Hồi Thứ Nhất Thành Bình-định thuật sơ sự tích-Võ-đông-Sơ lướt dậm quan hà
Trong lúc lửa hạ vừa tàn, gió thu đổ lá, kia xóng róng một đám rừng thung cụm liễu, cây đứng xơ rơ, trợn mắt trơ trơ, dường như giận cái phong-cảnh tiêu điều, mà phai màu xủ lá. Nọ một dãy trường-san vọi vọi, nằm dọc theo mé biển Đông-dương, dơ sóng phơi sườn mà thiêm thiếp im lìm ở dưới trời nam, dường như buồn thảm cái thời tiết đổi dời, nên không động dạng.
Còn phía Đông-nam một giãy, thì cỏ hoa lúp xúp, mấy tòa cửa hoạn nhà quan ; day mắt ngó ngang, thì thấy một giãy đồn quân trại lính ; ấy là một cảnh Tỉnh-thành Bình-định đẹp thay thủy tú san kỳ. Còn nhắm lại cảnh Tây-bắc phía sau, thấy chớp chỡ non cao, sờ sờ một cái Cổ-tháp của nước Chiêm-thành khi xưa, đã thuộc về Việt-nam ta chiếm cứ, tuy là lờ mờ bụi đóng rêu phong ; nhưng cũng còn trơ trơ một tòa tháp nguy nga nên gộp đá.
Vậy nên xưa những đứng thi nhơn danh sĩ đi ngang qua xứ nầy, thấy cái cảnh tình sự nghiệp của nước Chiêm-thành đã tiêu điều, duy còn cái tháp nầy trải qua chẳng biết bao nhiêu gió táp mưa sa, thỏ tà ác lặn, thì cám cảnh mà làm câu thi như vầy
Đa thiểu phiền ba vân cọng khứ,
Duy dư tiền tháp lão càn khôn.
(Nghĩa là: chốn phiền-ba thị tứ của nước Chiêm-thành (tục kêu là Chàm) đã theo mây gió mà tan-tành, duy còn một cái tháp tiên nầy kình với lão càn khôn mà đứng trơ trơ lên bàn-thạch.)
Đó rồi ngó qua phía trên, thì thấy trong đám rừng hoang cỏ rậm, lấy cây làm gác, bẻ lá che chòi, đặng mà đụt nắng trốn mưa, ấy là rải-rác ít nhà con mọi.
Trong khi đương châm-châm mắt ngó cái cảnh tượng của Võ-trụ san-hà, mê mẩn thú nước biếc non xanh, làm cho ngơ ngẩn tâm thần, rồi đứng sững chần ngần, như điên như ngốc, thình lình thấy một lằn khói mù mịt, xung xăng bay lên dựa mé rừng kia, rồi lần lần bay qua triền núi nọ.
Kế một lát nghe tiếng lạc đồng rảng rảng, chợt thấy một bóng ngựa kim ô, bốn vó bỏ liền vo, chạy nghe lốp bốp. Chừng chạy lại gần, thì rõ ràng một con ngựa cao lớn vạm vỡ phi thường, chóp mao xủ trán, hình như sư-tử hạ sơn, lông gáy dửng ngay, dạn giống kỳ-lân xuất thế, yên cương đẹp đẽ, kiều khấu rõ ràng ; thật là một giống hùng mã long-cu, chớ chẳng phải ngựa tầm thường sánh kịp.
Trên ngựa ấy thấy một trang niên thiểu, lưng mang đoản kiếm, mình mặc võ trang, tướng mạo đường đường, thật đáng một vị anh-hùng hào-kiệt, đương buông cương giục ngựa, bôn ba lướt dậm quan-hà, vượt bụi băng rừng vội vã theo đường tiểu lộ.
(Khán quan có biết một vị thiếu niên nầy là ai chăng? Nếu tôi không cầm viết chỉ ngay ra dưới đây, thế thì liệt vị khán-quan có lẽ cũng còn hồ nghi mà tưởng rằng một người tha bang dị chủng.
Song người thiếu-niên nầy chẳng lạ, người nầy tên là Võ-đông-Sơ, vẫn là con của một vị Khai-quốc công-thần của đức Cao-hoàng khi xưa, là quan Hậu-quân Võ-Tánh.)
Đây tôi xin nhắc sơ lược sự tích của quan Hậu-quân Võ-Tánh. Nguyên là người ở Baria, sau nghe Cao-hoàng muốn phục-nghiệp trung hưng, thì ngài đem binh ứng nghĩa, đánh với Nguyễn-Nhạc Tây-Sơn, đến đâu thì kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công, bọn giặc đều táng đởm kinh tâm, mà cho ngài là một vị Võ-công danh tướng.
Khi ngài bị một vị tướng quân của Tây-Sơn là Trần-quan-Diệu vây thành Bình-Định ba năm, trong đã hết lương, ngoài không binh cứu. Đương lúc thế cùng binh nhược như vậy, ngài bèn lên cái lầu Bát-giác kia, rồi kêu tướng-sĩ đến mà nói như vầy: “Các tướng-sĩ ôi! ta cảm ơn tướng-sĩ đã tận tâm kiệt lực, lướt đạn xông tên, mà chịu cực khổ với ta trong thành nầy đã ba năm dư, cũng tưởng hết sức với nước nhà mà trừ loài nghịch tặc, nhưng binh giặc càng ngày càng đông, mà trong thành lương tiền đều hết. Vậy nay ta quyết mượn ngọn lửa nầy mà vị quốc quyên sanh, cho khỏi nhọc lòng tướng sĩ ; nhưng ta xin tướng sĩ một đều là sau khi ta thác rồi, thì các tướng sĩ sẽ mở cửa thành ra mà trở về quê hương xứ sở, đặng nuôi dưỡng cha mẹ vợ con, chớ chẳng nên dục lợi cầu vinh mà hàng đầu kẻ giặc.”
Nói rồi day qua hướng Nam lạy vua 4 lạy, rồi lấy điếu thuốc của ngài hút liệng trên giàn hỏa, thuốc súng bắt lửa bừng lên.
Ôi! cái hồn trung liệt của một vị khai quốc công thần, nay đã theo ngọn lửa vô-tình nầy ; phất phất phiêu phiêu, mà tiêu diêu nơi cõi thọ.
Đây tôi xin nhắc lại tên Võ-đông-Sơ khi cha người là Võ-Tánh mất rồi, thì Đông-Sơ còn nhỏ ở với mẹ là Ngọc-Du công-chúa tại Nam-Kỳ, đến khi lớn lên thì mẹ đã từ trần. Đông-Sơ bèn ra ở với chú tại thành Bình-Định mà học nghề văn, tập nghiệp võ. Thật là một vị con dòng cháu giống của cửa tướng nhà quan, tánh chất thông minh học ít biết nhiều, nên văn võ gồm hai, đáng một bực nhơn tài tuấn kiệt.
Chú thấy Đông-Sơ thông-minh hào-hiệp, thì thương cháu cũng như con ; bởi vậy nên đã nhiều phen muốn tính việc nhơn duyên, đặng định cho cháu sánh bề giai ngẫu. Nhưng Đông-Sơ chối từ không chịu, mà thưa với chú rằng:
Thưa chú! chú đã đem lòng hạ cố mà nghĩ thương chút phận đơn cô, nên muốn tính việc lứa đôi, thì cháu chẳng xiết muôn ngàn cảm tạ. Nhưng mà cháu nghĩ phận trẻ đương lúc bèo mây trôi nổi, nào biết đâu là biển ái nguồn ân, vì cái áng công danh còn ngơ ngơ ngẩn ngẩn nơi chốn phong trần, chưa biết chừng nào đặng mở mang mày mặt, lẽ đâu dám vội quên chữ lập thân hành đạo, cho hiển tổ vinh tông, lại đem cái chí khí nam-nhi mà ràng buộc theo dây tình thê-nữ? Vả lại: sự chồng vợ là một mối luân thường rất trọng, trong lúc thời đợi văn minh, xin chú để cho cháu lóng đục dò trong, mà lựa một bực đức hạnh song toàn, sắc tài xứng đáng, đặng ngày sau lấy cái sự tài đức của phấn đại quần-xoa mà cầm quyền tề gia nội trợ thì mới đặng, ấy là chí bình sanh sở nguyện của cháu như vậy.”
Chú nghe Đông-Sơ phân giải cặn kẽ mấy lời, thì chúm chím miệng cười, thỉnh thoảng vuốt râu, rồi gật đầu mà cho là phải.
Cách ít bữa, Đông-Sơ thưa với chú xin ra Đông-kinh du học, trước là trau dồi việc võ, sau là tập luyện nghề văn, cho tinh thuộc hoàn toàn, đặng đợi hội thu-vi ra mà lập công danh với thế, đoạn mới sắm sửa đồ hành trang và lộ phí, rồi một mình giục ngựa buông cương, giãi nắng dầm sương, theo quan lộ băng chừng thẳng tới.
Đây tôi xin nhắc khán quan nhớ lại trong khoản trước tôi đã nói một vị thiếu-niên anh-hùng cỡi ngựa chạy nơi mé rừng kia, làm cho một lằn khói bụi bay lên mù mịt, đó là lúc Võ-đông-Sơ đã từ giã chú rồi, cỡi ngựa ra Đông-kinh mà du học, nên đây tôi xin tiếp theo.