Trên Nguồn I
CÂU chuyện ấy bắt đầu từ đâu. Nó bắt đầu, đối với tôi cái hôm, xong việc ở Công Tum, tôi luồn về rừng thăm nhà. Tôi an ủi mẹ tôi: “— Thôi, mẹ ạ, anh em người ta làm sai, đến đồng chí ủy viên thường vụ khu phụ trách việc đó cũng bị kỷ luật rồi. Con biết mẹ khổ lắm, nhưng mẹ hãy vì con mà quên đi, mà bỏ qua, đừng để tâm nữa làm chi. Cách mạng là con chứ còn đổ cho ai, hả mẹ?” Đang như thế, chợt có tiếng loa rao. Cái gì thế? tôi chạy đi một lát, rồi chạy về thưa với mẹ tôi: “— Ta thắng ở Điện Biên Phủ rồi, ngừng bắn rồi, hòa bình rồi, mẹ ạ. Phân chia tạm thời hai miền sao đó con cũng chưa hiểu rõ. Nhưng lúc này là cơ quan triệu tập cán bộ về đây, mẹ cho con đi đã”. Không biết đó có phải là linh tính không, nhưng quả thật, tôi mới về nhà có một lát, sau một chiến dịch dài nhất, vất vả nhất miền nam trung bộ, và mẹ tôi thì sau một tao gian nan nhất trong đời sống tinh thần của bà.
Tôi thấy lại tôi, ba lô khoác vai, đứng đọc tờ thông cáo kèm theo hiệp định Giơnevơ ở ngã tư Hành Thiện. Và tôi nhớ là buổi chiều đó ở Hành Thiện cái nắng rất lạ, bảo vui ư, không phải, bảo buồn ư, không phải, chói quá, không phải, dịu quá, không phải. Tôi nhớ là người đọc không nhiều và không ai biểu lộ tình cảm gì cả. Tôi nhớ là tôi chỉ lờ mờ một cảm giác rằng đời tôi từ nay không giống như trước đây, sẽ có thay đổi đấy, thay đổi thế nào thì chưa biết, nhưng chắc chắn thay đổi.
Câu chuyện ấy cũng có thể bắt đầu từ một cuộc họp, một cuộc họp mà tôi sợ mãi cho đến bây giờ. Cuộc họp này “bình” ai đáng ra Bắc, và ai ở lại miền Nam. Tôi kinh ngạc nhìn một số bạn tôi. Hiệp định Giơnevơ không có quy định cán bộ đoàn thể phải đổi vùng, và điệu ấy thích hợp với cái tâm lý quyến luyến miền Nam của chúng tôi: vùng chúng tôi, tám năm chống Pháp là vùng tự do, không lẽ khi dễ dàng thì mình ở, mình ăn, bây giờ mới đen tối đây, khó khăn đây, khi đồng bào khó khăn thì mình tránh đi? Lúc bấy giờ, trình độ tôi chỉ có vậy, chỉ thấy cái trước mắt, không thấy cái lâu dài. Mặc dù vậy, tình cảm của tôi là tốt đẹp. Ra miền Bắc, nơi thực hiện tức thì cái mơ ước từ ngày mình bắt đầu làm cách mạng, tuổi trẻ được chắp cánh, tương lai chẳng biết đầu là cùng, nhưng ở lại, đối với tôi cùng nhân dân chia ngọt sẻ bùi, phải hơn. Nhiều người trong số đang ngồi họp đây tâm đắc với tôi điểm ấy lắm. Nhưng ngạc nhiên xiết bao, hầu hết số đó, khi biết mình có thể đi, đều nói mình đáng được đi, nguyện vọng là được đi, có người nói thật trắng trợn, và có chiều cuống quýt nữa, về công lao và khả năng, khả năng xây dựng đất nước hòa bình của họ. Duy Xuyên, Chợ Được, Ngân Sơn... đối phương đã đến, đang tiếp dần đến, và rõ ràng là không hứa hẹn sẽ tôn trọng hiệp định, dần dần hiện nguyên hình tàn bạo và ác ôn. Nhưng tôi không nghĩ rằng các bạn tôi sợ. Vì sau này, trong hoàn cảnh đen tối và ác liệt hơn nhiều, nhiều người trong số đó lại tình nguyện mở con đường máu mà về, sống và chiến đấu với chúng tôi. Nhưng lỗi có lẽ là ở cách làm. Cách làm làm cho anh em nhầm tưởng ra đi là có giá trị, là quan trọng hơn ở lại. Những người có nhiệm vụ tổ chức việc ở lại thì làm ngược lại, cho việc ở lại quan trọng hơn việc ra đi. Có nói đi trắng trợn, thì cũng có nói lại trắng trợn không kém, thành một cuộc tranh giành cãi vã không lấy gì làm đẹp, nhất là đối với những người từ nay không sống chung với nhau nữa, sắp mất hút nhau trong khoảng trời đất bao la của hai miền tổ quốc, thậm chí sắp kẻ mất người còn. Tôi nhớ Quê, thư ký văn phòng. Vì làm một nhiệm vụ bé nhỏ, Quê biết nếu không phát biểu một cách thật rõ ràng, khó lòng người ta đoái tưởng đến mình. Mắt trũng — chứng tỏ anh thức nhiều đêm trằn trọc suy tính, mặt hóp và tái xanh, anh run lẩy bẩy khi nói: “— Tôi xin các anh chiếu cố tôi: tôi có tính hay sợ, thần kinh tôi kém lắm, tôi không ở lại với bọn địch được đâu”. Đáp lại lời khẩn cầu có tính thảm bại nhưng thành thật của Quê, là một tiếng cười đồng thanh như phá, nhiều người cười đến chảy nước mắt nước mũi ra. Những người cười ấy quên rằng lời lẽ tự “bình” của mình có văn hoa hơn, nhưng chẳng qua mục đích cũng như Quê mà thôi. Rốt cuộc, Quê ở lại.
Còn tôi, thấy không ai nhắc đến mình, nhất là ban trù bị, tôi cũng lặng im không nói. Tối hôm đó, tuy tôi vẫn nằm ở cơ quan nhưng mường tượng như đã bắt đầu cuộc đời sắp tới ở miền Nam rồi, mỗi giờ dài bằng một ngày, những ngày đầu tiên ở miền Nam của chế độ “nó”, thật cô đơn và trống lạnh, tôi đã có cảm giác đó, tuy tôi vẫn còn nằm giữa các bạn tôi, tôi còn nằm giữa các bạn tôi mà tâm lý đinh ninh rằng họ đã ra Bắc. Gà gáy canh ba đã lâu rồi, họ ngủ cả rồi mà tôi vẫn còn thức. Chợt có người xách đèn đi vào trong ngõ, đặt đèn xuống thềm nhà và đi thẳng vào chỗ tôi nằm. Người ấy lay tôi, thì thào: “— Anh Tâm mời anh sang ngay bây giờ.” Anh Tâm là ủy viên thường vụ khu ủy. Tại sao lòng tôi như reo lên tôi không biết. Tôi theo cậu liên lạc chiếc đèn chai lắc lư trên tay đi trên những bờ ruộng ngoằn ngoèo đến tận chân núi, nơi khu ủy đóng, vào nhà anh Tâm. Anh Tâm đang vừa nhìn vào giấy suy tính cái gì vừa vấn thuốc dưới ánh sáng đèn, chỉ hơi ngửng lên khi tôi vào. Cả anh nữa, bộ bà ba đen, râu ria lởm chơm, bộ điệu thật ra vẻ quan trọng của anh, tiếng anh thì thào làm cho tôi thấy rõ là anh cũng đang khích động lắm vì không khí công tác bí mật đã bắt đầu. Anh cũng tâm trạng như tôi, tưởng mình đã bước sang cái bóng tối của chế độ nó. Và cái không khí quạnh quẽ trong căn nhà lá ở chân núi đêm khuya thích hợp với sự tự kỷ ám thị đó. Anh Tâm hỏi tôi:
— Thương vụ khu ủy muốn biết ý anh thế nào?
Thật là một câu hỏi trống không, không có tiền đề. Đáng lẽ phải sửng sốt, phải hỏi lại cho rõ hơn, tôi cũng dùng một câu trả lời không có tiền đề như vậy.
— Tôi sẵn sàng.
Không ngờ anh Tâm lại hỏi dồn tôi phải nói cụ thể trước:
— Sẵn sàng thế nào?
Không thể dừng, tôi đành nói rõ điều tôi nghĩ:
— Các đồng chí cho tôi đi ra Bắc để tôi được học hỏi thêm, cũng tốt. Nếu phải ở lại cũng được.
— Ở lại, anh sẽ ở đâu?
Câu hỏi đó đáng lẽ tôi phải hỏi anh Tâm! Tôi nói:
— Tùy các anh. Công tác thành phố, tôi làm được. Nông thôn cũng được. Miền núi cũng được.
— Gian khổ đấy — anh Tâm nói, tại sao trong giọng nói như có một thoáng mỉm cười chế riễu sự khờ khạo của tôi và sự chế riễu ấy khiến tôi hiểu rằng việc chọn lựa tôi không phải chỉ do anh Tâm, mà còn có nguồn gốc từ trên cao hơn nữa. Sự nhận xét như vậy khiến tôi trả lời ngay, không do dự:
— Tôi chịu được — tôi nói.
— Được. Anh về Bình Định — anh phân công cho tôi với cái mỉm cười bộc lộ hẳn trên môi anh. Về sau, lâu về sau, theo sự bộc lộ của chính anh Tâm, tôi mới biết lúc bấy giờ mình đang có trước mặt hình ảnh một cán bộ chỉ huy ra lệnh cho cấp dưới nhưng bản thân mình thiếu tin tưởng như thế nào. Cái mỉm cười của anh Tâm làm cho tôi bất giác trạnh lòng và muốn chấm dứt ngay lập tức cuộc gặp mặt để suy nghĩ về sự việc to lớn vừa mới xảy ra cho mình.
— Được — tôi nói.
Tất cả không đầy hai mươi phút. Tôi từ một chiến thắng rất cụ thể, Bắc Công Tum, một khía cạnh của Điện Biên Phủ mà tôi có dự vào, từ một chế độ tự do rất cụ thể mà tôi được vẫy vùng trong chín năm, bước ngược trở lại, chìm khuất trong tối tăm của chế độ thực dân cũ rích nó bao trùm nước ta ngót một thế kỷ và vây bủa tôi suốt cả tuổi thiếu niên. Sau hôm ấy, ở khu năm, chế độ vẫn là chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tôi vẫn còn ở cơ quan ấy, chung với các bạn tôi trong mái nhà xóm nhà ấy. Nhưng giá có ai hỏi tôi, trong hai mươi năm chiến đấu chống Mỹ, quãng thời gian anh phải dùng nhiều đến lòng can đảm là quãng nào, tôi sẽ trả lời là quãng thời gian đó, sống giữa các bạn cũ mà tôi không còn cười tận cái cười, vui trọn niềm vui, cứ cảm thấy nặng trịch ở trong lòng vì phải giữ một bí mật to lớn.
IICâu chuyện của tôi cũng có thể bắt đầu từ lớp học đó, “lớp học dành cho những người ở lại”. Một lớp học kỳ lạ, mỗi nhà trọ một người, không ai được tiếp xúc với ai, buổi tối lên lớp, mỗi người cầm một cái đèn có hai tai che đèn vừa đủ soi trang sổ tay của mình, trang sổ tay đó cũng sẽ hủy đi trước giờ tan lớp, người trọ không được nói chuyện với chủ nhà, không được hỏi họ, tên, thôn xóm. Đêm học, ngày nghỉ, tôi tẩn mẩn ngồi nhìn đám thanh niên đánh bóng xa xa đằng kia, chốc chốc mắt nhắm cố nhớ nét mặt vài người, không biết nhớ để làm chi. Mười lăm năm sau, có dịp qua lại vùng này, người ta đưa đến giới thiệu với tôi một người phụ nữ từng vào tù ra tội, vẫn trụ bám địa phương là một người gây nên giông bão cho địch suốt hàng chục năm ở vùng Mỹ Hiệp, tôi bàng hoàng nhận ra một cô gái đánh bóng chuyền ngày trước, tuổi xuân còn lại ở một nét miệng cười buồn.
Lớp học xong, vừa là những ngày cuối cùng của tháng năm, ngày cuối cùng trước khi hoàn thành việc chuyển quân. Hôm nay đơn vị sau cùng của chúng ta sẽ xuống tàu, chuyến tàu ra Bắc cuối cùng khởi hành và đối phương tiếp tới thay chân.
Trên đường lên căn cứ, bắt đầu đi vào bí mật, tôi tạt ghé lại nhà thăm mẹ tôi. Câu tôi an ủi mẹ tôi năm trước còn dở dang: “— Mẹ hãy vì con, đừng để tâm nữa làm chi. Cách mạng là con chứ còn đổ cho ai hả mẹ?”. Mẹ là mẹ của tôi, tôi bỏ cuốn sách xuống là đi theo cách mạng, chưa hề đền đáp công ơn mẹ được tí gì, mẹ tôi một sương hai nắng chắt chiu từng đồng nuôi hộ vợ con tôi, mà anh em, trong lúc mê muội, có người không tiếc lời xỉ vả, thậm chí còn vô hình trung đẩy về phía bên kia. Chính tôi nhiều lúc nghĩ tới sự bất công ấy lòng cũng xốn xang. Nhưng sống dưới chính quyền ta, lại có tôi ở gần, tôi tin rằng tôi có thể hàn gắn được vết thương trong tâm hồn mẹ tôi. Không ngờ chiến thắng vừa xong lại có chuyện chia đôi hai miền, lại có chuyện éo le thay đổi chính quyền. Tôi sẽ nói với mẹ tôi thế nào đây? Làm sao giữ được mẹ tôi về phía có tôi? Thì giờ không còn đủ để tôi giảng giải nhiều. Tôi chỉ còn một cách là nói với mẹ tôi hãy thương tôi cho trót, tôi đứng phía nào thì mẹ đứng phía đó. Có một điều tôi cần tránh là làm cho mẹ tôi tưởng nhầm rằng tôi không đau cái đau của mẹ tôi nên tôi dễ nói nhẹ nhàng: trước cái đau của chính mẹ mình mà mình cũng trơ trơ thì cái giống người như tôi cũng chẳng khác những kẻ lăng nhục mẹ tôi là mấy tí, rồi trên đường đời, tôi tất cũng sẽ phạm vào những bất công tương tự đối với người khác mà thôi. Nếu mà tôi làm cho mẹ tôi hiểu nhầm như thế trong giờ khắc tế nhị này thì thật là nguy hiểm. Mà tôi cũng không thể nói thật với mẹ tôi đã thương bà và cũng đau như thế nào, không những với tư cách là con, mà còn với tư cách là đảng viên nữa. Nhưng thôi, đó là lại bước qua chuyện khác, việc hôm nay là tôi về thăm mẹ, thăm lần cuối cùng, trước khi ra đi. Những năm tháng trước mặt đầy rẫy khó khăn. Mẹ tôi đã già, thật không chắc mẹ con rồi còn gặp nhau: ý nghĩ ấy cứ làm tôi ngẩn ngơ hoài. Không chắc còn gặp nhau nữa mà chia tay trong sự hiểu nhầm, hai mẹ con đã sống hai cảnh đời khác nhau mà còn xung khắc nữa thì thật buồn. Giá tôi có thể nói thẳng với mẹ là tôi ở lại, tôi ở lại để tiếp tục chiến đấu bảo đảm thực hiện hiệp định Giơnevơ, tiếp tục giải phóng miền Nam! Rằng tôi sẽ vẫn ở không cách xa nhà ta mấy, chỉ trong rặng núi Vĩnh Thạnh kia thôi, tôi sự thật tham gia lãnh đạo công tác huyện nhà. Con vẫn ở bên cạnh mẹ, mẹ con chúng ta có thể không gặp nhau nhưng con ở bên cạnh mẹ. Nhưng tôi không được phép bộc lộ như thế. Về đây, tôi sẽ chỉ nói với mẹ là tôi chào mẹ lần cuối để ngày mai xuống tàu.
Hai giờ sáng tôi mới về đến nhà. Đêm nay và ngày mai vẫn là giao thời, ngày kia mới là chế độ “ nó ”, nhưng tại sao đứng trước nhà tôi, tôi có cái cảm giác nghẹn ngào như vậy! Mái nhà thân thuộc, nó đây mà sao nó trở nên hiu quạnh thế, thấp quá thế, trơ trọi thế dưới gốc mấy cây mít già sum suê, trong khu vườn không đèn đuốc. Mẹ tôi không lên tiếng, ý chừng nghe ngóng đã, mãi một lúc khi nhận ra tôi rồi mới thấy cái dáng lụm khụm của bà bước ra. Có lẽ bà lạ lắm, kinh ngạc lắm nên không buột nói câu gì. Có lẽ là vừa đi vừa nghĩ tại sao tôi lại về. Đáng lẽ cứ đi thẳng thì bà lại đi chéo qua cái sân, ra mở cổng cho tôi, mười ngón tay răn lóng ngóng mở hoài mới bật được cái then. Bà ngước mặt nhìn tôi, hai mắt mở to, trong bóng tối tôi không nhìn thấy con người bà, tôi chỉ thấy hai mắt mở to và im lặng, tôi hiểu đó là sự kinh hãi, tôi vội vã nói liền:
— Con về chào mẹ ngày mai con đi tập kết.
— Mai? — tôi nghe mẹ tôi như ré lên như thế thoạt tiên, một tiếng độc nhất — không, không phải bà ré, một sự kinh hoàng nào của linh tính kìm giữ tiếng kêu lên ngạc nhiên của bà, nhưng mãi mãi trong lòng tôi. Tiếng kêu lên sợ hãi cho con đó của mẹ tôi để lại một vết xoáy sâu nhọn như một tiếng ré. Mầy bảo mai? — mẹ tôi giảng giải sự kinh ngạc của mình. Đây với đấy hai mươi nhăm cây mà giờ này còn ở đây...
— Tức là mười hai giờ đêm mai, mẹ ạ. Ai còn ở trên bờ, mười hai giờ đêm mai mới phải ra tàu, đó là hạn cuối cùng. Tối ngày mai con đủng đỉnh đi cũng còn kịp chán.
Mẹ tôi không nói gì nữa. Tôi vào nhà, lên nhà trên, định nghỉ một lát, trong lúc mẹ tôi nấu nướng cho tôi. Nhưng ngả lưng mãi không sao chợp mắt được, tôi lần xuống nhà dưới. Cảnh nhìn thấy làm tôi bủn rủn cả chân tay: mẹ đang ngồi trước bếp lửa cúi đầu trong vạt áo mà khóc.
Tôi cuống lên, nghẹn ngào ôm vai mẹ tôi:
— Con cũng không ngờ lại có lúc tuổi già của mẹ lại không có con — tôi nói. Mẹ cho con đi làm cách mạng tất đã có lường trước nhiều chuyện khó khăn, thậm chí tù đày, hy sinh. Con đường cách mạng của con cho đến bây giờ là dễ dàng, nay con phải xa mẹ...
Mẹ tôi ngừng khóc, ngửng phắt lên:
— Mầy ra Bắc thì có gì là khó khăn?
Tôi vẫn hiểu nhầm rằng mẹ tôi buồn tủi vì cô quạnh, vì vợ chồng con cái tôi đi cả — vợ con tôi đã đi trước theo sự bố trí của huyện — để bà lại một mình. Tôi nói đến lòng biết ơn bà từ bé đến lới cho đến lúc có vợ con, tôi vẫn được hưởng sự bao che của bà, từ nay không có sự bao che ấy nữa. Vợ tôi chẳng hạn, sẽ vừa công tác vừa nuôi con, vừa mang thai trong bụng. Đó là tư riêng, chứ nhìn vào cục diện nói chung, chúng con không ở trong này nữa, ra miền Bắc mà tính chuyện lấy lại miền Nam, không khó khăn sao hở mẹ?
Mẹ tôi mắt vẫn mở to — tôi nhớ là từ lúc tôi về, đón tôi ở ngoài cổng, bà nhìn tôi mắt lúc nào cũng mở to như giận và có điều gì không tin tôi. Lần này, bà ngắt lời hỏi không úp mở:
— Mầy đi thiệt sao?
— Thiệt — Tôi đành phải nói, tôi vốn không bao giờ muốn nói dối mẹ tôi. Ngay cả trong tình huống lúc này tôi chưa được phép nói sự thật, tôi về đây cốt để chào biệt bà, còn tôi có ra Bắc hay ở lại trong chòm xóm địa phương núi non nào đó, tùy bà muốn hiểu sao thì hiểu, đối với hai mẹ con thì bề nào cũng là xa biệt.
Tôi chỉ nói có một tiếng “thiệt” đó. Thế mà mẹ tôi mừng rỡ lắm. Bấy giờ bà mới vội vã, quính quíu lên sửa dọn cho tôi ăn. Lúc nãy thì cũng là tôi, bà cũng biết là tôi đói mệt và đi đường xa về, mà bà uể oải không thiết cái gì hết. Ngồi nhìn tôi ăn bây giờ, bà nói toạc ra những ý nghĩ chất chứa của bà — bà mẹ già lúc nào cũng tha thủi của tôi tuyệt vời ở chỗ tính tình bộc trực.
— Mẹ sợ con phản! — lời nói ngay thật ấy của mẹ làm tôi lạnh xương sống. Được Đảng giao cho ra Bắc mà lén lút ở lại với vợ con, sau này làm thế nào mà không cộng tác với đối phương được, như thế không phải là đào ngũ, là phản sao? Không thấy con về, tưởng con đi luôn, mẹ cũng buồn, cho là con tệ. Nhưng lúc nãy thấy con về, mẹ sợ hơn, mẹ hoảng vô cùng, tưởng là con phản rồi. Mẹ sợ do con giận một số người đã xử không tốt với mẹ, tức là không tốt với con. Nhưng hiểu vậy là sai đó, con. Mẹ bằng này tuổi đầu, bao nhiêu cái nhục cái vui đều đã từng, mẹ biết phân biệt cái phải, cái trái, cái lớn cái nhỏ. Khi thấy một số người làm bậy, gây nên bất bình, riêng mẹ bị khó khăn, mẹ thật lo, buồn nữa, nhưng không giận đâu. Nhà mình nội ngoại bao nhiêu đời, đến đời mẹ thật mới biết thế nào là cái giá trị làm con người, đến đời con, đời con con, thật sự mở mày mở mặt — mẹ bảo thế — mẹ đẻ ra con, mẹ nuôi con, nhưng cứ phấp phỏng, con lớn lên lại giống như cậu, như chú, lại cũng sống như thế thì buồn quá. May mà có cách mạng...
Mẹ tôi nói còn dài, đại khái mẹ tôi nói như vậy, trong nỗi kinh ngạc, khâm phục và xúc động của tôi. Hóa ra mẹ tôi hiểu tất cả, tôi không cần lo lắng giải thích dài dòng điều gì nữa, chỉ hưởng thụ niềm vui được mẹ săn sóc trong ngày trở về thăm nhà cuối cùng, có lẹ là ngày cuối cùng được mẹ săn sóc, rồi đi. Tuy vậy, tôi vẫn tranh thủ nói với mẹ tôi tôi về những tình huống có thể xảy ra. Kẻ thù, chúng sẽ không ai khác, trong hoàn cảnh của xã của huyện ta, là những người mà mẹ con ta có quen cả. Chúng sẽ rình mò, giám thị, tra tấn, bắt bớ mẹ nữa — vì mẹ là người cách mạng, và mẹ là mẹ của con: về điều này, chúng sẹ không mơ hồ đâu. Một mặt khác, anh em có thể nhờ đến sự giúp đỡ của mẹ.
Mẹ tôi nghe tôi nói, cười cười, mắt rực lên một ánh sáng vui lắm, lạ lắm, bảo tôi: con cứ đi đi, chớ phải lo gì về mẹ hết trơn, mẹ có chết cũng đã trọn đời mẹ, mẹ đã nói như vậy thì con hiểu rằng mẹ sẽ không làm điều gì nhục mẹ, nhục con đâu.
Nhưng đến chiều, cuối ngày hôm ấy, càng đến gần giờ tôi phải lên đường, mẹ tôi tiễn tôi đi, thì bà lại bẩn thẩn bần thần lặng thinh trở lại.
— Có thật, là con đi không con?
Bẵng cả ngày, bây giờ mẹ trở lại hỏi thế. Giọng bà thì thào, như bà sợ, và vẫn phấp phỏng không tin tôi, mà nếu sự thật như thế thì mới là tai họa cho đời bà chứ không phải ở những điều tôi lo cho bà.
Tôi nói mạnh bạo: con đi chứ, ơ hay, sao mẹ lại hỏi như thế? chiếc ca-nô cuối cùng mười một giờ đêm mới xuất phát, tầu mười hai giờ mới kéo neo, mười hai giờ đúng tập kết hai miền mới hoàn thành mà, mẹ.
Tuy vậy, tôi vẫn thấy mẹ tôi trân trân nhìn tôi dò xét rất nghiêm khắc, nếu mà những lời tôi nói đây mà là nói dối thì tôi thật là một đứa bất hiếu bất mục. Đang như vậy, thì dường như đã quyết được đã kết luận được, bà đứng dậy soạn sửa cho tôi, xếp cái này, sắp cái nọ, nhanh nhẹn hẳn lên, tong tả hẳn lên và cùng tôi ra cổng làng.
Đến bến đò Tân Thuận, bà chủ động đứng lại. Tôi nhớ là suốt dọc đường bà không nài hỏi tôi tại sao không cho bà theo đi Quy Nhơn, không cho bà tiễn xa hơn chút nữa. Bà chủ động đứng lại, chủ động nói một câu ngắn ngủi, ngắn ngủi quá:
“— Thôi, con đi”.
Và quay ngắt lại, bước rảo, bóng càng lúc càng nhỏ, càng mờ trong bóng tối của hàng tre.
Tôi dừng lại một chút, nhìn xem bà có nấp khuất trong bóng tre dõi chừng tôi không. Không, mẹ tôi không làm thế. Bà đi thật nhanh, như chạy, như thể bà hờn tôi, như thể bà đang trốn một cái gì, cắt đứt một cái gì, trong lòng mình. Cử chỉ đó của mẹ khiến tôi không thể trần trừ được nữa. Tôi cũng đi nhanh, đi thẳng theo con đường đi Quy Nhơn. Đi đường ấy được một quãng đủ xa, tôi vòng trở lại, nhắm chân núi phía Tây mà băng tới. Đêm ấy, trăng sáng dữ dội, hình như là một đêm rằm, trăng tròn lên từ sớm, tôi phải men theo các bìa làng mà vượt thật nhanh các vùng có dân cư, ở đây ai gặp cũng có thể nhận ra tôi cả. Khi làng mạc đã xa, cũng đã xa chó sủa gà kêu eo óc, tôi mới chọn một phiến đá ngồi lại, mặt quay về hướng nhà mẹ con tôi. Tình cảm tôi lúc đó thế nào mà tôi muốn chắp tay lạy vọng mẹ tôi mấy lạy, tạ cùng mẹ cái tội đã nói dối mẹ, lần đầu tôi nói dối mẹ, cốt cho mẹ yên tâm, rằng con cũng không thể lộ bí mật ngay từ khi bắt tay vào việc, từ nay bí mật của con không còn chỉ là của con nữa, mẹ hiểu cho con. Có lẽ mẹ có ngờ ngợ chăng, con không ra Bắc đâu mẹ ạ, mà ở lại đây. Chắc con ở cũng chẳng cách mẹ mấy đâu, nhưng từ nay về sau, mẹ và con là hai cảnh đời khác biệt...
Còn mấy phút nữa là mười hai giờ. Tôi ngồi như vậy đó đợi cái phút giây lạ lùng giữa hai chế độ, phút trước cái gì cũng còn là của tôi, phút sau, từ đây trở đi, tôi không có quyền nói như vậy nữa, tôi đã phải xung xát rất ác liệt, trong bao nhiêu lâu, tôi không biết, nhưng mà rất ác liệt, mới có thể nói tiếp được như vậy. Trên đầu tôi, ngẫu nhiên một đám mây đen vùn vụt lao tới phía vầng trăng bạc và nó đã bắt đầu liếm tới.
IIIThật tiếc, anh Quê rời bỏ cơ quan ngay trong lúc chủ trương chỉ mới có những nét mờ mờ. Anh thật sự mích lòng. Chiều và đêm hôm ấy, cho đến lúc được biết quyết định mới về mình, tôi tâm trạng cũng như anh, tôi hiểu được, chia sẻ được sự mích lòng của anh. Thật kỳ quặc, một người theo cách mạng tám năm, gào thét khản cổ hoan hô cổ võ mỗi chiến thắng dù nhỏ, mỗi quyết định mới dù có khi có quyết định đó dẫm đạp lên quyền lợi thiết thân của mình, trèo đèo lội suối, cơm nắm chấm muối sả tám năm, cách mạng từ nay giao không anh cho đối phương — giao không anh cho nó, chịu sự áp đặt của nó, để anh tự giác, “cùng với nhân dân đấu tranh có lý, có lợi, có chừng mức”. Thật vô lý, không thể như thế, có cái gì phải sáng tỏ nữa, thậm chí điều chỉnh nữa. Nhưng đáng lẽ phải đợi thì anh Quê bỏ đi. Đêm hôm đó, sau khi ở chỗ anh Tâm về, mình đã biết rõ những ngày sắp tới của mình như thế nào rồi, tôi trở về cơ quan, còn thấy anh Quê nằm trằn trọc cách tôi không xa. Cho đến hôm nay, sắp chia tay kẻ Bắc người Nam, Quê vẫn chưa phải là đảng viên. Cách đây bốn năm, tôi, bí thư chi bộ, đang cùng anh chuẩn bị để làm lễ kết nạp cho anh, thì không may, đúng lúc ấy, có lệnh nghiêm ngặt đến đóng cửa Đảng. Ở khu năm, lúc bấy giờ nó là như vậy. Cấp trên có bàn riêng về trường hợp anh, nhưng nghĩ rằng anh vốn đã tương đối tốt rồi, lại công tác ngay trong một bộ phận sát bên cạnh ban tuyên huấn, có nhiều cách để giúp anh tiến bộ. “Cậu không phải là đảng viên, mà yêu Đảng, cái tư cách ấy trong thời kỳ mới hóa lại hay, có thể làm nhiều cho cách mạng được” — tôi có lúc muốn nói với anh thế, nhưng nghĩ lại thấy cái đó nó không thành thật thế nào, vì bản thân mình, cho dù trước những khó khăn nào, cũng không hề vẩn vơ có sự mong muốn ngược như thế. Tôi chỉ nói được có một lời: “Thôi được, chúng mình ở lại miền Nam với nhau”. Ý muốn nói rằng tôi làm việc gì thì tôi rủ anh làm việc đó, quyết giữ đến cùng khí tiết của mình. Nhưng tôi không thể nói rõ hơn. Đêm hôm ấy, ở chỗ anh Tâm về, tôi muốn lay anh dậy mà nói với anh quá: đừng để mất liên lạc nhau, mình sẽ móc cậu theo mình — cái lễ kết nạp cậu mà mình không thể tiến hành được trong vùng tự do, chắc là ta sẽ có dịp tiến hành trong bóng tối, dưới ách của kẻ địch. Song tôi đâu có được phép tiết lộ ngay như thế? Nhưng sáng ngủ dậy, cả nhà không thấy anh Quê đâu nữa.
Quê không có thì giờ để mất. Anh trở về thị trấn Bình Quang, vốn là quê chúng tôi, vội vã, ra cái điều việc về này đã từ rắp từ lâu, là kế hoạch đã định sẵn trong đời, cho nên có hiệp định Giơnevơ, anh thực hiện liền. Với ai hỏi, môi anh nở một nụ cười bí mật, tự ví mình như Phạm Lãi, sau khi giúp Câu Tiễn lấy đất Ngô, nay đến lúc chu du Ngũ Hồ. Có ai hỏi lại tai sao anh ví anh với Phạm Lãi, có phải vì anh không phải là đảng viên, cũng giống như người nước Sở không, nếu người hỏi là người bên này, Quê trả lời anh không định nói thế, chỉ nghĩ rằng cuộc kháng chiến còn dài, sức anh có hạn, tham gia làm được một nửa là may rồi, nay đến cuộc phân ly này tuổi đã tam thập, tam thập nhi lập mà, anh! Nếu người hỏi là người bên kia, nghĩa là bọn con cái địa chủ, thương nhân, trí thức trùm chăn xưa nay nổi tiếng lêu bêu giờ ngày càng xuất hiện nhiều ở thị trấn huyện, anh ỡm ờ im lặng.
Thật ra, Quê cũng có tránh nói những lời khốn nạn, ít nhất là anh cũng có tránh trắng trợn. Những ngày hôm ấy, anh có dịp nhận xét rằng sống ở đời phải rõ ràng, ở cái lằn mức không rõ ràng, chỉ một ngày thôi cũng khó lòng trải qua, từ nay không có Đảng nữa, nghĩa là vẫn có Đảng ở đâu đó nhưng không ở cạnh mình nữa, tầm tay mình với không đến nữa, tự mình mình xoay xở, xoay xở làm sao? Không phải đảng viên mà yêu Đảng, như thằng Nghĩa có lần nói, để an ủi mình sau cái lễ kết nạp hụt đó? Tôi muốn như vậy lắm, nhưng mà khó lắm. Không lẽ không làm cái gì, không lẽ không nói cái gì, làm cái gì nói cái gì mà đối phương không buộc được mình là cộng sản, đồng thời bên mình vẫn đánh giá mình là tốt? Nguyên một lý do mình ở lại miền Nam, không tập kết ra Bắc cũng khó giảng giải rồi. Nếu không phải là nằm vùng thì là bất mãn, thế thôi. Nằm vùng thì chúng nó tiêu diệt, bất mãn thì dân xa. Có thể trở về làm dân thường mà không bất mãn được không? Ai tin được như vậy? Cho nên tưởng đã khôn khéo, Quê nặn ra câu chuyện Phạm Lãi chu du Ngũ Hồ. Nguyên trong câu chuyện đó cũng đã có khía cạnh bất mãn rồi, cái đó chính Quê cũng nhận thấy, và không phải là không thấy mình thấp đi. Chao ôi, trong lúc nhiều người mong cho những ngày này kéo dài ra, không có sự thay đổi gì, thì Quê, anh sốt ruột mong cho mọi việc chóng ngã ngũ, đối phương có đến thì đến đi, lục soát, kiểm tra, thủ tục gì thì làm luôn đi để anh có thể chui vào nhà chùa hoặc một trường học. Nhà chùa, cũng có cái kỳ, vào đó là chuyện thậm bất đắc dĩ, có lẽ trường học ổn hơn. Vốn đang đi học thì cách mạng, phải ngừng học tám năm, giờ hòa bình rồi , đi học lại, kiếm cái bằng cử nhân, có cái bằng cử nhân mới đàng hoàng là người trí thức, lý lẽ như vậy với bên kia có lẽ nghe được. Làm anh học trò cũng đỡ bị quấy rầy. Mà hai, ba, bốn năm đằng mình về, hỏi mình làm gì, mình nói mình chỉ trau dồi trí thức trong lúc chờ đợi các anh, nói thế cũng chẳng lấy gì thẹn mặt.
Nhưng việc đời không đợi Quê, không đợi ngày thứ ba trăm linh một. Kẻ thù không đợi ngày ba trăm linh một mới hoạt động mà. Về sau, chúng ta mới biết rằng thời gian những chuyến tàu cuối cùng chở nhân dân và cán bộ đi từ Quy Nhơn được bọn gián điệp Mỹ đặt tên là cái chiến dịch “ giải thoát ” của nó, và tay sai của Lênxđên có mặt tận huyện Bình Khê, huyện Vĩnh Thạnh này. Tỉnh và bọn chúng tôi chọn vùng núi này làm căn cứ có thể của mình, thì chúng cũng thính không kém, chúng đánh hơi ngửi thấy ngay từ buổi đầu, ngày đầu, ngày chưa phải là ngày đầu.
Chiều hôm ấy, xảy đến cho Quê một việc, Anh đang ở trong một quán giải khát thì tám thanh niên đến ngồi xung quanh anh. Chúng nhăn nhở, mắt nhìn anh chế riễu, không thân thiện, chỉ nguyên dáng điệu chúng đã báo chi anh biết việc chẳng lành.
— Đừng sợ — một thằng nói, giọng kẻ cả. — chúng tôi biết anh là Việt Minh ở lại, có thể đi thanh thiên bạch nhật thế này với mọi người là cũng chưa đến nỗi nào. Còn tụi tôi hết thời kỳ các anh tới thời kỳ tụi tôi, bắt đầu thời kỳ tụi tôi rồi, xã cũng rút rồi, rút hết rồi. Tụi tôi chỉ cần hỏi anh một câu rồi để cho anh đi: một mặt Việt Minh để anh ở lại, một mặt tàng trữ kho gạo, kho súng là nghĩa làm sao?
Quê ngơ ngác, vì câu hỏi bất ngờ, và nội dung Quê không hiểu gì hết. Quê, mặt tái xanh, tám xám, lắp bắp phân trần:
— Tôi trở về thường dân hơn năm nay rồi, tôi không rõ những việc đó.
Thằng kia gằng giọng:
— Thôi được, coi như anh là thường dân. Thường dân có cái lẽ phải của thường dân. Giả tỉ như có cái kho gạo, kho súng đó, ý kiến anh thế nào?
Quê thấy gai ốc trong người nổi hết lên cả rồi, nhưng nói tình thực, anh cũng còn nói được một câu chống chế cho cách mạng:
— Nếu có cái đó thì chỉ là vì họ bỏ sót thôi, họ không làm như vậy đâu.
— A, đúng. Nghĩa là anh cũng đồng tình với tụi tôi là bất hợp pháp? — tên kia chụp lấy, quác mắt nhìn Quê chằm chằm đợi trả lời.
Quê cúi gằm mặt, tự nhiên cảm thấy như người cùng đường, bỗng nhiên liên hệ rất nhanh đến việc mình ở lại và sự tồn tại của cái kho súng kho gạo đó — cái kho súng kho gạo, nếu có, thật ra chẳng còn dính dáng gì đến anh, thế nhưng anh cứ như người bị bắt quả tang, và bụng dạ đã bắt đầu run lên rồi. Chỉ có một tiếng để trả lời câu hỏi của tên kia thôi. Câu chống chế tưởng là khôn ngoan vừa rồi của anh dẫn đến cái tiếng này nữa là hợp lý: anh “— Vâng” có chiều hơi vội vã một chút, như một người đến lúc quyết định đâm đầu xuống sông.
IV— Ai vậy? Ủa anh Quê! Sao anh chưa đi? Mà giờ này còn ở đây?
— Cháu được phân công ở lại đây mà, bác?
— Thật à? (một lúc, nói sẽ). Bây giờ là nó rồi, phải giữ mồm giữ miệng, sao lại nói vậy?
— Đúng hơn là cháu không được đi. Cháu cũng như Nghĩa, cháu tưởng bác đã biết?
— Tôi không hiểu. Thì tôi vừa đưa Nghĩa đi tập kết về đây! Thằng nghĩa hôm qua ở đây, bây giờ nó đi rồi.
— Thật không bác? Nó đi chuyến tàu nào?
— Chuyến cuối cùng, hồi năm giờ chiều, tôi ra tập mép canô tiễn nó, nhìn thấy tàu chạy tôi mới về. Tôi mới ở Quy Nhơn về đây, từ chiều hôm qua tới giờ rạc cẳng đi bộ! Mà sao anh có vẻ hốt hoảng vậy?
Vâng, mẹ tôi như vậy đây. Mẹ tôi biết rất rõ ngày giờ chuyến tàu cuối cùng. Mẹ tôi có biết tôi nói dối, mẹ tôi biết tôi ở lại. Về sau mẹ tôi nói: “— Mẹ chỉ có một mối lo là sợ con sinh dạ phản phúc mà ở lại, chứ con nhảy núi thì mẹ không sợ. Mẹ có thương nhưng mẹ không sợ. Cả ngày hôm ấy, chốc chốc con lại dặn mẹ, giảng giải cho mẹ chớ đem lòng giận hờn cách mạng, vậy là mẹ yên tâm rồi, biết con ở lại mà không phải là đứa phản phúc là yên tâm rồi. Còn khổ cực thì biết nói sao: Đảng bảo nhảy vào lửa cũng phải nhẩy vào, cái đó mẹ biết. Chia tay con ở bến đò Tân Thuận, mẹ quay đi ngay, là để cho con tưởng mẹ không biết, tiện đường nào thì con đi, chớ có ngần ngại vì cho là có người biết rồi, cho dẫu người đó là mẹ. Vả, mẹ cũng có việc của mẹ. Con đã lớn, Đảng chọn ở lại giao việc lớn chớ phải nhỏ đâu, thế mà ở suốt một ngày, mặc cho mẹ tha hồ nhận xét chứ không nhận xét được gì ở mẹ, thế là con vẫn còn khờ lắm. Mẹ có lo là lo chỗ ấy. Mẹ có việc của mẹ. Anh em họ còn tin mẹ hơn con: họ giao việc cho mẹ mà có cần giảng giải và an ủi như con đâu. Mẹ có việc của mẹ, và mẹ cứ lởn vởn cái ý nghĩ rằng thế nào ngày đầu cũng là ngày có chuyện. Mình không vội đi, nhưng bao giờ kẻ địch cũng vội đến. Quê thì không phải là địch, nhưng mới nghe nó nói một câu đã biết ngay nó không phải là ta nữa rồi, ta không phải như vậy nữa rồi. Nhưng mẹ vẫn xem chừng nó ở mức độ nào , và nó đến đây để làm gì, nếu cần thì giúp đỡ nó, tuy rằng chắc là giúp ngay không được. Thì Quê đã kêu lên:
— Nghĩa cũng không đi tập kết! Bác có đưa tiễn nó thật không?
— Cái thằng hỏi đã lạ, tao không đưa nó còn ai đưa? Người ta khủng bố đầy ra đó, nó ở lại làm chi? Nó đi thì tao côi cút làm vầy, nhưng nó đi thì tao yên tâm hơn.
— Nhưng nó cũng như con, có được đi tập kết đâu?
— Tình hình thay đổi, có quyết định lại sao đó. Mày tính, cán bộ xã cũng kéo rốc đi nữa là. Có lẽ cháu bỏ về nhà sớm quá sao đó nên cháu không biết.
— Bác bới cái gì cho nó đem đi ăn đường?
— (A, nó dò mình!) Đi có hai ngày, ra ngoài đó là sướng rồi, có cần sắm sửa cái gì đâu. Nghĩa nó cũng chẳng say sóng đâu nên không cần sắm sửa gì hết. Cái chăn xi ta nó cũng bỏ lại kia.
— Bác nói thật hả Bác?
— Một câu đó hỏi hoài! Bây giờ thời thế khác rồi, e lòng người cũng khác sao mà mày là người tra khảo tao đầu tiên đó Quê?
Nghe mẹ tôi trách, Quê đứng sừng sững như trời trồng. Anh bỗng đã trở nên như đứa bé đi một bước ngã một bước, mất hết trí khôn, chẳng biết lối nào mà lần.
VBọn phản động đã lén lút vào thị trấn huyện từ hôm trước. Trong đêm chúng đã thay quần áo, và mờ sáng, mọi người thức dậy đã thấy mọi đường ngang ngõ tắt đầy bọn cảnh sát mặc ka-ki vàng đứa đứng canh, đứa tay cầm chổi, tay xách lon hồ đi dán những tờ bố cáo. Một đoàn xe ngựa dài lộc cộc đi ngang qua huyện về phía núi. Mọi người còn đang hỏi nhau đoàn xe ngựa ấy đi đâu, thì ở phía núi đó có tiếng huyên náo. Tiếng mõ nổi lên rộn rã trong tiếng la thét giống như trong một cuộc xô xát. Bọn cảnh sát đứng sít lại với nhau ngăn đường không cho dân phố tọc mạch đang muốn kéo lên hướng đó, nhưng một lúc thì ai cũng rõ là chuyện gì. Quốc gia mới về chưa kịp nghỉ giải lao đã muốn xuất kỳ bất ý bắt tay vào tịch thu một kho gạo nói là của Việt cộng để lại. Nhưng dân làng, làng Hà Ri, đang kéo ra ngày càng đông: đối mặt với bọn cảnh sát, họ xếp hàng thành hai hàng, dáo mác tên ná, một ná hai bó tên, một hàng năm người, một hàng chín người, có cả tả biên và hữu biên, vừa tiến vừa quát tháo:
— Ha! Lũ này cướp lúa của cách mạng! Cách mạng đi để lúa cho đồng bào ăn, sao không để đồng bào ăn mà bọn bay ăn cướp?
Bọn cảnh sát vừa lui vừa đe:
— Quốc gia về rồi mà bọn này còn làm giặc!
— Chúng tao làm gì mà bay nói làm giặc? Đứa nào cướp lúa mới làm giặc.
Bọn quốc gia lừa sập được cửa, nhốt cả toàn nhân dân Hà Ri trong kho thóc.
Những người bị nhốt trong kho đập thình thình rung chuyển cả mái nhà, và trong kho vẫn không ngớt tiếng mõ, và tiếng chửi rủa.
— Cho bây chửi — một thằng ngụy nói, nó là một trong tám thằng thanh niên Quê gặp trong quán giải khát — tao đi tìm thằng Quê, nó là Việt minh, nó nói chuyện phải trái với chúng mày.
Nhưng vừa ngửng lên, tất cả xóm vùng kho gạo cơ hồ bị vít chặt. Liên lạc đã về báo tin không lành với nhân dân xã Vĩnh Phúc. Làm sao? Nó bắt hết rồi. Không sợ, ta kéo lên nữa. Liên lạc về xã Vĩnh Hiệp. Làm sao, nó nhốt ư? Cho nó nhốt! Bà con cô bác ơi, cả xã Vĩnh hiệp ơi, nổi chiêng lên, nổi mõ lên, báo cho già trẻ lớn bé ai nấy đều biết, quốc gia vừa đến huyện ta đã giở trò cướp bóc bắt người, hiện đã bắt của ta mười bốn người. Trùng trùng điệp điệp người Ba-Na thân độc một chiếc khố quấn ngang, chân trần, tất cả đeo lục lạc vào chân như phong tục cổ xưa mỗi khi ra trận, tay cầm dao dài, để uy hiếp đối phương, hè nhau khênh cả thân cây chuối đi, khênh cả cột kèo nhà đi, vừa đi vừa phạt dao sắt ngọt vào thân chuối, cột nhà kèo nhà để lao vào đối phương nếu cần, để thui đốt những đứa gian phi nếu cần, để làm hàng rào chiến đấu nếu cần, đây là quốc gia tới đã giở trò khiêu khích đối với nhân dân, định cướp bóc mồ hôi nước mắt của nhân dân, muốn nắn gân nhân dân thì đây là một trận sống mái.
Thấy bà con Ba Na làm dữ, đến lúc đó một tốp người đi xe đạp mới từ huyện đến. Tên quận trưởng, mặc quần áo lính, lưng đeo súng ngắn, cười nhăn nhở: — Nhân đây, tôi xin ra mắt bà con luôn. Tôi công nhận anh em thừa hành có hấp tấp. Nhưng lúa này quả là lúa cộng sản. (Nó chìa ra một nắm) Đây, bà con coi lại, đây là lúa ruộng chớ phải lúa nương đâu?
Tức thì tiếng nhao nhao nổi lên phản đối:
— Ông ở đâu mới về nói tức cười! Lúa mà quốc gia cũng phân biệt cộng với không cộng, còn người thì sao? Lúa gạo đó là của Việt minh. Việt Minh đi tập kết, Việt Minh cho nhân dân phòng đói. Chưa đói, nhân dân chưa ăn, nhân dân để đó, can cớ gì động vào?
Sau cùng, bọn cảnh sát và ngụy quyền huyện đành phải rút hết, để lại nguyên kho gạo. Cảnh giác, nhân dân từng bao một hè nhau khênh hết vào trong các làng buôn.
Đó là chuyện có thật xảy ra tại huyện Vĩnh Thạnh, ghi vào lịch sử truyền miệng của dân xã Vĩnh Phúc, xã Vĩnh Hiệp, làng Tà Lóc, làng Hà Ri, và những làng vẫn còn quen được gọi theo tên chiến đấu là L ba, L bốn, M một, M hai , ngày đầu tiên, sau khi quân ta đã tập kết ra miền Bắc, và chế độ Ngô Đình Diệm theo chân thực dân Pháp và đế quốc Mỹ bấy giờ còn rình mò, vừa mới kéo đến.
VISáng hôm ấy, Quê ở lại nhà ta. Cả xã Bình Quang và các xã thuộc Vĩnh Thạnh, lan xuống tận Bình Khê nói chung huyện Tây Sơn bây giờ — không khí sùng sục như nước sôi. Mẹ bảo Quê cứ yên tâm nằm trên giường vốn là cái giường của con mà nghỉ đi. Nhưng nó không đứng đâu ngồi đâu yên, người cứ run cầm cập như cái lá. Mẹ nhìn thấy Quê, hiểu hết mọi việc. Người này ắt đang mang điều không lành tới cho mẹ, mẹ bỗng nhiên có linh tính thế. Nhưng mẹ không thể mở miệng bảo anh ta đi lúc này. Chúng nó đang lục tìm anh ta khắp các ngả đường, khắp các nhà của xã Bình Quang. Bây giờ chúng không cốt dùng miệng anh ta, một cán bộ kháng chiến cũ để giải thích giúp, chứng nhận giúp với đồng bào miền núi mà chúng vẫn yên trí là khờ khạo rằng cái kho gạo đó quả là không hợp pháp, nhưng chúng đã nghi rằng cuộc đấu tranh dữ dội sáng nay của dân các làng làm cho chúng vuốt mặt không kịp là do anh ta, ít nhất là do anh ta báo tin, báo tin tức là xúi giục, — Anh — mẹ không mầy tao với nó nữa, mẹ gọi nó bằng anh — anh mà ra đường bây giờ thì chúng nó ăn thịt. Chúng nó đang tìm anh. Anh cũng như thằng Nghĩa con tôi thôi, nhưng chúng mà tìm thấy anh trong nhà tôi, chúng nó cũng không để tôi sống đâu. Nó nhân đi tìm anh, sục vào các nhà để điểm mặt xem người nào là cán bộ lén lút ở lại đây. Vào đây, chúng nó sẽ lục tìm thằng Nghĩa gắt lắm. Tôi không biết giúp anh nấp thế nào đây. Thôi được, anh ra ngoài vườn, nằm giữa hai vồng khoai lang, tôi đắp gơ khoai lang lên người cho, chúng nó chẳng ra đó làm chi đâu, không ngờ đâu. Tôi là một mụ già tứ cố vô thân, thấy anh như thấy con tôi, anh gặp hoạn nạn thì tôi giúp, anh làm việc gì tôi không biết đâu, chớ để cái họa cho tôi.
VII— Anh nghĩa.
— Cậu là ai?
— Em là Vần, em được phái đi đón anh. Em biết anh mà anh không biết em. Hồi còn nhỏ, em hay qua Bình Quang, thường bán củi cho bà.
— Lớn, cậu không bán củi nữa?
— Em đi làm công tác chớ anh. Em là trung đội phó dân quân mà.
— Tại sao cậu không đi tập kết?
— Em là dân quân, em đâu có bắt buộc phải đi tập kết? Tuy vậy, trên cũng cho đi. “— Nhưng mà địa phương đang rất cần anh, anh nghĩ thế nào” Thế thì tôi ở lại đã, chứ còn nghĩ thế nào! Mà địa phương đang khó khăn thật. Biết chính quyền ta sắp đi, bọn xấu ngóc đầu dậy, đâm thọc dọa nạt, các làng mất đoàn kết lung tung, đánh nhau, bắt trâu, bắt lợn, bắt người. Làng Con Trót, Thơ Đo, Con Vấp trên, Con Vấp dưới. Huyện cử em thẳng về đó. Ba tháng sau, Huyện lại mời em đi tập kết. Em nói: “— Đây đã yên đâu mà đi?” Thế thì anh cứ tiếp tục — huyện bảo thế. Lần thứ ba huyện lại gọi em đi, em về sau cùng. Huyện lại hỏi, em lại nói. “Tôi đã tổ chức cho các làng ăn thề rồi, nếu các anh mất đoàn kết; các anh còn đánh nhau, các anh để cho đối phương lợi dụng. Việt Minh về, các anh chịu trách nhiệm”. Tôi đã hội nghị cà-rá, đã giao ước với họ thế, nhưng không có mình thì họ lại đánh nhau chứ. Huyện hỏi em: “— Thế anh muốn đi hay ở?” “— Tôi chết sống với cách mạng, em nói”. “Đi tập kết, có nhiều lợi cho anh”. “— Có nhiều lợi cho tôi, tôi biết”.
Thế là em được ở lại.
— Nhưng mà ở lại cũng buồn chứ?
— Thế anh buồn à?
— — Không, là mình hỏi cậu.
— Đồng bào thì có buồn đấy buồn thiu. Họ ngồi đâu cũng kể toàn kỷ niệm về Việt Minh. Nhưng em thì em không buồn, vì em thấy được cách mạng tín nhiệm. Ở đây sống bám dân bám đất thích chứ anh. Em ngang nhiên về sống hợp pháp với làng. Nhưng trên lại rút em đi, không cho em ở làng. Bây giờ em làm công tác này.
— Hãy nói: công việc , hay chỉ nói gọn: việc này thôi. Không được nói chữ. Trên chưa dặn cậu sao?
— Dạ, bây giờ em làm việc này. Anh đứng đây đã nhé, để em chạy tới trước xem có ai đi tới không đã. Ta phải đi sáng đêm mới tới đó anh.
— Tuổi thơ của tôi trôi qua dưới dãy núi này, mỗi sáng ngủ dậy ngẩng đầu lên nhìn thấy nó, xanh biếc, vắt qua mây trắng. Dải Trường Sơn đến vùng này tỏa ra y hệt một con sông, một con sông đổ xuống từ trên trời cao, từ trên Ngân Hà. Từ buổi ấu thơ, tôi đã có ảo tưởng như vậy về một vùng nước non hùng tráng kề cận quê tôi, mang những cái tên lẫm liệt và phấn chấn là Tây Sơn thượng, trung, hạ, với những hòn Ngăn, hòn Bong Bóng, hò Vỏ Cá, hòn Bạc Má, hòn Kho, hòn Đá Dàn, hòn Hoành Sơn, hòn Hội Sơn... đầy di tích và giai thoại hào hùng của người xưa. Tôi vừa đi lòng sảng khoái vừa ngờ ngợ như mình đã một hôm nào đó từng nằm mơ thấy y hệt cảnh đêm này, mình đi trên con đường đèo lịch sử này, với một người giao thông, như là tiểu đồng trong truyện cũ, bắt đầu đi vào thừa kế sự nghiệp của bao nhiêu bậc anh hùng. Chắc chắn là mình sẽ thành công như các vị đó, với các kinh nghiệm về địa hình địa vật của họ, với cái hào khí, với tấm gương vằng vặc tranh xanh sáng suốt đêm này của họ nữa, và với lòng tin vào giai cấp mới của mình, Đảng của mình. Kỳ lạ, anh bạn giao thông lúc thì đi ngang, lúc tranh vượt lên đi trước tôi, cứ thỏ thẻ hoài, chốc một câu, chốc lại một câu, tưởng chừng như chẳng ăn nhập vào nhau, và như không phải anh nói chuyện với tôi mà anh tranh thủ truyền đạt kinh nghiệm cho tôi, bởi vì tôi đi vào quê anh, tất nhiên tôi ngờ nghệch hơn, mà cuộc chiến đấu có thể xảy ra tức thì, anh với tôi có thể không gặp nhau nữa. Thật vậy không? Vần nói:
—Anh chỉ còn bà ở nhà. Gánh của anh có nhẹ hơn em đấy. Em còn cả mẹ, lẫn cha, cả năm em nữa, năm em li nhí lít nhít. Nhưng em cũng thấy nhẹ thôi. Cha mẹ em cũng thấy nhẹ thôi
Vần lại nói:
— Anh nè, em nói cái này anh chớ giận em nhé. Người dân tộc họ có thành kiến với một số các anh đấy. Các anh đến đâu, nhớ lao động, nấu cơm, quét nhà, làm nương, nghe. Đối với con gái người ta phải nghiêm trang, nghe. Đối với của cải người ta, chớ động chạm, nghe. Muốn cho người ta theo mình, mình phải thế, không thì nước đổ lá môn hết.
Vần lại nói nữa:
— Anh nè, em cho là thời kỳ qua, một số các anh bắt mối không trúng đâu. Thường các anh bắt mối vào những người biết tiếng Kinh. Nhưng biết tiếng Kinh là người có đi đây đi đó, có giao thiệp, thế là người tầng lớp trên rồi. Người dân tộc nào không biết tiếng Kinh người ấy mới thật là nghèo, anh ạ.
Và Vần nói:
— Ôi, bao giờ anh về đóng ở nước Tấn, anh vào nhà em.
— Cậu mới đi đã muốn về nhà lắm à?
— Không, anh không hiểu ý em mà. Em có thể đi luôn suốt đời với cách mạng mà. Em nghĩ thế này anh nghe được không: anh mà đến nhà em, thì cha mẹ em thấy anh cũng như trông thấy em, mà ông già em chắc chắn là người tốt rồi, có thể giúp cho anh cái gì được.
— Nhưng nhà cậu lộ rồi, vì ai cũng biết cậu ở lại — tôi nói:
Vần nín thinh một lúc, có vẻ buồn, rồi lại nói:
— Không lẽ gia đình cán bộ không nương tựa được nữa vì vậy hay sao anh? Em cho sắp tới, nó tất nhiên đánh vào chỗ đó, nhưng kiên cường cũng là chỗ đó. Cha mẹ vợ con ở nhà nói sao với con, với chồng, với cha đi xa? Ở đồng bằng là vậy, miền núi cũng vậy thôi.
Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Như vậy đó, đêm đó, cảnh đó, người thanh niên Ba Na tên là Vần, hoặc có sao nói vậy, hoặc không giữ kín mọi ý nghĩ được, nghĩ tới điều gì nói lên điều đó, dạy bảo tôi một cách hồn nhiên và thật trong sáng như thế.
Nhiều điều Vần nói, bản thân tôi có kinh nghiệm rồi, chiêm nghiệm rồi, được học tập thảo luận rồi, nhưng cả những điều nhắc lại ấy, nhắc thẳng với một giọng sâu xa như người nói nói là chỉ nói với mình, như là nguyện vọng, như là đạo lý, bất kể tôi là ai, làm chức vụ gì, nếu tôi không làm theo như thế thì người nói đó sẽ thất vọng lắm, thậm chí sẽ khinh lắm, tất cả những lời ấy của một người thanh niên quần chúng Ba Na, tôi coi là bài học đầu tiên của tôi trong cuộc kháng chiến thứ hai này. Trăng đã lặn rồi, núi rừng đã khép lại sầm tối rồi, nhưng cái giọng chuyện vãn thầm thì của anh có gì trong vắt nó sáng mãi trong lòng tôi.
Nhưng tôi không ngờ một phút sau đó, tôi mất anh.
Đang đi, bỗng Vần bấm tôi đứng lại để cậu tiến lên một mình. Thế đấy mà đợi mãi không thấy Vần trở lại nữa. Đúng ra thì tôi có nghe một tiếng kêu lên, nhưng đêm hôm, trong rừng nhiều tiếng dã thú giữa tiếng lá cây xào xạc lúc nào cũng như đang cơn gió to, tôi tưởng tôi nhầm. Tôi nép vào bên đường để đợi, dễ chừng đến hai tiếng, không thấy người nào đi ngược lại phía mình cả. Trời đêm mùa hè mà tôi lạnh muốn phát run. Biết là có chuyện chẳng lành, tôi định xé núi đi bừa, nhưng nhỡ Vần bị nạn nằm đâu gần đây trên đường đèo thì sao, cho nên tôi lại liều đi tiếp con đường chúng tôi đã đi, vừa đi vừa dò tìm. Nhưng vô hiệu.
Tôi không hiểu nổi việc gì vừa xảy ra, trong nhiều ngày. Vần bị một toán gian phi nào đi trước giết và vứt xác ở đâu đó, trên chặng đường tôi đã đi qua? Vần bị bắt cóc? Mà kẻ địch tưởng là anh ta chỉ đi một mình? Và tất cả cái đó diễn ra một cách nhẹ nhàng như là nó chuồi trôi đi theo đêm, như là nạn nhân bỗng nhiên tự ý bỏ tôi mà đi vậy. Anh ta bỏ tôi mà đi sau những lời trò chuyện như thế?
Tôi không có thời giờ suy nghĩ gì cả. Vừa nhìn thấy Hóc Điều là nơi tôi định đến và Vần có nhiệm vụ đưa tôi đến thì Hóc Điều bị càn. Một đại đội lính ngụy, từ dưới lên, xé rừng phục kích đổ ập vào làng định xuất kỳ bất ý bắt sống một số cán bộ mà nó nghi là lấy vùng núi làm căn cứ. Không bắt được cán bộ, nó quay ra tra khảo các gia đình, buộc họ tố giác lẫn nhau là cơ sở chứa chấp, bắt đi một số người trong đó có một cô gái, cô Li. Nó đánh đập cô Li tàn nhẫn quá, ông già cha cô Li là bok . Tới không nhịn được nữa, nhào chụp lấy súng của thằng thiếu úy, bắn nó một phát vỡ óc.. Bok Tới bình tĩnh nói với người làng trong lúc nó trói bok vào gốc cây để hành hình: “— Tôi vui lòng chết cho nó biết rằng không phải nó tới đây muốn làm cái gì thì làm.” Ông lớn tiếng gào lời vĩnh biệt Hồ Chủ tịch trong lúc chúng hốt hoảng chĩa thẳng súng vào họng ông. Tất cả dân làng thương cảm, khâm phục và khóc ròng. Từ đó, tự nhiên làng Hóc Điều có một tên nữa là làng Bok Tới.
“Đấu tranh có lý, có lợi, có chừng mực”. Anh em học, nói vậy, nhưng giờ thằng địch làm cách này. Tối hôm ấy, chúng tôi quyết định rút khỏi làng Hóc Điều, từ đây tạm thời theo phương án ba, nghiên cứu lại vùng nào là vùng có tính chất quyết định giữ phong trào, mình có thể trụ để lãnh đạo quần chúng đấu tranh thắng lợi, nắm phía trước mà củng cố phía sau, xây dựng phía sau làm căn cứ địa. Phải phát động quần chúng cơ bản, chuyển dần từng bước đưa quần chúng cơ bản lên làm chủ. Chúng tôi chia nhau mỗi người mấy xã đi làm việc đó. Đi một quãng khá xa, đến một nơi, chúng tôi kinh ngạc thấy bà con trong xã Hóc Điều đã đến đón đường từ bao giờ, khẩn thiết xin cán bộ cho đi theo bất hợp pháp . Chúng tôi cử một anh ra giải thích vị trí tình hình làng Hóc Điều. Sau vụ xảy ra ban sáng, chắc thằng địch chùn bước, ở lại đấu tranh hợp pháp hiện nay có lợi hơn. Chỉ anh em chúng tôi, vì quyền lợi của làng Hóc Điều và của cả địa phương này, phải tạm thời rút thôi, gọi là rút nhưng lúc nào cũng ngó chừng Hóc Điều. Dân làng dần dần nghe ra, song vẫn khăng khăng xin chúng tôi để lại cho làng ít nhất một cán bộ. Người ra giảng giải với dân làng liền được cắt cử theo luôn bà con trở về làng.
Chuyện kho gạo và chuyện Bok Tới xảy ra giúp chúng tôi hiểu thêm một cái gì đó về đường đi nước bước của địch, về tinh thần của dân, và về việc chúng tôi phải làm. Muốn hạn chế được địch, phải nắm được dân, phải duy trì cách mạng, phải kiên trì cách mạng, chỉ có thế thôi.
Những ngày sau đó, đối phương vẫn chưa tỏ ra chậm bước. Nó tàn sát cả một thôn ở bên dưới chúng tôi, giết lẻ tẻ nơi này nơi khác, tróc nã cán bộ, tung gián điệp lén lút đốt phá làng bản. Lợi dung địa hình đặc biệt, chúng tôi quyết định rà lại cơ sở, nếu cần thiết, tự mình xây dựng lại từ đầu, trang bị cho nhân dân ý thức đương đầu với bọn bán nước nay xuất đầu lộ diện và bọn giặc Mỹ đang nấp đằng sau chúng, còn tệ hơn thực dân Pháp nữa, và từ đấy tiến lên xây dựng khu căn cứ của huyện.
Tôi đến ở vùng làng Tà Lóc. Tà Lóc một trăm dân, một cà rá — người cà rá nói dân nhiều người nghe, vì nó có thành tích giết được một tên thực dân Pháp, mật thám hay khảo sát gì đó, năm bốn mươi, “trước cả Việt Minh nữa” như người làng này hay nói tự hào — ở xã Sông Côn, bắt đầu vào một trong những thung lũng hiểm hóc nhất của vùng Tây-sơn trung, các nương sắn cheo leo như những chiếc mũ son ở trên đầu. Nói ở làng , nhưng như về sau tôi trả lời câu hỏi dò của tên cà rá tôi “nay hòn đá này, mai hòn đá khác, như con chim con chuột”. Sự thật, tôi đóng “trụ sở” trong một cái rẫy, trong rẫy có một cái chòi cao dùng để canh chừng lợn lòi. Tôi thường làm việc trong tàn lá rậm rạp những bụi sắn, trưa tối mới trèo lên chòi. Tôi nghĩ rằng chiếm được một vị trí nương rẫy cao, tôi có khả năng hay biết rất nhạy người từ dưới lên. Tôi quyết định thay đổi cách ăn mặc, ăn mặc kiểu địa phương, chỉ mặc một cái khố, một cái áo cánh đen, và để tóc — để tỏ cho đồng bào Ba Na biết rằng mình không tự phân biệt tí nào với họ, cao quí của con người ở chỗ khác chứ không phải ở quần áo, và để cho kẻ địch, kẻ địch giá có bất thần vào làng, từ xa có nhác trông thấy tôi cũng tưởng tôi là người Ba Na, không phải một cán bộ nằm vùng . Tôi có một ít gạo anh em phân phối cho nhét đó đây trong các kẽ đá, vài ngày tôi mới ăn một bữa cơm nấu trong ống bương, còn những bữa khác toàn lót bụng bằng củ mài mà tôi phải lần mò đến năm bảy ngày mới biết cách đào. Tôi kiên quyết không động chạm đến cho dẫu là một gốc sắn trong cái nương tôi ở trọ. Không những thế, mỗi sáng sớm tôi đều có thì giờ tăng gia thêm, cắm lại hom x