Nhà Người Thợ Giặt
I
TRÊN phản, mâm cơm đã bày sẵn. Chánh ngồi chồm hỗm, mở lồng bàn, trông thấy các thức ăn nhưng vẫn hỏi:
— Hôm nay có canh cá liệt phải không má? Chẳng đợi mẹ trả lời, Chánh nói luôn:
— Canh cá liệt nấu với cà chua. Lại có cá nục chiên nữa. Má xài sang quá!
Trên một mé phản, xếp thành từng chồng, la liệt, các quần áo đã là xong, trắng toát, khen khét mùi hồ chín. Ông Mười, hai tay chập vào nhau, ấn mạnh cái bàn là, kiễng chân lấy sức mạnh toàn thân dí miết cái bàn là nóng trên mặt vải, day qua day lại chỗ là cái túi áo cứ cộm lên. Trong lúc đợi cơm, bà Mười nhặt cái quạt tre, phe phẩy quạt lò lửa than đang nướng mấy cái bàn là. Ăn xong, việc của bà là mang quần áo đã giặt đi trả và lĩnh quần áo bẩn về.
— Thôi, không cần quạt nữa. Bà xem giùm cái thùng xíp sôi chưa. Sôi thì bỏ bột vào.
Bà Mười lấy một thanh củi luồn nhấc nắp thùng xíp lên. Hơi nước nóng có pha mùi bột tạt và cái mùi nồng nồng của mồ hôi ở các quần áo bẩn tỏa ra khắp nhà. Không kịp đậy nắp thùng lại, bà Mười hắt hơi một cái to.
— Dạ.
Mặt đỏ bừng, bà đáp, trống không.
Lại hắt hơi luôn một cái nữa, bà lại “dạ”, và nói:
— Ủa, ai nhắc mà nhắc dữ vậy?
Ông Mười đạt cái bàn là lên trên viên gạch để ở mép bàn. Ông lật sấp cái áo đang là ngước lên nhìn vợ rất nhanh rồi lại cúi xuống. Trời bắt đầu đổ tối. Ngọn đèn dầu lửa vàng tù mù làm người ta có cảm giác đêm xuống đã lâu. Ở đám đất hoang trước mặt, cỏ cao lát đầu, bóng chiều đọng lại trong cỏ một thứ cặn. Những con dế, sốt ruột, đua nhau buông những tiếng gáy ri rỉ kéo dài hòa lẫn với tiếng ve kêu lần chót trong các bụi găng rì rào nồng nồng mùi nhựa. Con đường chạy trước nhà đã vãn người đi. Nghề vào lâu rồi. Tốp các chị rỗi, quần xắn cao, vai tròn khỏe, gánh những gánh cá nặng trĩu, chân bước thình thịch, chắc hẳn đã lên tới bến xe ngựa đầu ô. Người đi chơi cũng đã về hết. Ngồi ở chỗ Chánh ngồi, có thể thấy một dải bể dài xanh sẫm, đen lại dần dần. Ngoài khơi, chỗ nối liền chân trời với mặt nước, đã nổi lên những đốm lửa câu mực. Ở cái thành phố tiêu thổ kháng chiến và tản cư này, hình ảnh những cuộc chia tay trên bến tập kết, mấy tháng sau, vẫn còn chập chờn. Đêm tháng chín trở nên lặng lẽ mau chóng. Trên những nền nhà cũ bằng xi măng, người ta mới dựng lén những túp lều bằng tranh, ở mỗi nhà leo heo một ngọn đèn nhỏ. Giữa hai nhà là hai nửa vườn thường thường trơ trụi, ở đấy bóng tối tung hoành, lùng nhùng loãng như nước mà những căn nhà mỏng mảnh như đang trôi bập bềnh. Ngoài tiếng côn trùng, chỉ còn nghe có tiếng sóng ì ầm dội lại từ biển rộng, và tiếng thình thình chăm chỉ từ chiếc bàn là bằng sắt mà người thợ giặt chốc chốc lại đập chận lên trên mặt chiếc chăn mền.
Ông Mười làm, không nói, mặt dán xuống mặt vải. Hai vợ chồng chỉ mới trở lại nghề này có hơn một tháng thôi mà trông ông Mười làm, bà Mười có cảm giác như ông vẫn đứng như thế, hai mươi năm nay không gián đoạn. Ấy là từ cái ngày hai vợ chồng cùng ba đứa con nhỏ bỏ cái đồn điền cao su ở Dĩ An về, thôi nghề nấu bếp, dành dụm được ít nhiều về quê mở một hiệu giặt là. Từ ấy đến nay, sáu đứa con khác ra đời, đứa chết, đứa hy sinh, đứa đi. Sự túng thiếu nghèo khổ thoạt đầu tưởng chỉ ghé qua, đến nằm hẳn trong nhà, có khi gây nên bất hòa giữa cha mẹ và con cái. Toàn dân nổi dậy cướp chính quyền, và cuộc kháng chiến xáo trộn hẳn cuộc đời trước kia. Những cuộc tản cư liên miên hết làng này đến làng khác, miếng ăn kiếm bằng đủ mọi nghề, cái cảm giác ngượng ngùng, khổ tâm khi thấy đời sống vất vả không cho mình tham gia bằng như mọi người. Rồi có những đứa con lớn lên. Khác hẳn trước, sống ở đâu đâu nhiều hơn ở nhà, mà lại điều khiển hết mọi việc gia đình, từ việc ở, ăn, cho đến việc học hành của mấy đứa con nhỏ. Những đứa con lớn lên không mang lại được cho nhà thêm một đồng xu nhỏ như những bố mẹ già nghèo thường mong mỏi, nhưng chúng lại vẫn như cái lưng cái vốn của gia đình. Con Bảy đang học lớp tám mừng rú lên khi có tin được chọn ra Bắc học. Thằng Sáu chớm đến tuổi trưởng thành, nhất quyết xin vào bộ đội khi giặc Pháp càng lên thị xã, đi ngay vào chuyến tàu thứ nhất. Thằng Năm đã hy sinh trên một mặt trận phía Nam, mất đứa con đó lòng cha như đánh mất một viên ngọc, nhận được tờ giấy báo tử sờ sờ ở trên tay rồi, làm lễ truy điệu rồi, mấy năm nay vẫn cứ mong mỏi là không phải. Con Bốn góa chồng, có hai con mọn, lại là cán bộ, chuẩn bị đi chắc chắn và lặng lẽ, ngày ngày nựng con, ngay trong nhà ông bà ngoại, khhông giấu giếm nỗi mong ra ngoài kia gặp gia đình bên nội. Thằng Tám là văn công, ra Bắc năm trước, vừa cùng toàn đoàn trở lại phục vụ đồng bào khu Năm, đẹp đẽ, giỏi giang, khác hẳn, mang cái hình ảnh rực rỡ của miền Bắc, làm phấn khởi, xao xuyến, háo hức mọi người ở đây, nhưng cũng lại ra đi rồi. Còn lại Chánh, cái thằng út ít mười một tuổi đầu, ban phụ trách Đoàn văn công quân đội cũng mấy lần đến nài ông bà cho đi để ra ngoài kia đào tạo. Không, trong những ngày chiến thắng, mọi người đều lấy làm tự hào về những khó khăn, vất vả mình đã trải qua, khó khăn vất vả biến thành niềm vui tất cả. Người ta đánh giá từng gia đình một cách giản đơn, bằng số con cái đi kháng chiến, đi tập kết trong nhà. Chính lòng tự hào đó, niềm vui đó đã làm nhẹ đi rất nhiều nỗi lưu luyến của những buổi chia tay, và làm cho người ta bình tĩnh, thật bình tĩnh khi chia tay rồi, thành phố vợi đi. Đáng mừng thật chứ, cho những đứa con: ra ngoài kia, tương lai chúng không cùng! Nhưng các bố mẹ già ở lại, bên cạnh nỗi mừng cho con, cho nhà, vẫn có một chút khổ tâm gì như là ghen tị.
Song anh con trai cả ở lại. Khương vốn ít nói, anh nói đâu có một lần: “Chỉ bộ đội mới phải đi. Còn những người khác không nhất thiết”. Anh chỉ nói thế thôi đấy, nhưng cha mẹ đã lấy làm vững bụng. Bản thân anh không sửa soạn gì cả, không có ý kiến gì thu xếp gia đình, như mọi lần anh đi vắng lâu không về. Ông bà cũng không rõ rồi con sẽ giải quyết đời sống ra sao, nhưng dường như rồi sau đây, lần đầu, Khương sẽ về nhà ở lâu dài cùng cha mẹ. Mỗi lần về nhà, Khương chỉ nói niềm vui về những đứa em: “Ra miền Bắc, sau hai năm về, thằng Sáu sẽ thế này, con Bảy sẽ thế kia, ba má nghĩ coi, nhà mình mà con cái được vậy có kỳ lạ không?” Kỳ lạ chứ, kỳ lạ chứ, không cần ai giảng giải, những người già sống mòn trong cái cảnh khổ nghèo thấy rõ hơn ai hết điều đó. Chính điều đó làm cho họ đủ lòng can đảm trước cái bóng tối đang lan dần tới. Suốt một cuộc đời dài đã nhẵn mặt cái bóng tối ấy, sau tám năm dưới chế độ mình, giờ lại như là lần đầu mới thấy mặt nó. Cũng có những điều muốn hỏi, nhưng Khương ở lại, hỏi con sau cũng không muộn.
Bất ngờ một đêm có tiếng đập liếp rất gấp. Khương lách vào, dáng điệu bối rối, xúc động rõ ràng, ôm lấy hai vai mẹ, đặt vào tay mẹ một gói tiền nhỏ, nói hấp tấp: “Lại phải đi. Trên quyết định chiều hôm qua, đi từ sáng giờ mới tới”. Anh vẫn cố mỉm cười: “Tưởng chuyến này, con với ba được làm việc với nhau”. Người xuống bến rầm rập ở ngoài đường. Đã gấp lắm, nhưng Khương thấy dù sao cũng không thể ra đi ngay như vậy. Anh ôm lấy đứa em nhỏ vào lòng, chần chừ mãi, an ủi mãi cha mẹ: “Mười bốn tháng nữa, cũng nhanh thôi”. Gay cấn nhất của nhà trong những năm dài là nuôi không nổi con, bây giờ các em đã ra đi gần hết, vì thế về mặt ấy, anh không ngại cho cha mẹ nhiều. Vả, Khương còn có một cô em gái kề ở lại. Quý cũng thương cha mẹ, lại có đồng ra đồng vào.
Nhưng chính vì vậy mà, giây phút cuối cùng đó, ông Mười có đôi chút không bằng lòng con trai. Ông không bằng lòng con vì anh nói với ông những lời thường tình mọi người vẫn hay nói. Vì anh chỉ thương cha mẹ, mà không thấy từ đây, ở đây, cụ thể là cha mẹ anh sẽ thay anh trong cuộc đấu tranh. Có một lúc, ông Mười muốn nói với con nhiều điều nữa nhưng không còn đủ thì giờ.
Bà Mười đứng ở lề đường trông tiễn con. Chánh chạy theo anh một quãng xa. Khi lại vạch liếp trở vào nhà, Chánh hơi ngạc nhiên thấy bố còn thức, ngồi yên chỗ cũ. Ông Mười ngửng lên, chăm chăm nhìn đứa con út, giọng hơi vỡ đi:
— Còn Chánh, chừng nào con đi?
Nói gay là cái tật của cha mỗi khi ông mích lòng. Chánh còn bé, em không hiểu được vì sao cha mích lòng, nhưng ngay hôm đó, em quyết định ở lại. Đứa bé chẳng nói với ai vì sao. Em cũng không hiểu được cho thật rõ sự thay đổi đột ngột của mình. Ngày ấy và những ngày hôm sau, em cứ chạy ra bãi bể nhìn một cách thèm thuồng các chiếc tầu neo ở ngoài khơi. Cuối cùng, em xin phép lên chơi trên nhà chị Ba, ở Đập Đá, để lại nhà một bức thư lễ phép và vụng về, nhờ bố đưa cho Đoàn văn công quân đội nếu có người đến hỏi.
Chị Ba. Trong mọi gia đình, vẫn hay có một người con hướng đi trong đời khác hẳn các anh, em. Có phải người đó thường là con gái lớn không, yên phận, tần tảo, thực tế như mẹ, không có tham vọng gì cao xa. Quý, em kề Khương, là một người đàn bà như thế. Đức, chồng chị, mở hiệu ảnh ở Đập Đá. Hòa bình lập lại, phim thuốc mua được dễ hơn, người ở người đi đều cần một chiếc ảnh lưu niệm. Đức làm việc đó gầy rộc đi nhưng chẳng mấy chốc có được một ít tiền. Ông cha vợ xin giúp được một lô đất ở sát ngã tư phố, vốn là một khoảnh nền nhà ngân hàng Pháp — Hoa cũ, Đức gửi tiền về nhờ ông trông nom xây cho một căn nhà gạch: khi việc chuyển quân hoàn thành, hiệu ảnh ở Đập Đá dời về đó. Suốt đời Đức chỉ có một mơ ước: trở nên chủ một hiệu ảnh lớn. Đức bận tíu tít. Biết mình không có đủ tiêu chuẩn đưa cả gia đình ra Bắc, Đức cũng không băn khoăn gì nhiều. “Các em cứ yên tâm mà đi — anh viết cho Bốn, Sáu, Bảy... như vậy. — Ba má sẽ về sống với anh chị, trông nom hàng họ cho anh chị, chẳng phải làm gì đâu. Ông bà đã già rồi, để cho ông bà an dưỡng”. Quý cũng biết ý định của Đức về Chánh. Nó sẽ học nghề và phụ việc ở nhà, rửa, in, chụp — đi học chữ làm gì nữa. Một dự định sắp xếp như vậy, Quý thấy lờ mờ không lấy gì làm hợp lắm với sở thích chung của nhà. Nhưng Quý không dám cưỡng lại ý chồng: từ những ngày cùng khổ đầu kháng chiến, có khi chồng đi trước xách một nồi đồng chè đậu xanh, vợ bưng một rổ bát theo sau, lội hết các chợ vùng quê, được như ngày nay, không phải ăn bữa sáng lo bữa chiều, ấy là nhờ lòng kiên nhẫn và tháo vát của Đức cả. Quý vẫn thương anh cả, phục anh, nhưng nhiều lúc nghĩ có lẽ Khương không thực tế bằng Đức thật. Các thứ vật liệu lúc bấy giờ giá rất rẻ. Với tiền dành dụm được, Đức mua thêm máy chụp, máy phóng, phim, giấy, sắp sẵn mọi việc một cách chắc chắn, có ý định sẽ phân việc nào cho người nào ở trong nhà, sửa soạn để làm ông chủ. Sắp xếp cho bố mẹ vợ, cho em vợ một đời sống phụ thuộc vào anh, vào đời sống sẽ qui mô của anh như vậy, anh tin một cách thành thật là không có con đường nào khác. “Ông bà già cũng đã đến tuổi cần được nghỉ ngơi. Trong nom công việc nhà, chơi với các cháu, thế thôi, các em không phải lo”. Các em vợ nghe lời cắt đặt đó có hơi ngờ vực, nhưng cũng chẳng có cách nào dễ hơn. Vả, phải tạm xa nhau như thế này, ở người đi kẻ ở nào mà chẳng nảy lên thêm ít nhiều dũng cảm và ý muốn đùm bọc thương yêu mới! Ông Mười có vẻ xuôi theo ý kiến đó. Cái nhà lá làm quán bán phở dựng ở lò đất bên cạnh, được giá, ông đã bán đi. Ông bà và Chánh dọn sang ở bên mấy căn nhà gạch mới, đợi hiệu ảnh chuyển về.
Nhưng Khương người con trai trưởng vừa ra khỏi nhà, ông Mười liền nói ra điều vẫn nghĩ, làm cho chính Quý ngạc nhiên. Khi thấy bố tỏ ra hiểu tính chất công việc do Đức cắt đặt, Quý phát khóc. Chị phàn nàn:
— Ba lại trở lại nghề thợ giặt! Anh cả đi rồi, ba muốn làm gì ba làm hay sao?
Ông Mười nhìn con gái không đáp. Quý nhắc lại cho bố nhớ:
— Dưới đó còn hẻo lánh lắm, hai ông bà già tối lửa tắt đèn biết gọi ai! Thời thế bay giờ may ít rủi nhiều! Thằng Chánh thì còn nhỏ.
Quý làm ra mặt giận, xách nón ra xe ngựa trở về Đập Đá. Nhưng chị cũng giao cho Chánh một trăm bạc bảo đưa cho ba để làm vốn.
Không phải chỉ một gia đình ông bà Mười dọn về nữa dưới đường Khải Định. Khu Hai khu Mới, khu Một, những nơi ấy động việc gì xảy ra cũng có người biết, lại gần trụ sở ủy ban quốc tế, người về ở đông. Nhưng bên cạnh lẽ ấy, còn có tiếng gọi của mảnh đất cũ, khu vườn cũ với những kỷ niệm dù thường thường không phải là sung sướng. Những khu vườn bây giờ đen dày những cỏ sắc cao quá thắt lưng. Thỉnh thoảng, một dày hoa giấy màu tím bò lên trên một đống gạch ngói vụn. Những người bỏ thành phố ra đi giờ trở về dựng lại hoặc một túp lều, hoặc vài căn nhà con bằng gạch ngói cũ đào lên từ hầm cất giấu, hoặc từ nhà quê chở về bằng đường sông. Lều tranh hay nhà bằng gạch cũng nhỏ, cũng tồi tàn tạm bợ, thế mà trở về đó, người ta vẫn như nghe thấy một hơi hám nào thân mật và quen thuộc. Những người trở về cắm cây tre dựng túp lều lên trên chính là cái nhà gạch cũ thấy mình thiếu thốn nhiều thứ. Những năm kháng chiến, từ chỗ trong tay không có nghề gì, nay cầm cái này, mai bán cái khác, cho đến lúc dừng lại hẳn trên một mảnh đất tăng gia, đối với ai cũng vậy, nghèo là một chuyện thường. Nhưng đó là dưới “chế độ mình”. Còn bây giò là “chế độ nó” chế độ người bóc lột người đây, chế độ không có quyền không có tiền không được đây, những người đứng tuổi, những người già đã có kinh nghiệm: nghèo là một sự bất trắc vô song. Nhưng cuộc sống những năm qua đã cho người ta một niềm tự hào không thể tắt. Không ai phàn nàn kêu ca gì. Mọi người cố gắng xứng đáng với những đứa con tám năm dài không được ăn bát cơm nóng canh sốt của gia đình, bây giờ vì nhiệm vụ, lại đi ra hẳn ngoài vòng săn sóc viếng thăm của cha mẹ.
Các chủ cũ lại trở về các chỗ ở cũ, với một mảnh ba viết bằng mực xạ số nhà ngày trước. Có nhà, lạ thật, vẫn còn giữ được cái bảng chữ số bằng sắt tráng men. Nhà ông Mười số 4. Số 4 như ngày trước. Bên trái số 2, cũng lại cửa hiệu sửa chữa xe đạp của ông Lại. Bên phải, số 6, là nhà ông Lang; ông Lang mang chiếc Đơ la hay tòng tọc đi kháng chiến, giờ lại mang nó trở về thành phố, chở khách đi Hội An khứ hồi, chiếc cam nhông đít vẫn còn cái bình gadôden quay quạt bằng tay. Bên kia đường là dãy nhà số lẻ. Số 1 vẫn là nhà lão Trần Thại: năm trước, Tây đổ bộ lên, lão dắt díu vợ con xuống tàu, bây giờ điềm nhiên lão lại về đó, đang dựng lại cửa hàng đại lý bán săm sốp, sắp mở lại ga-ra chữa ô tô như ngày trước. Lão mua một cái ghế xích đu, như cái ghế xích đu ấy lão vẫn cất giấu ở đâu tám năm nay, chiều chiều lão nằm tréo mảy, quạt phe phẩy, mắt lim dim, cạnh các đống cát sạn và vật liệu làm nhà. Nhà số 5, bác Hải, anhphiếcme , vừa góa chồng, ở Huế vào xây lại nhà, sắp đợi thằng con trai út đỗ đốc-tờ ở bên Pháp về mở bệnh viện tại nhà đây. Và nhà số 3 ở trước mặt. Cái nhà số 3! Ba người lớn tản cư ba hướng giờ về nhập làm một, gia nhân còn đông hơn trước nữa kia. Bà mẹ, mụ Dục, đã già, mặc quần lụa trắng mỏng, diện kiềng vàng, như tám năm qua vẫn khao khát làm bà lớn, ngày hồi cư đầu tiên đã thấy ngồi xếp bằng, nhai bỏm bẻm bên cái cơi trầu bằng đồng, xuổng lệnh cho người nhà muối mắm bán sỉ. Người con trai cả, Võ Minh Châu , l’antrepreneur như anh ta in trên các giấy hóa đơn, chuyên nghề thầu cơm lính cơm đồn, đi tản cư sống bằng nghề cho vay lấy lãi, buôn lậu, buôn tráo thuốc tây, một dạo bị Chính phủ ta bỏ tù. Đứa con trai đầu của anh ta chán bố — hay vì sao còn chưa có thế biết được — bỏ nhà đi ra Bắc, không phải bằng tầu tập kết mà bằng đường bộ. Đối với tình hình, Châu có vẻ dè dặt. Sang nhà gặp ông Mười đang giặt một tônô lớn quần áo, anh ta nói an ủi: “Thôi, làm ăn cốt qua ngày. Đợi đằng mình về sẽ hay, cậu. Rồi đây nhà cậu không vượt hết mọi nhà sao?” Nhưng mấy hôm nay, Châu lại xin được thầu cơm tù. Nhà lao của đối phương thiết lập ở cái nhà dài lợp mái tôn vốn là trụ sở uỷ ban quân cảng. Mỗi chiều, mấy người đàn bà gia đình Châu nấu nướng trên nhà lao kĩu kịt gánh những thùng thiếc đầy cơm nguội đỏ, cả nước gạo nữa, về nhà ông chủ thầu.
Khúc đường nhựa trước mặt nhà, những hôm trời nắng, phơi đầy ruốc, chà rinh, cơm cháy. Chị rỗi nào đi qua không chịu tránh, mụ Dục ngồi trên phản the thé gọi giật chửi. Như ngày trước.
Võ Minh Sổ, em kề Châu, bị phung mòn, bàn tay đã cùi hết mấy đốt. Hắn không cầm được đũa, phải ăn cơm bằng thìa. Hủi ăn mòn một gân chân, chân thẳng chân vẹo, hắn đi lạch bạch như vịt. Cũng làm nghề như anh, vào trại lính Tây, mỗi lần về kẹp nách hai viên gạch bọc giấy cẩn thận, y như người ta gói bánh. Thế mà hắn làm được nhà gạch. Nhà đang xây dở thì kháng chiến. Hắn gỡ các vách chở đi. Gộp luôn bàn, tủ, đá hoa, các nhà láng giềng vắng chủ. Năm ngoái, Tây đổ bộ lên, hắn ló mặt, đưa giấy tờ cũ, xin Tây lại cho thầu thịt. Tây bị đánh phải rút, Sổ bị chính quyền ta bắt, nhốt vào khu hủi ở Qui Hòa bên kia đèo. Giờ nó lại về đó.
Lúc nào cũng thấy hắn mặc cái áo xítpenxe đũi cụt ngủn kỳ cục, tay phe phẩy một ngọn roi gân bò. Mỗi buổi sáng bây giờ hắn còn sai người nhà vào nghĩa địa Tây ở ngay phía sau, gỡ và khênh về những tấm đá mặt bia bằng cẩm thạch. Hắn nói có ý định đi Sài Gòn chữa bệnh, đợi có ít tiền.
Hắn qua nhà, hỏi trịch thượng:
— Con cái đi hết rồi hả? Đủ lông đủ cánh, bỏ trơ lại ông già bà già, lại đun đầu vào cái nghiệp cũ!
Để điểm cho câu nói láo xược ấy, hắn cười hì hì:
— Thôi, cậu mợ cứ chịu khó làm mà sống. Ai như thế nào còn có trời biết. Có gì tui giúp cho. Thời thế cái con chó!
Hắn vung cái roi gân bò đánh “bạch”! một cái vào chân và quay ra. Ông Mười giận run, ngồi xuống phản, bảo vợ:
— Bà phải coi chừng cái thằng đó.
Coi chừng, coi chừng cái gì? Bà mẹ không thể nào thấy được cho thật rõ. Người đàn bà già ngay thật đó vốn sống bằng lẽ phải, và chiến thắng đã cho bà một suy nghĩ đơn giản: đến thằng Tây ta còn đánh cho phải hàng nữa là! Những kẻ bên kia là những người có tội, nhưng Chính phủ ta đã khoan hồng: còn không thấy tội ư, không cảm ơn chính phủ khoan hồng ư? Họ không lấy công chuộc tội, đợi bên ta về ư? Họ dại gì! Nhưng ở quãng dưới phố này, trên bề mặt, mọi việc đột ngột lặp lại y như hồi chưa có cách mạng, nên bà cũng hơi bỡ ngỡ. Người đàn bà vốn có gì nói nấy đó lần đầu biết cần phải đối xử khác đi với những quen cũ, kín đáo hơn. Hai vợ chồng già trở về sống ru rú với đứa con út trong khu vườn trở nên quá rộng vì mái nhà tranh tạm bợ quá nhỏ. Ông giặt, bà kéo nước đổ vào tô-nô, cho thêm củi vào bếp đun thùng xíp ; hoặc ông đứng là, bà ngồi cạnh quạt lửa hay nấu ăn. Chạng vạng, khi đống quần áo bẩn tối qua giờ đã lại thoảng cái mùi nửa bùi nửa khét của bột gạo, ông lật quyển sổ con đọc số hàng đã nhận, đọc đến đâu chồng lại từng chồng đến đó, mỗi chồng đánh dấu bằng một mẩu giấy con. Bà lấy một chiếc khăn trắng to, đặt tất cả quần áo giặt là xong đó, gút lại hai gút. Bà nhấc mấy cái bàn là ra dồn lại một chỗ, tưới nước vào cho nguội đi và đặt ấm nước lên trên bếp lửa than vẫn còn hồng. Xong, ông bà và Chánh mới ngồi vào mâm cơm đang chờ sẵn. Cơm xong, bà bảo Chánh:
— Chánh, đi với mẹ, con!
Hôm nào cũng một câu như vậy. Đi trả quần áo đã giặt và lĩnh quần áo bẩn về là công việc của bà và Chánh. Chánh đi theo để đọc và ghi hộ mẹ. Đêm nào Chánh cũng đi, đêm nào bà mẹ cũng thấy cần phải an ủi con. Nếu có các anh chị nó ở nhà, nó không đến nỗi khổ thế. Nó đang tuổi ăn tuổi chơi. Nhưng, khác hẳn với hai con chị nó, mười hai mười lăm năm trước, Chánh làm việc đó không lấy làm xấu hổ mà lại có vẻ thích thú nữa kia. Đến nhà các khách hàng, Chánh đứng nép bên mẹ, kín đáo nhìn vào mẩu giấy con bố ghim lên mỗi chồng quần áo, thầm đếm lại số quần áo mẹ giao trả, và dõi theo những dòng bút chì các khách hàng ghi vào sổ khi đưa loạt quần áo bẩn mới. Chẳng mấy ai chú ý đến nó, nhưng khi ra đến ngoài đường, cùng đi với mẹ dưới các bóng đen nhạt đung đưa của các cây bàng hoặc cây sục sạc, thế nào Chánh cũng nói với mẹ một nhận xét ngộ nghĩnh và hai mẹ con nức lên cười.
Tối hôm đó, bà Mười lại hắt hơi một cái nữa và lại “dạ”. Bà gắt lên, sốt ruột:
— Ủa, nhắc gì mà nhắc mãi vậy?
Chánh biết mẹ nghĩ đến ai sau khi hắt hơi, “dạ” và gắt lên trống không như thế. Bà tin như thế là có ai ở xa nhắc tới bà, có việc gì sắp xảy tới, có việc gì phải đề phòng. Nhưng Chánh không trêu mẹ như mọi khi. Chánh còn đang mải đọc nhẩm một cách kỳ quặc một bài thơ vốn là bài đọc thuộc lòng ở lớp năm cũ, cứ đọc hai chữ em lại bỏ một chữ. Khi sắp tập kết, mọi người đều quen nghe bài thơ đó nên bà mẹ cũng thuộc. Vì Chánh không trêu như mọi bận nên bà không nghĩ lâu trong năm đứa con và hai đứa cháu ngoại ra đi, đứa nào giờ này nhắc đến mình.
— Chánh, mày đọc cái gì mà lạ thế?
Chánh đang đọc suôn sẻ, bỗng vấp, dừng lại. Em ngước lên, mở to hai mắt hơi xếch — “mắt thằng anh nó” — hơi nhíu mày một chút nhìn ra xa. Những đốm lửa câu mực giờ đã đỏ đều, sin sít thành một dãy dài, thẳng từ núi Phương Mai sang Giành Ráng. Cù lao Xanh vốn nằm chính giữa, giờ như chìm đi đâu dưới mặt biển chỉ còn nhô ngọn đèn pha vàng đục, lập lòe. Chánh bật cười, đáp:
— Thế là con nên đi học rồi đấy, má.
Đọc không xuôi tức là nên đi học. Em đã đem điều vẫn băn khoăn ra bói thử như vậy. Thế là nên đi học. Lần đầu, em nói điều đó để dò ý cha mẹ.
— Ở nhà, con!
Bà liếc nhìn ông. Đi học! Mười mấy năm nay, nhà này khổ vì việc đó, ông Mười nhiều lần nói ra như vậy. Miệng ăn trong nhà ngày càng đông, đứa nào cũng đòi đi học, chẳng đứa nào chịu bỏ ngang kiếm lấy một nghề! Đáng lẽ những đứa lớn, có chữ có nghĩa tàm tạm với người ta rồi nên tự kiếm lấy ăn để cha mẹ nuôi những đứa em nhỏ. Hoặc những đứa lớn nên đồng ý cho những đứa nhỏ hơn đi bán cái bánh cái trái, đỡ cho gia đình được lưng cơm bát gạo! Nhưng ý của ông không được ai theo, cả vào những năm khó khăn nhất, Khương buộc các em phải chằm nón, nuôi gà để học.
Bà Mười liếc nhìn chồng, sợ thay cho Chánh. Nhưng ông Mười có vể không để ý.
— Sáng nay, má đi chợ gặp chị Ba mày. Nó bảo mày lên ở với nó cho vui, phụ làm ảnh với anh Ba. Trên đó, công việc nhiều, kiếm người không ra.
Chánh nói:
— Vì vậy mới đi học!
Bà mẹ hiền lành không hiểu tại sao Chánh lại nói vì vậy . Bà chỉ ngờ lờ mờ vì Khương có dặn lại, và thằng em cứ một bụng với lũ anh:
— “Họ” dạy toàn chuyện phong kiến đế quốc, học làm gì?
Chánh bật lên một tiếng cười lảnh. Em vừa có vẻ tự tin, vừa khinh miệt cái trường em sẽ đến học.
Ông Mười gấp chiếc áo, dận chiếc bàn là lần nữa lên các ve áo, một tay đặt chiếc bàn là lên mặt phiến gạch, một tay đặt chiếc áo vào chồng quần áo đã sắp trên mặt phản. Công việc trong ngày, về phần ông, thế là xong.
Ngồi vào mâm, ông mới bảo Chánh:
— Mai, đi xin giấy đi.
Đến lượt Chánh không đáp. Em nghĩ về sự đổi ý đột ngột của cha. Tính tình cha vụt đổi khác. Đối với Chánh, con út, đứa con nhỏ độc nhất ở lại, ông dịu ngọt hơn. Song, tính trầm lặng, ông càng trầm lặng hơn. Việc gì ông cũng có vẻ suy nghĩ nhiều, đắn đo mãi, rồi đột ngột quyết định, có khi trái hẳn với ý nghĩ ban đầu, như về việc học của Chánh. Tại sao ba lại lạ như vậy, bây giờ Chánh hiểu rõ hơn mẹ.
Như việc đã thỏa thuận rồi, bà Mười hỏi chồng:
— Con nó đi học thì việc nhà xếp đặt ra sao, mình?
— Việc gì? — Ông mười vặn.
Chánh trả lời mẹ:
— Như cũ thôi: tối tối, con vẫn đi giao quần áo với má.
Ông Mười không nói gì thêm. Nhà bây giờ chỉ có ba người, nhiều việc trở nên đơn giản. Miễn là họ để cho mình sống yên ổn. Ai ai cũng thầm tính như vậy, và ai ai cũng chờ đợi những biến cố đột ngột có thể xảy ra. Cánh cửa lớn và hai cánh cửa sổ phía trước nhà bao giờ cũng đóng kín mít để tránh cặp mắt soi mói của những thằng như thằng Sổ Vẹo. Và để nép nhìn kín đáo sang bên kia, ở đó người ta cũng đang theo dõi mình. Ở cái thành phố này, bây giờ lại trở về gần đông đủ những bộ mặt cũ với chiếc ghế xích đu, cái roi gân bò, những giọng chửi rủa, kẻ cả, bên kia đường, và cửa hàng xe đạp, hiệu thợ giặt, chiếc Đơ La hay tòng tọc bên này đường, nhưng bên trong, sự tình đã khác. Những bức vách, những cánh cửa ván khép kín biết rõ hơn ai hết điều đó. Chưa có việc gì xảy ra ở đây cả, nhưng những điều họ đã làm trước khi đến đây, ở Duy Xuyên, Chợ Được, Cây Cốc, Bình Dương, lai lịch những tên nhảy ra làm việc, giọng lưỡi thù hằn và khoác lác chúng dùng khi nhắc đến những người vừa đi với cái nhà lao đầy ắp, (gồm có những ai? chở từ đâu đến?) buộc ai cũng phải ngờ vực và đề phòng. Nắng mùa thu miền Nam màu vàng mật, một chút hơi nước thoáng trong không, sóng biển trở nên ồn ã, phố xá cứ rậm rịch từ lúc mành vào đến lúc lên đèn; tuy vậy, người ta vẫn có linh tính những ngày tới sống chẳng dễ dàng gì.
Bà Mười ngồi vào mâm, kể lại chuyện mới xảy ra ở nhà Quý. Bữa ăn nào cũng vậy, bà mẹ cũng chỉ nói chuyện về đứa con gái lớn.
Hai vợ chồng nó giận nhau vì mình dọn đi, vì thằng Chánh không chịu lên. Con Ba dẹp cái hàng xén đi rồi. Ngồi hàng xén thì nhà trong chẳng ai viết biên lai. Bọn lính cũng quá lắm. Không có người già, chúng không nể. Thằng Ba nó hờn. Hòa bình rồi, hết khó khăn rồi, ba cần gì bọn nó.
Hết khó khăn rồi! Ông Mười thở ra. Chánh xí một tiếng. Chợt hai cha con gióng tai. Chánh vội đặt đũa xuống mâm, chân quờ guốc. Bà Mười ngăn con lại:
— Biết ai! Để má ra.
Ông Mười đứng dậy, nói độc đoán:
— Để tôi.
Chỉ mỗi việc ra xem ai gọi cổng bây giờ cũng phải dè chừng, cẩn thận, người này tranh với người kia. Đối với cái gia đình này bây giờ, không còn bà con thân thuộc nào nữa, người nào đến giờ này cũng là chuyện không tường, và sự có mặt của họ có thể sẽ thay đổi xáo lộn tất cả. Nhưng ông Mười chưa kịp bước xuống hết cái bậc gạch cũ, đã thấy dáng một người con gái hiện ra từ bóng tối. Không đợi người nhà, chị đã lách cánh cửa gai, đi men theo vách nhà, vòng qua cái giếng cũ có thành vôi, bước vào cái sân gạch lồi lõm, đi lối sau mà vào. Bây giờ chị đã đứng sững dưới cái riềm lợp lá kê, cạnh bếp lửa than vẫn còn hồng, trên đó ấm nước đã bắt đầu reo. Chị mặc một bộ quần áo đen, tóc để xõa, mấy sợi lòa xòa hai bên má, vai đeo thõng dọc theo cánh tay phải một chiếc túi vải bằng xi ta xám. Ánh lửa hắt lên, rực sáng một cặp mắt mở to, sững sờ và mệt mỏi. Ba người trong nhà ngửng lên nhìn người khách mới đến, chờ đợi đến mấy tích tắc. Và bỗng người con gái vùng chạy đến ôm lấy hai vai bà Mười:
— Má!
II
Bà Mười vuốt tóc người con gái dỗ dành:
— Khương nó đi rồi.
Cô gái vẫn úp mặt vào vai bà, gật đầu, ý đã biết điều đó. Con không liên lạc kịp với anh. Chúng nó vây chặt một phần, gia đình ngăn giữ một phần. Bước đi một bước, mẹ con theo sát một bước. Vả, chẳng có ai đưa đi, chẳng có người quen nào. Chúng nó đã vào tới sông Vệ, lính tráng đầy đường, má tính làm sao cho con đi một mình được! Anh Khương con có đợi con nhiều không hả má? Con vô đây thăm má. Từ nay má nhận con là con dâu, nghe má!
Người con gái nói thỏ thẻ, giọng Đà Nẵng thanh và ấm. Những lời chị nói, nhất là giọng chị nói, làm cho bà mẹ mủi lòng. Chao ôi, má có đến ba người con gái mà đến bây giờ mới có một đứa gục đầu cách này nói thật như vậy, yên lặng cho má vuốt ve! Hơi thở của chị luồn vào cổ mẹ âm ấm, dễ chịu. Bà mẹ ôm siết lại lưng chị, khe khẽ, nước mắt muốn ràn ra.
Ông bó đi lui lại phía đầu hồi gióng tai nghe ngóng. Mặc hai người đàn bà với nhau, ông trở ra cái sân gạch vòng qua giếng, ra đứng bên hàng rào nhìn ra. Khi ông đi qua Chánh ngước lên nhìn bố: nét mặt ông vẫn phẳng lì, chẳng có gì thay đổi. Chánh cầm lấy quyển sổ hàng đã đặt sẵn bên trên cái khăn gói, lên tiếng giục:
— Đi đã, má!
Những ngày sau chót, Khương đâu có ghé về nhà. Bà mẹ không rõ con trai có đợi hay không. Dẫu nó có về nhà, nó có đợi, mẹ cũng không biết được: thằng ấy, nó kín lắm. Bây giờ nghe nói mẹ mới hay. Chắc hẳn là nó phải đợi chứ, và thế thì tội nghiệp nó biết bao. Trên ba mươi tuổi đầu rồi, em gái đứa nào cũng bầy con, mà ông anh cả vẫn trơ trọi! Cả đời nó xa nhà, ăn mắn ăn muối, thèm lạt cái gì không ai hay, ốm không ai biết, rét không ai biết. Mấy năm nay, càng bước về già, hai ông bà càng mong mỏi con trai cả lấy vợ. Đã rất lâu, ông Mười không hay nói những điều mình nghĩ riêng với vợ nữa, vậy mà gần đây có lúc ông thổ lộ bật ra lòng mong đợi ngấm ngầm của ông, tuy ông chẳng bàn, chẳng hỏi Khương bao giờ. Còn Khương, anh tuyệt nhiên không nói với bố mẹ việc đó; chuyện tình yêu là chuyện riêng của tuổi trẻ, chỉ có thể nghiêm trang thưa với cha mẹ khi nó chắc chắn đã thành lễ nghi. Mà trong suốt cuộc đời bôn ba của Khương trước đây, yêu thương chưa lần nào bén đến mức lễ nghi cả. Bà mẹ có nghe mấy đứa em gái nói đùa loáng thoáng mỗi lần một khác. Bà mẹ hiền lành chỉ nói với con trai: “Mày kén làm gì kén dữ vậy. Đứa nào làm dâu má cũng được, con. Ba mày không nói nhưng má nóng ruột lắm đó”. Khương đỏ mặt một chút, gượng cười. Những lúc ấy, anh cũng cảm thấy mình có lỗi với cha mẹ. Nhưng anh không nói.
Người con dâu tên là Hảo đến với bà, bỗng làm rõ rệt một ý mong muốn vẫn lẩn khuất trong trí bà từ ngày các con đi, nhà cửa ba mươi năm trời trở nên hiu quạnh. “Giá có vợ con nó ở lại nhà với mẹ!” Câu nói ấy thoáng đi thoáng lại, thầm thì trong tận sâu thẳm lòng mong ước của bà mẹ già. Bỗng mong ước không đâu ấy thành sự thật. Con dâu của má đây đây. Nó cũng xinh, nước da trắng, cũng thùy mị như các con gái khác của má, nhất là cặp mắt sâu và to, sao mà giống thằng Khương! Bà mẹ bắt đầu thương, bắt đầu gắn bó, bắt đầu lẫn lộn.
— Đi đã, má.
Chánh lại giục. Muộn rồi thật. Cần giao hàng xong và trở về nhà trước giờ giới nghiêm, tám rưỡi. Bà mẹ đứng dậy, vui vẻ bảo Chánh:
— Cất cái túi cho chị Hai, con.
Hảo cầm tay đứa em nhỏ, cảm thấy sự êm đềm của bàn tay mảnh khảnh và bé bỏng ấy trong tay mình. “Em!” chị nói. Chánh ngước cặp mắt lấp lánh nhìn chị, cười thân mật. Như thường khi có điều mừng rỡ, bà Mười cuống lên. Bà nhấc cái ấm nước sôi đã lâu, xúc đổ một lớp tro mỏng lên mặt than, gấp lại cái chăn trên bàn là, lồng một ngăn cặp lồng đưa cho Chánh cầm, quàng vào vai cái khăn gói đã buộc chặt và bảo Hảo:
— Má đi một chút xíu rồi má về ngay. Kẻo đến giờ cấm rồi. Qua phố, má sẽ mua cho con bát mì, bát cháo. Chắc con đã đói lắm. Hãy rửa ráy một chút cho khỏe. Nước đây, con. Ở nhà, nói chuyện với ba.
Và bà mẹ nói chân thật:
— Má mừng lắm con ạ.
Người con gái ngồi trên phản, xoay mình lại. Bà cụ khoác cái tay nải trắng toát to trùm hết cái lưng, cùng em nhỏ lần trong bóng tối. Chị xúc động. Như thế đấy, cảnh nhà từ nay chị đến ở, công việc chị sẽ làm. Chị đã được anh em nói cho biết trước mọi điều. Không gì đáng ngạc nhiên cả.
Khó nhất là câu: “Con là dâu của má đây”. Đối với một người con gái đồng trinh, khó nhất là câu nói đó. Thế mà chị cũng nói được. Khi nói câu đó, lòng chị cảm động một cách thành thật. Chị chưa biết mặt Khương, nhưng tâm sự của chị cũng là như vậy. Trong buổi chia tay, sau buổi đó, ở nhiều người con gái và con trai miền Nam, vẫn lẩn quất một hối tiếc bâng khuâng về những cơ hội nào đó đã bị bỏ mất, có thể làm cho đời mình vui hơn. “Con là con dâu của má đây”. Khi nói câu nói không thật đó, Hảo cảm thấy mình rồi sẽ gây nên nhiều điều rất khổ tâm về sau, nhưng đồng thời, chị cũng có cái cảm giác thật lạ. Vì câu nói ấy, chị tất rồi có lần nói trong đời, — một bà mẹ chồng thể nào trong đời rồi chị chẳng có lần tìm đến — hôm nay chị đã nói. Và vì một cái gì còn thiêng liêng hơn, lớn hơn cái mà người ta gọi là tình yêu nữa. Với tất cả tấm tình yêu ước đang rung lên xao động trong lòng, với tất cả phẩm chất và mối nhiệt tình chân thật của người chiến sĩ hoạt động, tuy là người chiến sĩ còn rất nhiều bỡ ngỡ, lần đầu làm một công tác tương đối quan trọng và ở ngoài địa phương mình. Chị cũng có nghĩ đến Khương, nghĩ nhiều nữa kia. Lý lịch, tính tình, công việc của anh ta, chị đã biết tỉ mỉ hầu như thuộc làu. Mấy năm nữa anh ấy mới trở về. Lúc anh ấy trở về, không biết mình ở hoàn cảnh nào. Anh ấy sẽ lạ lắm, không hiểu thế nào cả. Nếu anh ấy hiểu thì cũng tha lỗi cho mình. Trong hoàn cảnh từ nay của miền Nam, sẽ còn diễn ra, vì lợi ích của đấu tranh bao điều khó hiểu và kỳ quặc. Trong việc này, giữa anh ấy và mình, mình chịu nhiều hy sinh hơn.
— Đồng chí...
Đang suy nghĩ miên man, Hảo chợt giật mình. Ông Mười mới trở vào nhà, thấy người con gái ngồi thừ ra, bắt đầu xưng hô như vậy, cũng chợt lo lắng vì những âm thanh bất giác buột ra ở chính miệng mình. Ông nhìn vội ra cánh cửa ngoài vẫn đóng kín và bắt đầu nói lại, hạ thấp thêm nữa giọng nói vốn đã rất thấp. Ông ghé ngồi xuống bìa phản trước mặt Hảo. Tay cần phải làm một cái gì để giúp trí óc nghĩ, ông tẩn mẩn mở cái chụp lấy que gạt cái hoa đèn. Đến lúc ấy, ông mới nhất quyết được trong việc gọi người con gái ấy bằng “con”:
— Ba rất sung sướng được có con vào đây ở với ba má.
Ông dừng một lát.
— Có đứa con lớn, nhà cửa cũng đỡ hiu quạnh. Chỉ hiềm nhà ba má nghèo. Con thấy đó...
Hảo ngước nhìn ông cụ, người đồng chí già hôm nay mình tiếp xúc. “Đồng chí”? Một người cha, một ông cha chồng hiền lành, chất phác. Một đợt đấu tranh bắt đầu. Hai con người, một già một trẻ, vì cuộc đấu tranh, gặp nhau và phải đóng một vở kịch, họ đóng khéo biết bao. Cũng không phải chỉ là kịch, chỉ là công tác. Cô gái không hết bỡ ngỡ. Sao tài quá vậy? Như vậy đó, Khương ạ, một người khác anh đã mục kích, và cảm phục cái phút đầu tiên, ông cụ anh trở thành chiến sĩ. Tôi cũng thế. Nếu không có việc gì xảy ra, tôi còn đi học ở trường huyện. Tôi cũng buộc phải trở thành chiến sĩ. Hảo bỗng ngậm ngùi nhớ đến cha đẻ. Ông cụ đây có những nét thật giống với cha mình. Toàn bộ dáng điệu và cử chỉ của ông Mười có cái gì thật thân cận với chị. Tuy mới đến đây chưa đầy nửa tiếng, cô gái đã có cái cảm giác lạ lùng và dễ chịu mình từ lâu là người quen.
Ông mười vặn to ngọn đèn:
— Ba đã tin cho anh em biết rồi.
Hảo giật mình. Bằng cách nào vậy. Bao giờ vậy?
Ông Mười nhếch mép:
— Nhà này có ba người, người nào cũng tin cậy được. Có điều...
Hảo phải cố gắng mới nghe được.
— Có điều... đối với má con, con là con dâu. Nó tên là Khương, con nhớ chứ. Phải làm cho má đinh ninh như thế. Điều này là cần. Má con là đàn bà, một bà già...
Hảo chưa kịp đáp, ông cụ đã nói câu sau rốt:
— Thôi, con nằm nghỉ.
Ông chỉ cái chõng:
Con nằm đây.
Cô gái đương cần nằm một lát. Giác quan bốn ngày căng thẳng, chị mỏi mệt hết sức. Chị nằm xuống chõng. Đêm mới bắt đầu. Hơi mát lạnh của gió biển run rẩy luồn qua cành các cây phi lao còn sót, phả vào trong nhà những thoáng rợn. Trên vạt đất hoang dày đặc bóng tối, cỏ xao từng hồi. Mái lều như cũng rập rờn theo sóng vẳng lại từ xa.
Khi cô gái tỉnh dậy, bà mẹ và đứa em trai cũng vừa về.
— Con nó đâu rồi mình?
Nghe ông cụ đáp:
— Để yên cho nó ngủ.
Bà cụ lại nói:
— Hèn nào đang quạt lửa, tôi hắt hơi ba bốn cái liền. Nó có ở luôn với mình không hả ông? Con nhỏ, tôi mới thấy mặt, bắt thương liền.
Ông Mười quay sang bảo Chánh:
— Nhỏ vào nghiên mực cho tao một giọt nước. Mày hì hà hì hục cái gì đó?
Chánh đang băn khoăn trước một tờ giấy rộng trải lên mặt phản.
Em đang viết đơn xin vào học.
Ngày lao động của gia đình người thợ giặt bắt đầu từ tối ngày hôm trước. Ông Mười thả cái khăn gói đầy quần áo bẩn vợ vừa đem về, xem xét từng chiếc quần chiếc áo, lật các túi mà chủ đã lục rồi, xem vẫn còn sót cái gì có thể làm hỏng cả nồi quần áo không. Quần áo lụa giặt riêng bỏ một bên. Khăn tay, khăn mặt cột nối lại với nhau thành một dây dài. Các ký hiệu trên các cổ áo lưng quần, chữ nào mờ, ông Mười quẹt đầu bút lông lên nghiên tô đậm thêm. Bà Mười xắn tròn hai ống quần, ra giếng khệ nệ xách vào từng gầu nước nặng đổ vào thùng xíp . Nước sôi, bà trở lại phản lấy gói bột-tạt vừa mới mua về, bẻ vụn nửa gói bỏ vào nồi. Ông Mười gấp quyển sổ ghi hàng, tất cả chỗ quần áo bẩn thả vào đó. Bà Mười ngồi canh lửa cho đến khi nồi xíp sôi lần nữa, nước muối và bột bẩn trào tóe lên trên ống cù lao. Ông Mười lấy một cái chậu to ngâm các quần áo bằng lụa, lại một chậu nữa để ngâm quần áo của thằng Vẹo (nếu có quần áo của nó). Ông cẩn thận gấp quần áo của thằng phung ấy bằng hai cái que. Rồi ông lấy một cái khóa và một sợi xích to, đậy nắp và khóa thùng xíp lại.
Thường thường, vừa vặn lúc đó, tiếp xíp-lê nổi lên inh ỏi ở các phố. Tiếng còi cuống quít kéo dài như người ta đang hớt hả rượt bắt săn đuổi ai. Tiếng còi thứ nhất vừa dứt, tiếng thứ hai lại rú huýt lên liền. Một chiếc xe bánh xích chạy ầm ầm qua các phố nghiến nát các con đường nhựa. Bọn lính đứng trên đe chừng các nhà, thét líu ríu trong cổ họng, thỉnh thoảng quạt vu vơ vào bóng tối một tràng súng máy. Hai ông bà già, nâng hạ vội tấm riềm lá kè, thổi phụt ngọn đèn dầu.
Hảo lại rùng mình như những đêm trước trên đường đi ở Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Bồng Sơn. Một đêm nào đó, chiếc xe bánh xích ấy sẽ ngừng ngay lại ngay trước nhà này, rồi nghiến đè lên hàng rào mà vào: chị sẽ chạy thoát bằng cách nào? Chúng sẽ điệu chị về ngay giữa ngã ba Chợ Bà. Chúng gọi mẹ đẻ chị ra, cho bà tận mắt thấy cảnh chúng khảo chị. Chao, má của con! Trời ơi, đất ơi, con của má. Nhưng bà cụ đã sờ soạng nằm xuống chõng bên cạnh chị “Thôi đi, đừng có nhỏ em!” Một giọng nói trong lòng cất lên phàn nàn như thế. “Cô tưởng cô bé mãi đấy! Bây giờ đến lượt cô lớn lên, đến lượt cô cùng lớp thanh niên như cô, thế hệ mới, đảm nhiệm lấy việc đời, đưa tay ra giữ lấy ngọn cờ, bổ sung vào đội ngũ, thay cho những người vắng mặt. Nếu cô sợ, sáng sớm ngày mai, cô cúi gằm mặt xuống, xin lỗi, trở về cũng chưa muộn. Cô lại ngồi ở cái giường bán hàng xén trước cửa hiệu trồng răng của ba cô, tiếp tục sống cuộc đời khi trước, nếu có thể gọi như thế là đời! Có cô ngồi đó, bọn lính sẽ đến rất đông ở cửa hiệu của ba cô, đứa nào cũng cần hàm răng bịt răng cả, cốt lân la ném thư cho cô thôi mà. Để đến một ngày nào đó, ba cô sẽ nài: “Con ơi, con hãy thương ba má. Con hãy bằng lòng lấy một đứa để nhà ta được yên. Họ phá cái nhà này mất!” Từ ngày chúng nó tập kết đến, gia đình cô trở về thị trấn Chợ Bà. Cũng vẫn là cái nghề cũ trong kháng chiến thôi nhưng sự hoan hỉ thái quá trong nhà về việc mua thạch cao, xi măng, vàng làm răng được dễ dàng hơn, khách hàng đông hơn, công việc làm ăn phát đạt nhanh chóng, sự mừng rỡ đó và bao nhiêu toan tính khác trong nhà, rút cục làm cho cô ngờ ngợ. Vụ Chợ Được xảy ra, mấy ngày mấy đêm, đồng bào người người lớp lớp đấu tranh với Mỹ — Diệm. Chúng nó đến giở trò giết chóc, khủng bố ngang tàng, mọi người đứng dậy chặn tay chúng lại. Nhà cô sợ “tên bay đạn lạc” dời đi nơi khác! Cô đi theo nhưng trong lòng thấy nhục. Cái điều bỉ ổi một hôm xảy tới. Một tên lính ngụy nhăn nhở vứt vào trong tay cô một bức thư. Nó gọi cô là “quí nương”: “Nếu quí nương có lòng đoái thương, tôi nguyện có thể làm hết mọi điều cô sở thích để ái tình của đôi ta được mãi xinh như mộng, quí nương sống trong phú quí giàu sang, gót sen không bao giờ phải lấm bùn” . Cô trố mắt, bỗng lạnh mình, thấy một cách thật rõ ràng cuộc đời ghê tởm mà nếu buông xuôi, cô sẽ tiến lần tới. Làm sao, làm sao, làm sao? Một buổi trời chập choạng tối, cô ra đi. Cô tạm bỏ tất cả, bỏ cái áo nhung ba cô hứa sẽ mua chuyến đi Huế lần sau, đứa em gái út rất kháu, bà mẹ tóc đã bạc mà cô rất thương. Cô chỉ mặc một bộ quần áo bà ba, cặp một chiếc nón đã xơ, tay không, đi tới với cách mạng. Cách mạng không ở đâu xa, thế là hai thế giới khác hẳn. Các anh các chị ấy, tưởng ai, hóa ra toàn là người trong vùng cả. Họ khen cô có lòng, cô làm đúng, “nhưng nếu còn phân vân, thấy gian khổ quá sức chưa chịu đựng nổi thì tạm thời trở về cũng được”. Tưởng người ta chê bai mình, cô mủi lòng, khăng khăng xin được cùng theo anh chị em.
Một lần nữa, dòng hồi tưởng của cô gái bị cắt đứt. Bà mẹ vừa xoay mình, bỗng khẽ nắm tay chị. Bà nắm nhè nhẹ cái lòng bàn tay đó, ngập ngừng một lát, rồi mơn man ngược lên trên cánh tay của cô gái. Trong bóng tối mát lạnh của ban đêm, giữa tiếng rập rình xa xa của sóng biển, bỗng bà áp khẽ mặt bà lên bên mái tóc Hảo. Hảo run lên, toàn thân và tâm hồn kinh ngạc và sửng sốt. Trong một thoáng, chị lại nhầm lẫn: cử chỉ âu yếm của bà mẹ chị mới gặp xao động lại trong tâm tư chị cả quãng đời thơ bé, hình ảnh bà mẹ đẻ của chị. Tận cùng sự sửng sốt và xúc động, chị cảm thấy bà mẹ khe khẽ lần mò trong đêm tối rồi đeo vào cổ cho chị một cái gì, đúng cái dây chuyền vàng mà chập tối, chị thấy ló ra một chút trên cổ bà.
Sợi dây chuyền vàng, tiền bán lại gian nhà lá và lô đất trên nền nhà ngân hàng đầu phố. Chỉ mới vừa thấy Hảo, bà liền nghĩ ra rằng món trang sức thật ra là một món tiền tiết kiệm bà đeo trên cổ đây, là bà để dành cho nàng dâu cả của bà: ba má dù nghèo cũng cũng thể không có gì cho con, con dâu của má.
— Tội nghiệp, lặn lội vào đây mà tìm má! Má trông con lắm. Má trông quá trông chừng!
Vừa lúc đó, chiếc xe bánh xích của Diệm rỏn qua lượt nữa, sào sạo, ầm ầm với tiếng lên đạn lắc cắc.
III
Suốt đêm hôm đó, ông Mười không ngủ. Lần về thăm nhà ấy, Khương ạ, nếu anh ngồi nán lại nghe ba anh nói rõ những điều ông muốn nói, nếu anh giúp được cho ông cụ một lời, chắc ông không đến nỗi băn khoăn trằn trọc quá như vậy những đêm như đêm nay. Đối với lớp trẻ chúng ta khi nói đến khả năng cách mạng của quần chúng, ta thường quên bố mẹ chúng ta. Vả, đối với anh, Khương ạ, vẫn phải nói một điều nữa: “Mười bốn tháng nữa, kể từ chuyến tàu sau rốt, nào có là bao...”. Phải nói rằng nhận thức của anh lúc bấy giờ đơn gản và ngây thơ, có phần mơ hồ.
Lúc bấy giờ, hòa bình vừa lập lại. Khó khăn cũ đã qua. Khó khăn mới chưa tới. Lần đầu được ngồi với con trai trong bầu không khí êm ả, ông Mười muốn tâm sự. Ông nhận thấy rất rõ ràng là bây giờ bà con ở lại phải gánh lấy cái gánh nặng giữ gìn những thành quả đạt được rất khó khăn của cách mạng.
Ấy là vào những ngày ngùn ngụt, da diết sau những vụ Chợ Được và Cây Cốc. Lúc bấy giờ, anh không muốn đi ra Bắc, Khương ạ. Ra Bắc, trên đất nước độc lập và hòa bình, chao ôi, tuổi trẻ có thể cất cánh bay lên đến tận đâu, ai nói được cho cùng! Nhưng sao anh vẫn có cái tâm trạng như đi không đành. Anh vừa ở thị xã Công-tum về chưa được bao lâu. Những vết máu ở Tam Hải, ở Chợ Được, ở Cầy Cốc... khi “đối phương” chỉ vừa mới đến, những vết máu trên các con đường lấp lánh nắng anh từng đi công tác qua, thuộc từng chặng như muốn ghì chân anh lại. Anh tưởng mình được ở lại. Mọi việc trong những ngày ấy còn dự định, còn xếp đặt như vậy, nên anh không suy nghĩ thêm, không chú ý nhiều về những lời ba anh nói.
— Anh em có bàn công việc với ba...
Không, bây giờ xa rồi, Khương không thể nào nhớ ra được đoạn sau câu ba anh nói. Anh chẳng chú ý nhiều. Anh cho là còn nhiều dịp khác, về sau anh sẽ chú ý. Anh còn mãi ngừng lại lắng nghe tiếng rì rầm quen thuộc và màu nắng vàng tươi mát và chào mời, luôn luôn chuyển động, của vùng biển quê hương. Nếu anh có chú ý, Khương ạ, ông cụ anh tất đã làm được dễ dàng hơn một số việc thật là cực nhục khi tổ chức lại cuộc đời. Không phải bố mẹ anh khi cần phải sinh nhai thường thường bị hút vì những cách làm dễ dãi của cuộc đời “hạ tiện” cũ đâu. Trước khi “khai trương”, phải đi chào hàng lấy khách, ông cụ đã suy nghĩ mãi nên đi chào ai và không nên đi chào ai. Quần áo của lũ Trần Thại và Vẹo, ông ghét lắm, nhưng không nhận không được. Mình đi kháng chiến tám năm trời không phải để bây giờ đi giặt quần áo cho cái ngữ ấy. Công việc đã bắt tay vào, nghĩ đến đó, ông lại muốn bỏ. Nhưng cuộc đời mình sống bây giờ, có còn đâu chỉ là mình sống cho chính mình, làm cho mình mình. “Anh em có bàn công việc với ba...”. Khương ơi, lời ấy của cha anh vốn có cái nghĩa tâm sự như thế.
Khi tiếng còi giới nghiêm hét lên như ngựa rượt ở các phố, ngọn đèn dầu lửa độc nhất trong nhà đã phải tắt phụt đi, bếp nấu quần áo cũng phải phủ đi bằng mấy xẻng tro, hai cha con cùng sờ soạng tìm đến nằm xuống trên cái phản ở ngoài nhà. Chánh bắt đầu thầm thì, tỉ mẩn kể cho bố nghe những điều đáng chú ý em vừa thấy ở các nhà.
Nhà Châu có tải về một thùng tộ sành. Người ở nhà ông ta vẫn còn phàn nàn là chưa đủ, cả phạm cả lính những một trăm hai mà chỉ có trăm cái tộ . Còn bác Hải, mấy hôm nay chẳng thấy về đâu. Trong túi cái áo ngủ của anh Cấu có mẩu giấy nhỏ viết bút chì, ba tìm thấy chưa?...
Thốt nhiên, ông Mười khẽ bấm con một cái. Chánh nín bặt, hai cha con cùng lắng nghe. Trời làm động, rung bấc hay sao, phía Gành có những dây sấm nhỏ. Một cơn gió nổi quạt lên đám cỏ cao trên khoảnh đất hoang. Mấy trái phượng rơi vỡ với một tiếng “tách” khô khan và lê đi trên mặt đường nhựa. “Không — hai cha con cùng nghĩ thầm — không phải tiếng chân người đi vào trong sân”. Không có gì kể với cha nữa, Chánh dần dần ngủ thiếp. Ông già một mình nằm ôn lại những việc xảy ra từ chập tối. Khương ạ, mẹ mày thèm dâu con như thế đó! Mới nghe nói, tưởng thật, vồ lấy ngay người ta. Thật tội nghiệp, một mai bà già biết ra là không phải, bà chẳng sống được đâu. Nhưng muốn cho Hảo trú ngụ được yên ổn ở nhà này, trước hết, phải làm cho bà già tin.
Hơi thở âm ấm của đứa con trai út phả vào mặt ông Mười. Những lúc ở nhà một mình với cha, Chánh hay khúc khích cười trộm mẹ vì nỗi mẹ ngây thơ, và có hơi lẩm cẩm. Ông cha và đứa con trai sống với nhau, cảm thấy dễ chịu trong một công tác bí mật, một già, một trẻ lần đầu tiên thấy mình được làm, và làm một việc quan trọng, lần đầu tiên được góp phần cụ thể vào công việc chung, được thay thế những người đi vắng và sắp sẵn để mặt đối mắt với quân thù. Không phải ông Mười không lo sợ cho con. Nhưng nào có cách nào khác? Chánh làm tròn công việc giao cho một cách khôn ngoan và dễ dàng: việc của em là làm sợi dây liên lạc giữa bố em và anh Cầu ở đầu phố, với những mẩu giấy nhầu nhỏ, “bỏ quên” trong các áo quần lĩnh về hay mang giả. Cùng với việc ấy, em phải để ý xem xét mọi việc ở các nhà em cùng mẹ đến. Với những điều con kể, ông Mười ráp lại, dần dần vẽ lại được một bức tranh chung về hoạt động trong thành phố. Những đứa có oán với kháng chiến đã trở về, thôi cái rụt rè lúc ban đầu, nay đã ra miệng chế giễu mọi người. Những đứa bụng dạ muốn đổi thay từ lâu nay cũng dần dần rõ mặt. Cũng có nhiều người co lại, lo lắng một điều gì không rõ, sắp xảy tới. Ngày đêm họ ru rú ở trong nhà. Trên các đường phố mà bụi cây đám cỏ um tùm vẫn còn nhiều hơn nhà cửa và những con người, kinh nghiệm cho họ biết thủ đoạn thông thường của “đối phương”: sau khi “thân ái” chào vẫy, ấn vào tay người ta một lá cờ ba que, chúng mở một cuộc “cứu tế” tuyên bố mở lại trường, hiểu dụ cất nhắc người vào các cơ quan, khi không còn một danh từ đường mật nào là không được dùng nữa, ấy là lúc sự khủng bố trả thù bắt đầu. Những chiếc xe bịt kín chập choạng tối mới vào thành phố, chạy luôn vào trong nhà lao rồi trở ra ngay. Lại trở ra thành phố, là những chiếc xe gì? “Nhà Châu vừa thấy tải về một thúng tộ sành. Người ở nhà ông ta vẫn còn phàn nàn là chưa đủ. Cả phạm cả lính những một trăm hai mà chỉ có trăm cái tộ” . Số phạm nhân tăng lên, số phạm nhân ấy từ đâu tới? Số đồng bào các xe bịt kín chở tới lần sau cùng có phải là những đồng bào trong cuộc đấu tranh ở Duy Xuyên, chúng nó mang về giam ở Hội An, rồi lại tráo trở chở đi nơi khác cho phi tang không? Có phải là số đồng bào mà anh em Duy Xuyên, mà Hảo đang đi tìm để bảo vệ tính mạng cho họ, và lấy chứng cớ để tố cáo bọn Mỹ—Diệm ra trước Ủy ban quốc tế và dư luận hay không? Trong bóng tối của sự xảo trá, kẻ thù vẫn làm cái việc thường ngày của nó, tâm địa chẳng dịu đi, chẳng đổi thay một chút nào. Những sự điều động rậm rịch xê dịch những len lét thì thào chỉ trỏ ở các đám đông, nhất là giọng dọa dẫm láo xược thù hằn và rất đỗi “anh chị”, tất cả những cái đó chẳng hứa trước một điều gì tốt đẹp.
Bỗng ông Mười lặng người đi: giữa hai ngọn gió xao lên những ngọn cỏ và tiếng côn trùng ở bên ngoài, ông vừa nghe có tiếng động khẽ: lẹp... quẹp rồi lẹp... quẹp. Đúng là có tiếng chân người. Người ấy đứng đây, ngay cạnh đầu phản ông nằm đây, chỉ cách có một tấm riềm lợp lá kè. Yên lặng đến nghe được tiếng thở phì phò của hắn. Yên lặng đến nghe được tiếng đập thình thịch của quả tim mình. Và nghe tiếng nước trong cái thùng xíp ở bên ngoài chốc chốc lại trào lên lục rục. Chúng nó dò, vẫn dò mình đêm đêm, rõ ràng là như vậy. Thế đấy, cuộc sống đâu có dễ dàng. Cuộc đấu tranh đâu có dễ dàng. Lẹp... quẹp, lẹp... quẹp, tiếng chân rón rén nhè nhẹ quay ra, thành thuộc, chẳng phải dò dẫm lần mò gì. Lẹp... quẹp: tiếng chân thọt, không những thọt mà... vẹo!
— Dậy, bà!
Gà gáy canh Năm. Một cánh cửa sổ đẩy mạnh va vào vách đánh “cạch!” một tiếng khô khan ở nhà ông Lang, vườn bên cạnh. Có lẽ Vẹo nó cũng vào đấy. Hôm nay ông Lang nghỉ xe, vì là ngày họp “liên gia”.