Hồi Thứ Mười Sáu Gặp Nữ-sĩ ra tay cứu mạng-Nơi Thạch-đình tạm chốn thê thân
Khi con quái ấy cách Tiểu-thơ chừng vài chục thước, thì đứng lại, day đầu ngó nghinh Tiểu-thơ. Tiểu-thơ và thể-nữ đứng núp sau gốc đại-thọ đã thất vía kinh hồn, tay chơn đều run lập cập.
Bỗng thấy một lằn hào quang dọi ngang trước mặt, rồi xẹt lại con quái kia. Tiểu-thơ ngó lại thì thấy rõ ràng con thú một sừng rất dữ dằn, tục kêu là con tây, gầm đầu chạy tới, đụng vào gốc đại-thọ một cái rất mạnh, làm cho cả cây đại-thọ đều rung rinh. Còn Tiểu-thơ và thể-nữ thất kinh la lên một tiếng, rồi nhào lăn xuống đất.
Con quái ấy thấy vậy, xốc tới muốn giết hai cô. Bỗng đâu có một mũi tên phía kia xẹt lại trúng nhắm đầu con quái ấy, rống lên một tiếng rền cả và rừng. Kế đó một con bạch-tượng phía sau rừng nhảy ra, xốc lại cự với con quái kia một cách dữ tợn, lại thấy một người đứng trên lưng con bạch-tượng, vai mang cung-tiễn, tay cầm một cây trường thương dài hơn ba sải, đâm con quái ấy một cái ngang hông. Con quái ấy bị đâm rất đau, liền nhảy dựng hai chơn trước lên cao, đặng chụp người ngồi trên lưng con bạch-tượng mà giết. Nhưng con bạch-tượng chẳng hề để cho con quái kia động tới người ngồi trên lưng, liền day lưng qua và quày đầu lại cách lẹ làng, rồi lấy hai cái ngà trước mũi, nhọn vắt như hai ngọn trường thương, vít ngang hông con quái kia một cái rất mạnh. Con quái kia liền day đầu lại đụng vào lưng bạch-tượng. Hai con đụng chém nhau nghe bốp bốp nơi mé rừng, như hai cọp dành ăn, hai trâu chém lộn. Con thì hả miệng khè khè, con thì thở nghe khịch khịch, ngó lại thấy người ngồi trên lưng con bạch-tượng cách thế vững vàng, an như bàn thạch và ra sức huơi thương mà trợ chiến cùng voi, cũng như tướng ngộ lương tài, kỳ phùng địch thủ.
Hai con cự nhau một hồi, cây gãy lao xao, cát bay mù mịt, kế thấy con bạch-tượng lấy hai cái ngà đâm vào hông con quái kia một cái rất mạnh, lủng vô tới ruột, rồi vít lên, thì nghe con quái kia rống một tiếng rồi té nhào xuống đất, tức thì con bạch tượng nhảy lại đứng trên mình con quái kia, rồi cất đầu la lên một tiếng dậy đất vang rừng, dường như thấy giết đặng kẻ nghịch rồi thì mừng mà la lên một tiếng gọi là đắc thắng.
Tiểu-thơ và Xuân-Đào thất kinh đứng núp sau cây đại-thọ, lấp ló rình coi, thì thấy người trên lưng voi nhảy xuống, rồi xăm xăm đi tới và cười và nói rằng: “Xin hai cô chớ sợ, con quái ấy nó đã chết rồi.”
Tiểu-thơ nghe tiếng nói thanh nhã dịu dàng thì đổi sợ làm mừng, rồi dắt thể-nữ lần lần bước tới.
Khi bước lại gần thì thấy một gái quấc sắc hồng nhan, mình mặc võ trang, bộ coi mạnh dạn. Người gái ấy đứng cách oai nghi tề chỉnh, tay chống trường thương, tay cầm đèn mà rọi trên mặt Tiểu-thơ, thấy một gái yểu điệu hồng nhan, thì biết là con nhà trâm anh phiệt duyệt, bèn bước lại gặn hỏi căn do, và tánh danh xứ sở.
Tiểu-thơ nói: “Tôi tên Bạch-thu-Hà, quê ở Đông-kinh, con của Bạch-công Thượng-thơ binh-hộ, chẳng may mẹ cha mất sớm, thân quyến ở xa. Nay nhơn có việc nhà, muốn đến Hải-ninh thăm dì là Mã-thị phu-nhơn, nên phải trổi bước lưu lạc giang-hồ. Chẳng dè gặp bọn vô loại cường-đồ, nửa đường nó toan mưu đoạt của, rồi bỏ giữa rừng hoang, nên cô cháu tôi lạc đàng, mà phải gặp nhằm thú dữ, may nhờ ơn quới-nương cứu tử, thật là hạnh phước vô cùng, song chẳng biết quới-nương quê quán ở đâu, và xin tỏ phương danh cho tôi rõ.”
Người gái ấy nói: “Tôi quê ở Hương-sơn, tiểu sanh Hoàng-nhị-cô là thiếp, thuở nay chuyên nghề săn bắn, tánh ưa theo thú lâm tuyền, vì vậy nên đêm đêm thường dạo chốn rừng rậm non cao, đặng săn nai bắn cọp. Xảy thấy hai cô trong lúc đêm hôm tăm tối, bị loài mãnh thú hành hung, nên tôi lật đật lướt bụi băng rừng, đến đây ra tay cứu nạn. Vậy, xin hai cô theo tôi trở về tệ xá, đặng tạm nơi đình đổ ít ngày, rồi tôi sẽ lựa dịp đưa đến Hải-ninh, thăm di nương cũng chẳng muộn.”
Nói rồi dắt Tiểu-thơ và Xuân-Đào lại trước con bạch-tượng và lấy tay vỗ trên đầu bạch-tượng hai ba cái, và la lên một tiếng biểu quì. Con bạch-tượng hai chưn trước liền quì mọp xuống đất. Hoàng-nhị-cô vào đỡ hai người lên ngồi trên bạch-tượng, rồi mình leo cỡi trước cổ voi, la đi. Voi nghe, liền đứng dậy, băng theo đường rừng mà đi, cách khoan thai êm ái.
Tiểu-thơ và thể-nữ ngồi trên bành voi, ngó xuống vọi vọi như ngồi trên mái nhà, lại thấy vòi tượng đỏng đảnh vụt lại vung qua, và trong miệng ngậm một cặp ngà, nhọn vắt như hai ngọn trường thương, cặm để giàn hầu trước mặt. Con bạch-tượng khi lên đèo lúc xuống hố, khi vượt bụi lúc băng đồng, đi quanh quanh lộn lộn trong đường rừng một hồi rất lâu.
Khi đi tới một tòa núi lớn kia thì thấy đá dựng chập chồng, non cao chớn chở, đường núi dốc đổ như thang lầu, hai bên đường thì liễu đứng dựng tàng, mai dàn đội ngũ, xem rất quanh co hiểm trở, song voi đi êm thấm như đất bằng. Khi đi tới một cửa đá rất to, chận ngang giữa đàng, như một cửa tam quan cao lớn, Hoàng-nhị-cô bèn lấy cái còi bên lưng, đặt vào miệng thổi lên một hơi, rồi nhảy xuống lại gõ cửa ba cái thì cửa đã mở ra, thấy một người vạm vỡ bước tới cúi đầu chào Nhị-cô, rồi trở ra đứng một bên cửa.
Nhị-cô dắt voi bước vào, thì cửa kia đã lần lần khép lại. Đó rồi đi tới một chỗ đất bằng rộng rãi, xem dường một cảnh hoa viên. Phía trên núi có một ngọn suối phi tuyền, nước đổ xuống văng lên trắng dã, như sương sa tuyết xuống, nơi thì vườn hồng xóm lục, đỏ xanh hoa liễu xen hàng, chỗ thì cụm trúc chồi mai, mờ mịt sương lồng bóng cỏ, chỗ lại đen đen khói tỏa sơn đài, nơi thì trắng trắng mây gài thạch động. Thật là một phong cảnh rất kỳ quan dị mục, tịch mịch phi thường, thanh thao nhạc suối kèn ve, quanh lộn đường qua ngõ lại.
Bỗng thấy hai con quái to lớn sầm sầm, mình mẩy đen thui như lọ, ở trong động núi xâm xâm bước ra, và rống lên một tiếng rất lớn. Con bạch-tượng liền ngóng cổ đưa vòi và dảnh hai lỗ tai, như hai cái quạt, rồi cũng rống một tiếng đối lại, nghe thôi vang rừng dậy núi. Tiểu-thơ và thể-nữ đã kinh hồn hoảng vía, ngồi núp trên bành voi, không dám hó hé. Khi lại gần thì thấy hai thớt voi đen giáo đầu cùng nhau, quì ngay giữa lộ.
Nhị-cô liền ngừng con bạch-tượng lại, rồi nói với Tiểu-thơ rằng: “Xin hai cô chớ ngại, đó là hai con voi của anh tôi là Hoàng-nhứt-lang, nhơn anh tôi đi khỏi, nên thả nó ăn nơi vườn nầy, nay thấy tôi về chạy ra mừng rỡ nghinh tiếp.” Nhị-cô nói rồi day lại la lên một tiếng đi, thì hai con voi đen lật đật đứng dậy trở vào động núi. Đó rồi Nhị-cô giục voi đi tới, chẳng đầy một trăm bước, bỗng nghe trên ngọn cây kêu tiếng thanh thao rằng: “Cô hai về, cô hai về.”
Tiểu-thơ lấy làm lạ, ngó lên kiếm coi ai kêu, song không thấy ai hết, kế nghe một tiếng hỏi: “Ai đó vậy? Ai đó vậy?”
Tiểu-thơ đương ngó lên cây kiếm coi, bỗng thấy một con chim trắng bay xuống đứng trước đầu voi, kêu cô hai, rõ ràng như tiếng người ta kêu vậy.
Nhị-cô liền ôm chim ấy để trên tay rồi nói với Tiểu-thơ rằng: “Chim nầy là chim Anh-võ bên nước Cao-ly, tôi nuôi đã mấy năm dư, nay biết nói giỏi lắm, thấy tôi về thì mừng nên kêu la chào hỏi.”
Nhị-cô nói rồi day lại vuốt ve chim Anh-võ một hồi và nói: “Thôi, con bay lên cây ngủ đi.” Nói vừa dứt tiếng, thì chim Anh-võ nói: “Tôi đi, tôi đi”, rồi bay mất.
Khi đi khỏi hoa viên thì thấy phía tả, có một tòa cổ tháp rất cao, ở dựa chơn núi, phía hữu thì thấy một tòa nhà nguy nga rộng rãi. Chung quanh có xây đá làm thành, trước ngõ có sơn-ly thạch trụ. Xảy nghe bên cái cổ tháp đánh ba tiếng chuông, kế bên nhà kia đánh lại ba tiếng trống.
Hoàng-nhị-cô day lại nói với Tiểu-thơ rằng:
“Đây đã tới chỗ rồi, xin hai cô xuống tượng.” Tiểu-thơ và thể-nữ lật đật bước xuống bành voi, thì thấy hai người mặc đồ đen trong động núi bước ra, chào Nhị-cô rồi dắt con bạch-tượng trở vào Thạch-động.
Tiểu-thơ và thể-nữ theo Nhị-cô đi một đỗi xa xa, bỗng thấy một tòa lương-đình cất trên gộp đá cao, de ra ngoài biển, ba bề sóng bủa lao xao, minh mông trời nước, chung quanh có mấy cái cù lao nho nhỏ, tàng cây rậm rạp, gộp đá do de, biển thánh non thần, mường tượng bồng-lai tiên cảnh.
Khi ra tới lương-đình thì thấy ghế bàn tinh khiết, hai bên có liễn cẩn màn thêu, bốn phía có cửa sổ song ly, dưới chơn núi thì đá đựng như vách tường. Thật là: Một chỗ vực thẳm non cao, ngó xuống mù mù vọi vọi. Hoàng-nhị-cô mời Tiểu-thơ vào ngồi nơi ghế, rồi hối tỉ-tất đem trà cho Tiểu-thơ và Xuân-Đào giải khát, một lát thấy tỉ tất dọn cơm bưng ra. Hoàng-nhị-cô liền mời Tiểu-thơ và Xuân-Đào ngồi lại dùng cơm và trò chuyện một hồi rồi nói: “Chỗ nầy có phòng buồng mát mẻ, xin hai cô ở đây tạm nghỉ ít ngày không sao phòng ngại”, đó rồi từ giã Tiểu-thơ, trở về tư thất.