← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Mười Bốn Đến hoa-viên gia chủ gặp thơ-đồng,-Tuần Nam-quan Đông Sơ vâng thánh chỉ.

Khi Đông-Sơ qua tới Tây-viên đứng trước tường thành ngó vào tư thất của Tiểu-thơ, thì tư bề vắng vẻ, chẳng thấy một ai, rồi ngó ra Lương-đình là chỗ hội ngộ cùng Tiểu-thơ ngày xưa, bây giờ chỉ thấy cửa đóng then gài, hoa rơi lá rụng, duy có một vài con chim sẻ sẻ đậu trên nhành cây, thỏ thẻ giọng buồn, tiếng kêu chóc-chóc. Rồi ngó lại Quan-âm-các thì thấy vài cụm dương chi tịch-mịch, ít mảnh liễu yếu lơ-thơ, và nhắm trước xem sau, thì cái mảnh yểu-điệu hồng-nhan ngày xưa, chẳng biết cớ gì mà biệt tin biệt dạng. Chỉ còn thấy một vài đóa hoa đào dã-dượi, bị mấy phen gió táp mưa sa, làm cho phấn lợt hương tàn, dường như buồn nỗi vườn xuân vắng chủ. Ấy là:

Nhơn diện bất tri hà xứ khứ,

Đào ba y cựu tiếu đông phong (1)

Thật là tình cảnh rất buồn bực ưu sầu, làm cho Đông-Sơ bưng khuâng cám cảnh đau lòng, đứng trước tường thành mà sững sờ ngơ ngẩn.

Bỗng thấy phía kia một người xâm xâm chạy tới kêu Đông-Sơ và nói rằng: “Chào Quan-nhơn, bấy lâu tôi có lòng trông đợi Quan-nhơn, may thay! ngày nay mới đặng tớ thầy hội ngộ.”

Đông-Sơ nhìn lại thì thấy thơ-đồng là đứa ở với mình khi trước, liền mừng và hỏi: “Bấy lâu mi ở đâu? Và có đều chi lạ chăng? Nói cho ta rõ với.”

Thơ-đồng nói: “Từ Quan-nhơn phụng-mạng đi dẹp quân hải-khấu nơi biển Đông-dương, thì tôi qua ở với Bạch-công-tử coi sóc cái hoa-viên nầy, mà thê thân độ nhựt đặng đợi Quan-nhơn trở về. Chẳng dè ngày nay đặng gặp Quan-nhơn tại đây, thầy tớ trùng phùng, thì lòng tôi biết bao mừng rỡ.”

Đông-Sơ nói: “Mi ở đây với Bạch-công-tử mà mi có rõ việc Tiểu-thơ ra thế nào chăng?”

Thơ-đồng bèn thuật chuyện công-tử gả ép Tiểu-thơ cho Vương-Bích. Tiểu-thơ chẳng chịu, nửa đêm trốn đi. Tiểu-thơ biết tôi là người ở với Quan-nhơn khi trước, và đem lòng tin cậy, nên trước bữa đi, có trao cho tôi một cái mật thơ, và dặn tôi chờ Quan-nhơn trở về, thì giao cho Quan-nhơn khai khán. Nói rồi thò tay vào túi lấy phong thơ trao cho Võ-đông-Sơ. Đông-Sơ lật đật giở thơ ra xem thì thấy nói như vầy:

“Từ khi Lang-quân quan hà tách dặm, gánh vác một trách nhậm cực nhọc nơi chốn hải-giác biên thùy, thiếp ở nhà chỉ gìn một lòng trực tiết cô phòng, xem tháng dường năm ; đã mỏi mắt phương trời, trông cho Lang-quân trở bước khải hoàn, hầu tính cuộc lương-duyên giai-ngẫu. Chẳng dè gặp cơn gia biến, Nghiêm đường rủi lâm trọng bịnh sớm biệt cõi trần. Trong khi thủ hiếu cư tang, phận sự làm con như thiếp, giọt nước mắt sầu bi, chứa chan chưa ngớt. Anh thiếp đã chẳng dò trong lóng đục, lại ưa theo việc phi nghĩa tiền tài, rồi đem thiếp mà gả cho kẻ lãng hạnh phong tình, xem dường một hàng buôn hương bán phấn.

Thiếp nghĩ vì thiếp đã đem thân liễu-bồ nhược chất mà ký thác duyên phận cho Lang-quân, dầu gặp cuộc bất trắc thế nào, thiếp cũng gìn một đá vàng, chẳng hề dời lòng đổi dạ.

Vì vậy thiếp đã từ hôn tỵ thú, nửa đêm tạm kế thoát thân. Nay thiếp vì ơn tri ngộ của Lang-quân ngày xưa rất nặng nề, nên chẳng nài cực khổ trong khi gối tuyết nằm sương. Thiếp chỉ vái cùng Cao-xanh cho cái vóc liễu yếu đào thơ nầy thể tráng thân cường, thì thiếp cũng liều nhắm mắt đưa chơn, chẩm hẩm bước lên đường lưu lạc phong trần, mà chờ Lang-quân cho trọn lời thệ ước, dẫu thiên-sơn vạn-hải, thiếp cũng cam lòng, chỉ quyết quảy một gánh biệt hận ly sầu nơi vai, và chìm nổi linh đinh nơi biển khổ tình nầy, đặng xem cơ tạo-hóa điên đảo thế nào cho biết.

Như Lang-quân chẳng phụ lời xưa thệ ước, trong khi dưới nguyệt bên hoa, thì xin đến tỉnh thành Hải-ninh hỏi nhà di mẫu của thiếp là Mã-thị phu-nhơn, là nơi thiếp ký túc thê thân, đặng mà chờ ngày cùng Lang-quân trùng phùng hội diện.”

Ký tên BẠCH-THU-HÀ đốn bái.

Thơ tuy vắn tắt, mà từ lý rất thâm trầm. Đông-Sơ đọc rồi thì khiến cho khúc ruột chung tình, chẳng dần mà đau, chẳng vò mà rối. Làm cho “Bưng khuâng nhớ cảnh nhớ người, nhớ nơi kỳ ngộ nhớ lời ước giao.

Nghĩ chừng nào thì càng cảm thương Tiểu-thơ là một phận đài các hồng nhan, lầu son má phấn, ngày nay vì một chung tình mà phải ra thân lưu lạc giang-hồ, linh đinh thuyền bá, trôi nổi theo lượn sóng nghiệt hải phong đào, chưa biết bao giờ mới đặng vào bến trùng phùng mà vầy duyên cá nước.

Đó rồi Đông-Sơ day lại nói với thơ-đồng rằng: “Nay ta nhứt định đi tìm kiếm Tiểu-thơ, chưa chắc trú ngụ nơi nào, vậy mi hãy tạm ở lại đây ít lâu, ngày sau sẽ toan bề tái hội.” Thầy tớ bịn rịn một hồi, rồi Đông-Sơ vội vã trở về ngụ sở, và tính xin phép nghỉ đặng tìm kiếm Tiểu-thơ.

Khi về tới dinh thì có Thánh-chỉ Hoàng-thượng ban phong cho Đông-Sơ làm chức Khinh-xa-Đô-úy, và sai đi tuần thủ mé Nam-quan, đặng phòng binh của Thanh-triều xâm loạn.

Đông-Sơ đặng Thánh-chỉ ân thăng chức Đô-úy, và sai đi tuần thú Nam-quan, thì lòng mừng phới phở, mừng là mừng nay đặng Triều-đình trọng dụng, chức phận vinh vang, và lấy theo lời trong thơ, thì chắc Tiểu-thơ đến Hải-ninh mà trú ngụ nơi nhà dì là Mã-thị Phu-nhơn. Vậy thì cũng là một dịp rất may mắn cho mình, đặng đi ngang qua tỉnh ấy mà tìm kiếm Tiểu-thơ luôn thể. Đó rồi sắm sửa hành lý, và vào dinh từ tạ Lê-công, rồi đi với hai tên quân-nhơn theo đường Hải-ninh thẳng tới.

Chú thích:

(1) Người tình chẳng biết đi đâu không thấy mặt, chỉ thấy hoa đào cười gió đó mà thôi.