúng tôi tại Budapest là một người đàn ông trung niên, tên là Chang. Vợ ông là một phụ nữ tuyệt vời, bà hay nấu cho chúng tôi những món ăn Tây là lạ. Tôi trò chuyện nhiều với bà, có điều chúng tôi phải giữ bí mật nên chúng tôi chỉ có thể “tám” được về những chuyện hời hợt.

Vấn đề lớn nhất mà chúng tôi phải giải quyết là làm sao nhập cảnh nước Áo mà không có thị thực. Phải làm sao thực hiện được điều đó mà không để ai phát hiện ra, nhưng đến khi đó vẫn không ai bảo chúng tôi biết họ hình dung thế nào. Các “sếp” của chúng tôi ở Bình Nhưỡng không hề đưa ra một chỉ thị nào liên quan đến nhiệm vụ này, điệp viên đặc biệt Chang có bổn phận phải xoay sở bằng một giải pháp nào đó.

Trước ngày chúng tôi khởi hành một buổi, Chang rời ngôi nhà chúng tôi ở từ sớm để “tìm hiểu tình hình”. Kim đã cảm thấy đỡ ốm, ông đề xuất rằng chúng tôi hãy nhìn ngó một chút thành phố và Liau, bà vợ của Chang, cũng đi cùng chúng tôi. Cứ gặp bất cứ tiệm cà phê nào trên đường đi, Kim lại dừng chân và bảo ông khát. Thất vọng, tôi nhận xét rằng, một phần, lẽ ra ông có thể đem theo một bình nước, phần khác, ai đã bị đau dạ dày như ông lẽ ra không được phép uống cà phê.

- Nghe đây cô! - ông giận dữ bảo tôi. - Tôi sống quá đủ rồi. Hãy để tôi muốn uống gì thì uống, nếu đằng nào cũng phải chết.

Nhưng rồi chẳng mấy chốc, Kim đã mệt và chúng tôi lại phải về nhà. Chang cũng trở lại và ông đắc thắng thông báo rằng ông đã nghĩ ra cách để chúng tôi sang Áo.

- Nhưng để đến mai đã, rảnh mà - ông nói thêm. - Tối nay chúng ta ăn cơm Tây tại Khách sạn Hilton.

Trên đường đi ăn bữa tối, tôi có dịp ngắm cảnh Budapest nhiều hơn. Mặc dù trong nhiều năm ròng, Hungary là một nước cộng sản, song trong những năm qua, nhờ kết quả của quá trình cải tổ (perestroika), trong một chừng mực nhất định, nước này đã chuyển sang nền kinh tế thị trường. Hungary có nhiều đồ ăn thức uống, quần áo và các loại hàng sang trọng hơn hẳn Bắc Triều Tiên và tôi đã trải qua một trong những khoảnh khắc sững sờ nhất trong đời khi tôi đến chợ trời ở đây. Tôi kinh ngạc theo đúng nghĩa của từ này khi thấy có biết bao hàng hóa ở đó và, từng thứ một, tôi lần lượt sờ nắn chỉ để có cảm giác khoái trá là được đụng chạm đến chúng. Có lẽ Kim cảm thấy điều gì đang diễn ra trong tôi vì ông mua cho tôi một bộ quần áo, còn tôi thì nghĩ thầm trong lòng, giá tôi gửi được quần áo cho mẹ và Hyonok. Hẳn là Liau đọc được suy nghĩ của tôi, bà bảo bà mua thêm một bộ đồ nữa và sẽ gửi cả hai bộ về Bình Nhưỡng. Tôi nhảy lên ôm chầm lấy cổ bà vì vui sướng, và trong tôi nảy ra ý nghĩ, khi nào mới đến lúc mức sống ở Bắc Triều Tiên cao được như thế!

Bữa tối thật là vương giả, những món ngon và hảo hạng như thế ngay cả những cán bộ cao cấp nhất ở Bắc Triều Tiên cũng chưa bao giờ được ăn và đến khi đó, tôi đã thấy thích chuyến đi như trong cuộc hành trình đầu tới Châu Âu lần trước.

Ngày hôm sau, trời lạnh lẽo và mưa dầm. Chang giải thích rằng ông sẽđưa chúng tôi sang Áo bằng xe hơi biển số ngoại giao, với hộ chiếu ngoại giao. Như thế, chúng tôi rất có khả năng qua biên giới mà không gặp bất cứ một phiền hà gì.

Chúng tôi đi ngang miền quê đến biên giới và dừng xe ở điểm kiểm tra của Hung. Chang đưa cho người lính biên phòng 3 cuốn hộ chiếu, trong số đó cuốn của ông ta ở trên cùng, và người lính khoát tay cho chúng tôi đi tiếp. Vài phút sau, chúng tôi dừng ở nơi có toán biên phòng Áo rồi chờ đợi thêm mấy phút nữa để vào hẳn lãnh thổ Áo.

Tôi cảm thấy nhẹ nhõm hẳn trong lòng. Chang trao cho chúng tôi hai cuốn hộ chiếu Nhật để từ phút đó chúng tôi phải dùng. Giữa đường, tôi ngắm nghía những tòa nhà xây theo kiểu Tây, có vẻ to và bền vững hơn nhiều so với nhà của Triều Tiên. Phong cảnh thật tuyệt vời, ở lần đi trước, tôi cũng đã bị vẻ đẹp của vùng Alples hớp hồn.

Tại Vienna, chúng tôi tới một công ty du lịch: Kim muốn kiểm tra phòng chúng tôi đã đặt ở Khách sạn Ampak. Kim đã vào được hơn nửa giờ, Chang và tôi bắt đầu lo lắng. Chẳng lẽ Kim bị lử trong đó? Hay ông ấy bị bắt rồi? Chang đã muốn vào kiếm Kim khi chúng tôi thấy Kim đình huỳnh bước ra và đủng đỉnh ngồi vào xe. Không hề buông lời giải thích, ông chỉ thị ngắn gọn cho Chang đưa chúng tôi về khách sạn.

Khi chúng tôi làm xong các thủ tục đăng ký, Song Ir gần như đứng không vững. Vừa lên đến phòng, ông lăn ra giường và một giây sau, đã ngủ vùi. Tôi bỏ hành lý ra và xem những tờ bưu thiếp mang đi từ Bình Nhưỡng. Kim còn ngủ thêm một giờ nữa và khi tỉnh dậy, ông còn thời gian nhận vé.

Đây là biến cố quan trọng nhất trong cả quãng thời gian chúng tôi ở Vienna. Một nhân viên của bộ phận tình báo đối ngoại đã đặt vé cho chúng tôi từ trước và trong ngày, chúng tôi còn phải gặp một điệp viên hoạt động tại địa phương. Chúng tôi giương ô đi dưới trời mưa tuyết. Không xa, chúng tôi đã tìm thấy một bốt điện thoại; Kim móc túi tìm danh bạ điện thoại. Trước khi đi, Chang đã trao cho chúng tôi một danh sách gồm các số điện thoại “an toàn” mà chúng tôi có thể gọi được các nhân viên bộ phận tình báo đối ngoại ở mọi nơi. Kim gọi số máy đặc biệt của tòa đại sứ Bắc Triều Tiên ở Vienna, ông nói ngắn gọn rồi đặt máy.

- Nửa tiếng nữa - ông cho biết khi đã ra khỏi bốt điện thoại. - Ông chỉ sang một công viên ở phía bên kia đường. - Giữa công viên này có một con suốt chảy dọc. Chúng ta phải ngồi đợi điệp viên địa phương tại chiếc ghế gần cây cầu nhất.

Chúng tôi sang đường và đi dạo vào công viên. Lá cây đã rụng hết từ lâu, trong công viên chẳng có một bóng người. Nhanh chóng, chúng tôi nhận ra con suối và dọc theo nó, chúng tôi cứ đi đến khi tìm thấy chiếc cầu đá nhỏ vắt qua suối. Gần đó, có một chiếc ghế. Chúng tôi ngồi xuống và chờ đợi trong cái lạnh ẩm ướt.

Hai mươi phút sau, một phụ nữ ăn vận sang trọng, đội mũ rộng vành đi qua cầu và tiến đến chỗ chúng tôi. Khi bà đến gần, tôi nhận ra đó là một người Cao Ly. Không dừng chân, bà đi ngang chúng tôi nhưng khi đến cạnh chúng tôi, tôi nghe bà nói từ Nakayama. Song Ir không nhìn người phụ nữ, chỉ nhắc lại mật khẩu. Người phụ nữ đi tiếp, nhưng giữa đường bà ném cái gì đó vào sọt rác ở gần đó. Chẳng mấy chốc, bà đã biến khỏi tầm mắt của chúng tôi.

Kim còn chờ vài phút rồi bảo chúng tôi có thể đi. Cũng trên con đường mòn mà người phụ nữ đã đi, chúng tôi lần bước và khi đến cạnh sọt rác, Kim nhanh nhẹn nhìn quanh, đột ngột thò tay vào sọt và lấy ra một phong bì to màu nâu. Chúng tôi đi tiếp, rồi Kim mở phong bì và ngó vào.

- Tuyệt hảo! - ông nói. - Có lẽ chúng ta vẫn thoát nạn nhỉ?